← Quay lại trang sách

PHẦN V LXIV

Thế giới đầy những con người yếu đuối và cao quý hình dung rằng, quyết định tối hậu của nghĩa vụ là hành động hy sinh bản thân mình. Thế giới đầy những con người tuyệt vời, khi chẳng biết làm gì, đã đi tìm kiếm cơ hội hy sinh cuộc đời mình, và hành động này được coi là đức hạnh. Không, một đức hạnh cao cả nhất đòi hỏi chúng ta phải biết mình đang làm gì và học được cách lựa chọn cần phải hiến dâng cuộc đời cho cái gì. Nghĩa vụ của mỗi người trong chúng ta chỉ trùng hợp tạm thời với cái được anh ta coi là nghĩa vụ của mình mà thôi. Nghĩa vụ đầu tiên của chúng ta là làm sáng tỏ tư tưởng của chúng ta về nghĩa vụ. Từ “nghĩa vụ” thường hàm chứa nhiều lầm lẫn và sự vô tâm về đạo đức hơn một đức hạnh chân chính. Clytemnestre hy sinh cuộc đời mình trả thù Agamemnon vì cái chết của Iphigénie, và Oreste hy sinh cuộc đời mình để trả thù cho cái chết của Agamemnon. Nhưng giá như có một nhà thông thái đến và nói: “Hãy tha thứ cho kẻ thù của chúng ta” là đủ để bất cứ nghĩa vụ trả thù nào cũng bị loại bỏ khỏi nhận thức của con người. Có thể, sẽ chỉ cần có một nhà thông thái khác đến, để cũng bằng cách này xóa sổ phần lớn những nghĩa vụ kêu gọi sự hy sinh, - thế là đủ. Tạm thời cho đến lúc ấy, có một số quan niệm về sự chối từ, khuất phục và hy sinh thân mình đang làm cạn kiệt những sức mạnh đạo đức tuyệt vời nhất của nhân loại nhiều hơn là những thói xấu và thậm chí là những tội ác.

LXV

Vâng, sự khuất phục số phận là tốt và cần thiết do những thực tại chung và không thể tránh khỏi của cuộc đời; nhưng ở tất cả những điểm cần phải đấu tranh, thì khuất phục chỉ là sự bất lực, ngu dốt hay lười biếng trá hình. Cũng có thể nói đúng như thế về sự hy sinh thân mình, mà quá thường thấy chỉ là cánh tay yếu ớt còn giơ lên vô vọng. Biết hiến dâng thân mình một cách chân thành khi phải đối mặt với sự hy sinh và khi nó đem đến niềm hạnh phúc thật sự cho những người khác là một điều tuyệt vời; nhưng thật phi lý và vô ích cái việc dành cuộc đời cho sự kiếm tìm các cơ hội để xả thân và xem những sự tìm kiếm này như một thắng lợi tuyệt vời nhất của tinh thần đối với thể xác (nhân tiện xin nói rằng, người ta thường gán một ý nghĩa quá lớn cho cái thắng lợi của tinh thần đối với thể xác, bởi cái thắng lợi hư ảo này thường hơn cả là biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn của cuộc đời). Sự hy sinh có thể là một bông hoa mà đức hạnh tiện đường hái; nhưng chẳng phải để hái nó mà đức hạnh đã phải lên đường. Cái suy nghĩ cho rằng, vẻ đẹp của của tâm hồn là ở sự khao khát được hy sinh là một sai lầm ghê gớm. Vẻ đẹp hữu ích của nó là ở sự nhân thức của nó, ở tính cao cả và sức mạnh trong đời sống của nó. Quả thật là có những tâm hồn cảm nhận được mình chỉ trong quá trình hy sinh, nhưng cũng thật đúng, rằng đây là những con người chẳng hề có lòng dũng cảm và nghị lực để lên đường tìm kiếm một đời sống đạo đức khác. Nói chung việc hy sinh thân mình, tức là chối bỏ đời sống đạo đức của mình cho người nào muốn nắm bắt nó, là một việc dễ dàng hơn rất nhiều so với việc hoàn thành số phận đạo đức của mình và hoàn thành đến cùng nhiệm vụ mà vì nó thiên nhiên đã tạo ra chúng ta. Và nói chung về mặt đạo đức và thậm chí về thể chất, chết vì những người khác là một hành động dễ dàng hơn nhiều việc học được cách sống vì họ. Có quá nhiều người bằng cách này đang làm tê liệt bất kỳ một tinh thần chủ động nào, bất cứ một sự tồn tại mang tính cá nhân nào khi an ủi mình rằng, họ luôn luôn sẵn sàng hy sinh thân mình. Sự nhận thức không vượt qua cái suy nghĩ về việc hy sinh thân mình và cho rằng, nó tất toán sòng phẳng với chính mình, vì nó thường xuyên tìm kiếm cơ hội ban phát tất cả hơn là chiếm hữu, thực chất là cái nhận thức nhắm mắt và chìm sâu vào trong giấc ngủ dưới chân núi. Hiến dâng thân mình là một điều tuyệt vời, tuyệt vời hơn nữa nhờ hiến dâng thân mình mà chúng ta cuối cùng sở hữu chính mình. Nhưng nếu chúng ta không thể trao cho những người anh em của mình một cái gì ngoài nỗi niềm khát khao dâng hiến thân mình cho họ, thì chúng ta đã mạo hiểm trao cho họ quá ít. Bởi vậy, trước khi hiến dâng thân mình, chúng ta hãy cố gắng sở hữu nhiều hơn và đừng nghĩ rằng, khi hiến dâng thân mình, chúng ta vậy là đã cứu mình thoát khỏi sự cần thiết phải sở hữu. Trong khi chờ đợi giờ phút hy sinh cần phải bận tâm đến một điều gì đó khác. Giờ phút này luôn sẽ đến. Nhưng đừng mất thì giờ vào việc thường xuyên tìm kiếm nó trên mặt đồng hồ của cuộc đời.

LXVI

Có những sự hy sinh khác nhau, và ở đây tôi không nói về sự hy sinh của những con người mạnh mẽ như Antigone, những người biết từ bỏ bản thân mình khi định mệnh, dưới hình thức là hạnh phúc rõ rệt của những người anh em của mình, ra lệnh cho họ phải từ chối hạnh phúc riêng và thậm chí cả sự sống. Tôi nói về sự hy sinh của những con người yếu đuối, về sự hy sinh ngắm nhìn sự bất lực của mình với một vẻ tự mãn ấu trĩ, về sự hy sinh lấy làm hài lòng, như bà nhũ mẫu mù ru chúng ta ngủ bằng đôi tay khô gầy của sự chối từ và những đau khổ không cần thiết. Chúng ta hãy nghe xem John Ruskin, một nhà tư tưởng tuyệt vời thời nay nói gì về đề tài này: “Ý Chúa là làm sao chúng ta sống bằng niềm hạnh phúc và bằng sự sống của những người anh em của chúng ta, chứ không phải bằng những bất hạnh và cái chết của họ”. Có thể có những tình huống con cái phải chết vì cha mẹ của mình, nhưng trời cao muốn chúng sống vì họ. Với cha mẹ, người con chẳng phải bằng sự hy sinh của mình, mà bằng sức mạnh của mình, niềm vui của mình, bằng nguồn nghị lực sống của mình, sẽ làm hồi phục sức lực cho họ, như mũi tên trong tay người khổng lồ. Cần phải nói đúng như thế về tất cả các chân lý và các mối quan hệ khác trên đời. Mọi người giúp nhau bằng những niềm vui sướng của mình, chứ không phải bằng những nỗi buồn khổ của mình. Họ, xét cho cùng, được sinh ra đâu phải để sát hại bản thân mình vì nhau, mà để nâng đỡ tinh thần cho nhau. Và trong bảng liệt kê được họ dùng, tôi nghĩ rằng, những sự hy sinh vô thức và quá nhu thuận cần phải liệt vào những lầm lẫn mang tính định mệnh nhất. Có một số người làu làu tâm niệm rằng đau khổ tự thân nó là đức hạnh; họ vì thế tiếp nhận đau khổ và buồn thương như số phận không thể tránh khỏi của mình, mà không hiểu rằng, nếu thất bại của họ nguy hại cho kẻ thù của họ hơn là với chính họ, thì nó vì thế chẳng kém thảm hại hơn.

LXVII

Người ta nói với chúng ta: “Hãy yêu người thân như chính bản thân mình”. Nhưng nếu yêu chính bản thân mình bằng một tình yêu hẹp hòi, ấu trĩ và dè dặt, thì bạn cũng sẽ yêu người thân bằng chính tình yêu như thế. Bởi vậy bạn hãy học yêu bản thân mình bằng một tình yêu lớn lao, lành mạnh, sáng suốt và trọn vẹn. Điều này chẳng dễ dàng như chúng ta tưởng đâu. Chủ nghĩa cá nhân của một tâm hồn nhìn xa trông rộng và mạnh mẽ thực chất chứa đựng trong mình nhiều tình yêu hơn toàn bộ sự thủy chung của một tâm hồn mù lòa và yếu đuối. Trước khi tồn tại vì những người khác, bạn phải tồn tại vì chính bản thân mình đã. Trước khi hiến dâng thân mình, bạn phải có được bản thân mình đã. Bạn hãy tin rằng việc có được một phần nhỏ nhận thức của bạn kết quả hóa ra lại ngàn lần quan trọng hơn sự hy sinh hoàn toàn vô ý thức của bạn. Hầu như tất cả các sự nghiệp vĩ đại của thế giới này được những người không mảy may nghĩ đến việc hy sinh bản thân mình thực hiện. Platon không từ bỏ tư tưởng của mình để hòa chung những giọt lệ của mình với những giọt nước mắt của tất cả những ai khóc thương ở Athènes. Newton không vứt bỏ những nghiên cứu của mình để lên đường tìm kiếm các đề tài trắc ẩn và phiền muộn. Và đặc biệt là Marc-Aurèle (bởi ở đây chúng ta đang nói về sự hy sinh thường được dâng hiến nhất và nguy hại nhất), Marc-Aurèle chẳng dập tắt nguồn sáng của tâm hồn mình để làm cho tâm hồn bất chính của Phaustine được hạnh phúc hơn. Mà kỳ thật là chân lý trong cuộc sống của Platon, Newton hay Marc-Aurèle cũng giống như chân lý trong cuộc sống của bất kể một tâm hồn nào. Bởi bất kể một tâm hồn nào trong phạm vi của mình đều có đúng những bổn phận với chính bản thân mình như tâm hồn của những con người vĩ đại nhất. Chúng ta hãy nhất quyết thuyết phục bản thân mình rằng, nghĩa vụ tối cao của tâm hồn chúng ta là phải làm một tâm hồn toàn vẹn, hạnh phúc, độc lập và cao cả trong chừng mực có thể. Vấn đề nói đến không phải về chủ nghĩa cá nhân hay lòng kiêu hãnh; nhưng bạn trở thành một người thật sự cao thượng, thật sự khiêm nhường chỉ khi bạn có được một tình cảm tươi sáng, tin tưởng và ôn hòa với chính bản thân mình. Có thể hiến dâng thậm chí cả lòng khao khát xả thân cho mục đích này, bởi sự hy sinh đâu có phải là phương cách để trở thành một người cao thượng, mà là dấu hiệu cao quý của tâm hồn.

LXVIII

Khi cần thiết chúng ta sẽ sẵn sàng dành cho những người anh em bất hạnh của chúng ta tài sản của chúng ta, thời gian của chúng ta, cuộc đời của chúng ta. Tuy nhiên, đây là thứ tặng vật đặc biệt hiếm hoi trong đôi ba tiếng ngắn ngủi. Nhưng nhà thông thái không nhất thiết phải xem nhẹ hạnh phúc của mình và toàn bộ sự sinh tôn quanh ông ta chỉ để cho việc sẵn sàng sống một hoặc hai tiếng đặc biệt với cái chủ nghĩa anh hùng lớn hay nhỏ. Trong lĩnh vực đạo đức cần phải dành sự ưu ái hơn cho những nghĩa vụ thường ngày, những hành động hữu ái không suy giảm. Bởi vậy trong dòng đời thường nhật cái duy nhất và thường xuyên được tái hồi là cái chúng ta có thể trao tặng, mà không tổn hại đến bản thân mình, cho những tâm hồn hạnh phúc hay bất hạnh của những người đang đồng hạnh cùng chúng ta trên chính con đường đời ấy, - đó là sức mạnh, sự tin tưởng, tình cảm an hòa thuộc về tâm hồn chúng ta. Đó là lý do tại sao một người khiêm nhường nhất cần phải tuân thủ và mở rộng tâm hồn mình, như thể biết rằng, sứ mệnh của anh ta sẽ là an ủi hay làm vui lòng Chúa. Để bồi dưỡng tâm hồn mình, cần phải luôn luôn đào luyện nó cho những mục đích tuyệt vời. Chỉ trong phạm vi này và chỉ trong điều kiện này mới có thể có được việc hiến dâng thân mình một cách thật sự cho những người khác, và sự hy sinh đích thực được thực hiện. Và phải chăng bạn nghĩ rằng, khi thời khắc đã điểm, cái được Socrate hay Marc-Aurèle, - những người đã sống cả ngàn cuộc đời, đã cả ngàn lần xem xét toàn diện cuộc đời mình, - dâng hiến chẳng giá trị hơn ngàn lần cái mà một người có thể cho đi nhưng không có được một bước tiến nào trong nhận thức của mình? Và phải chăng bạn nghĩ rằng, nếu Chúa tồn tại, Người sẽ cân đo sự hy sinh chỉ theo lượng máu của thể xác chúng ta, còn tinh huyết của tâm hồn, tức là phẩm hạnh của nó, sức khỏe của nó, đời sống đạo đức của nó và toàn bộ sức mạnh tích tụ suốt bao năm chẳng có một giá trị nào?

LXIX

Một tâm hồn trưởng thành đâu phải khi nó dâng hiến thân mình. Trái lại, cùng với mức độ trưởng thành cùa mình nó mất hẳn [quan niệm] hy sinh thân mình, giống như một du khách khi leo lên núi sẽ mất đi hình bóng bông hoa dưới thung lũng. Sự hy sinh là dấu hiệu tuyệt vời của nỗi bất an của tâm hồn; nhưng chẳng nên làm tăng lên trong bản thân mình sự bất an vì chính nó. Tất thảy đều có vẻ là sự hy sinh trong một tâm hồn chỉ vừa mới thức tỉnh. Nhưng có rất nhiều điều còn giữ cái tên là sự hy sinh đối với một tâm hồn có thể có được một cuộc đời mà trong đó lòng trung thành, nhân từ và sự chối từ không phải là các gốc rễ cần thiết, mà là những bông hoa vô hình. Thực sự là, có quá nhiều người cảm thấy cái nhu cầu hủy hoại, - thậm chí hoàn toàn vô ích, - hạnh phúc thuộc về họ, tình yêu, hy vọng chỉ để thấy chính mình trong ánh sáng của sự hy sinh bùng cháy. Có thể nghĩ rằng, họ mang một ngọn đèn mà họ chẳng biết sử dụng, và khi đêm đến họ mong muốn ánh sáng đến mức trút dầu của nó cho một ngọn đèn khác lạ.

Chúng ta sẽ chẳng bắt chước người gác đèn biển, mà theo chuyện kể lại, anh ta đã cho những người nghèo ở những túp lều gần đấy số dầu của những ngọn đèn lớn được dùng để soi sáng đại dương. Bất kể một tâm hồn nào trong môi trường của mình cũng đứng canh gác cho một ngọn hải đăng có phần nào đó thiết yếu. Một bà mẹ nhẫn nhịn nhất hoàn toàn mê mụ, sau não, bế tắc bởi những trách nhiệm nhỏ nhát của mình trong vai trò người mẹ, cũng đúng như người gác đèn nọ đem ban phát số dầu của mình cho người nghèo; và những đứa con của bà ta sẽ suốt đời đau khổ bởi tâm hồn người mẹ của chúng đã chẳng tươi sáng đúng như nó có thể. Sức mạnh vô hình bừng sáng trong con tim chúng ta, trước hết phải soi sáng cho chính nó. Chỉ với điều kiện này nó mới soi sáng con đường cho những người khác. Dẫu ngọn đèn của bạn có nhỏ đến đâu chăng nữa, thì cũng đừng bao giờ đem cho một ai số dầu dung dưỡng cho nó; hãy trao cho nó ngọn lửa biến nó thành ngọn hoa đăng.

LXX

Không còn nghi ngờ gì nữa, lòng vị tha sẽ luôn luôn là trọng tâm của một tâm hồn cao thượng; nhưng những con người yếu đuối đánh mất mình trong những người khác, trong khi những con người mạnh mẽ có được chính bản thân mình trong họ. Đó là sự khác biệt lớn giữa những người yếu đuối và mạnh mẽ. Có một điều gì đó còn tuyệt vời hơn việc yêu người thân như chính bản thân mình. Đó là yêu chính bản thân mình trong người thân. Có lòng nhân hậu hiển hiện trước một số người, và có lòng nhân hậu dặt dẹo theo sau một người. Có lòng nhân hậu làm suy yếu, và có lòng nhân hậu bồi bổ. Chúng ta đừng quên rằng, trong giao tiếp những tâm hồn hào phóng nhất không phải là những tâm hồn luôn luôn cho đi. Một tâm hồn mạnh mẽ luôn thu nhận thậm chí ở cả những người nghèo nhất; một tâm hồn yếu đuối luôn phân phát, thậm chí cho cả những người giàu có nhất. Nhưng sự sẵn sàng ban phát đôi khi chỉ là biểu hiện cho tính hà tiện đã bị mất đi lòng dũng cảm. Và nếu như Chúa có một lúc nào đó hiển linh để tính sổ với cuộc đời, chúng ta, có lẽ, sẽ thấy rằng, chúng ta thu nhận khi cho đi, và cho đi khi chiếm đoạt. Điều thường thấy là, một tâm hồn tầm thường bắt đầu trưởng thành chỉ từ cái ngày nó gặp một tâm hồn khác đã làm cho nó khánh kiệt.

LXXI

Tại sao chúng ta không nhận thấy rằng, nghĩa vụ tối thượng của một cuộc đời hoàn toàn chẳng phải ở việc khóc cùng những người đang nức nở, đau khổ cùng những người đang đau khổ và đặt trái tim mình ra cho mọi người qua đường để họ giày vò hay nâng niu? Những giọt nước mắt, những đau khổ, những vết thương cứu vớt chúng ta chỉ chừng nào chúng không lấy mất đi cái đời sống đầy sinh lực. Và chúng ta không bao giờ quên rằng, dẫu chức phận của chúng ta trên đời có là gì đi nữa, mục đích của những sự nỗ lực hay những hy vọng của chúng ta có là gì đi chăng nữa, kết quả của những nỗi buồn đau và vui sướng của chúng ta có thế nào đi chăng nữa, thì chúng ta trước hết cũng chỉ là những kẻ canh giữ mù lòa của cuộc đời. Đây là cái chân lý duy nhất tuyệt đối đúng, cái điểm cố định duy nhất trong đạo lý của con người. Chúng ta được sống, và chúng ta chẳng biết vì lẽ gì, nhưng hiển nhiên là chẳng phải để chúng ta làm suy nhược hay đánh mất sự sống. Chúng ta thậm chí là hình thức đặc biệt của sự sống trên hành tinh của chúng ta: sự sống tư duy, sự sống tình cảm. Và đó chính là lý do tại sao tất thảy những gì có thể làm giảm bớt sự căng thẳng của tư duy và độ cuồng nhiệt của tình cảm, có lẽ, là vô đạo đức. Chúng ta cố gắng kích hoạt, tăng cường, làm cho ngọn lửa cuồng nhiệt này trở nên tuyệt vời, nhưng trước hết lại là cố gắng làm tăng thêm niềm tin của chúng ta vào sự vĩ đại và quyền lực của số phận con người. Quả thật là tôi cũng có thể nói: đó là niềm tin vào tính nhỏ mọn, yếu đuối và vặt vãnh của nó. Với cùng một nhiệt tâm dâng trào ấy ta có thể là một người bất hạnh lẫm liệt, cũng như là một người hạnh phúc uy nghi đấy. Và rồi, có thật là cũng thế cả thôi việc con người hay thế giới dường như thật đáng ngạc nhiên? Chỉ mong sao có một điều gì đó khiến chúng ta kinh ngạc và đánh thức trong chúng ta nhận thức hân hoan về sự vô cùng. Một ngôi sao vừa mới được phát hiện sẽ bổ sung thêm không chỉ một tia sáng cho những suy nghĩ, những đam mê và lòng dũng cảm của con người. Tất thảy những gì chúng ta thấy là tuyệt vời trong thế giới bao quanh chúng ta, đã trở thành tuyệt vời trong con tim của chúng ta; và tất thảy những gì chúng ta thấy xứng đáng được tôn thờ trong chính chúng ta, chúng ta cũng đồng thời tìm thấy ở cả những người khác. Nếu tâm hồn tôi sáng nay thức dậy, tìm thấy trong những suy nghĩ về tình yêu của mình một tư tưởng mới, làm nó tiến đến gần hơn đôi chút với Chúa, mà như chúng ta đã nói: [Chúa] chẳng thể là cái gì khác hơn là cái tuyệt vời nhất trong số các nổi niềm khao khát của nó, thì tôi sẽ thấy đúng cái tư tưởng này lung linh trong cặp mắt của kẻ cùng khổ mà một phút sau thôi sẽ đi qua dưới những ô cửa sổ nhà tôi và tôi sẽ yêu anh ta mạnh mẽ hơn, bởi tôi đã hiểu rõ hơn về anh ta.

Đừng nghĩ rằng, yêu như thế là vô ích. Nếu có một người đến một lúc nào đó nhận ra anh ta cần phải hành động như thế nào, thì chính là nhờ một số ít những người đã yêu như thế đấy. Đạo đức chân chính phải được sinh ra từ một tình yêu vô hạn của nhận thức. Lòng nhân từ vĩ đại là ở chỗ nâng cao phẩm giá của tâm hồn. Nhưng tôi chẳng thể nâng cao phẩm giá cho bạn nếu tự bạn không là người trước tiên đạt tới sự cao quý; tôi chẳng thể tôn sùng bạn nếu chính bạn không tìm ra trong bản thân mình một điều gì đó xứng đáng được tôn sùng. Nếu tôi thực hiện một hành động cao thượng, thì phần thưởng đẹp nhất cho tôi vì hành động này sẽ là niềm tin tự nhiên và cần thiết mỗi ngày càng tăng thêm và lớn hơn rằng, bạn cũng có thể thực hiện được một hành động đúng như thế. Bất cứ một suy nghĩ nào làm con tim tôi rộng mở, thì đồng thời cũng làm tăng thêm trong tôi tình yêu và lòng kính trọng dành cho con người. Trong khi tôi vươn lên, bạn cũng vươn lên cùng tôi. Nhưng nếu như để yêu bạn, tôi đã cắt cụt đi đôi cánh của tình yêu của tôi bởi một lý do là tâm hôn bạn còn chưa có được đôi cánh, thì nơi thung sâu những giọt nước mắt và những lời than vãn sẽ nhiều hơn gấp đôi, mà tình yêu chẳng tiến lên núi cao được một bước nào. Hãy cố gắng yêu từ đỉnh cao nhất mà chúng ta mong sao có thể đạt tới. Chẳng nên yêu do lòng thương người, trong khi chúng ta có thể yêu xuất phát từ tình yêu. Chẳng nên tha thứ do lòng nhân từ, khi mà chúng ta có thể tha thứ xuất phát từ sự công tâm. Chẳng nên an ủi khi mà chúng ta có thể học được cách tôn trọng. Ôi, chúng ta sẽ chú tâm và cố gắng không ngừng làm tăng thêm phẩm chất của tình yêu được chúng ta dành cho mọi người. Chiếc chén yêu thương được đong đầy trên những đỉnh cao quý giá hơn hàng trăm cái chén chúng ta có thể múc trong những bể tù đọng của lòng nhân từ tẻ nhạt. Và có thật là cũng thế cả thôi việc một người có hoàn toàn nhận ra hay không, - người mà bạn yêu không chỉ bởi lòng nhân từ, không chỉ vì những giọt lệ của anh ta, - anh ta có nhận ra hay không rằng, giây phút ấy bạn yêu anh ta vì anh ta được tôn sùng, đúng như yêu chính bản thân mình? Bạn đã hành động đúng như bạn cảm thấy thế là tuyệt vời nhất, dẫu cái tuyệt vời nhất này hóa ra chẳng có lợi lộc gì. Có nên chăng luôn luôn hành động trong đời như thể Chúa - Đấng mà mong muốn cao cả nhất của con tim chúng ta khao khát, - đang dõi theo chúng ta?

LXXII

Nhưng chúng ta sẽ quay trở lại với những quy luật lớn phức tạp. Vài ngày trước đây trong một thảm họa khủng khiếp định mệnh một lần nữa, bằng một cách thức rõ ràng nhất, thể hiện cái điều mà người ta gọi là sự bất công của nó, sự mù quáng của nó hay là sự tự tung tự tác của nó. Nó dường như cố ý trừng phạt một đức hạnh duy nhất trong số các đức hạnh biểu lộ ra, được lý trí lưu lại cho chúng ta; tôi đang nói về tình yêu đồng loại. Có thể là vào ngày hôm đó trong tòa nhà bị định mệnh gõ cửa có một số người mộ đạo không hoàn hảo. Nhưng trong số họ chắc chắn phải có chí ít là một người ngoan đạo chân thành và không vụ lợi. Sự có mặt hầu như chắc chắn của một người ngoan đạo như thế đặt ra hoàn toàn xác đáng cho chúng ta một câu hỏi đáng sợ, mà chúng ta không thể lảng tránh. Nếu không có con người ngoan đạo này, thì chúng ta có thể tự nhủ rằng, chúng ta không biết có bao nhiêu sự công bằng cao cả nhất đã can dự vào sự bất công mà chúng ta cảm tưởng như nó quá lớn. Chúng ta có thể tự nhủ rằng, cái được gọi là từ thiện, có lẽ, chỉ là một đóa hoa hết sức táo bạo của sự bất công thường trực. Con người ta không dám tin rằng, trong mọi sự việc ở bên ngoài anh ta phải tranh đấu, mà chỉ chú ý đến những thực tế và sức mạnh mù quáng: nước, lửa, không khí, định luật hấp dẫn và một vài điều khác. Chúng ta có nhu cầu biện bạch cho sự việc xảy ra. Và khi chúng ta làm ra vẻ như kết tội nó, thì chúng ta làm điều này cũng tựa như khi biện bạch cho nó trong quá khứ hay trong tương lai, bằng việc biểu lộ sự trăn trở nặng nề mà chúng ta trải nghiệm khi nhận ra rằng, có một người lương thiện đã thực hiện một hành động thấp hèn và đáng khinh bỉ.

Chúng ta cảm thấy khoan khoái khi tạo ra trong suy nghĩ một trường hợp lý tưởng, công tâm hơn chính chúng ta; và khi nó có thể thực hiện một sự bất công hiển nhiên, thì sau thoáng chốc kinh ngạc chúng ta trong thâm tâm lại trả lại cho nó toàn bộ niềm tin của chúng ta và tự nhủ rằng, chúng ta không biết được tất cả những gì nó biết, và nó có lẽ đã tuân theo những quy, luật mà chúng ta không thể thấu hiểu nổi. Chúng ta cảm thấy như thế giới quá ảm đạm nếu như sự việc xảy ra là trái đạo lý. Chúng ta cảm thấy như việc thiếu vắng một lẽ công bằng nào đó gìn giữ đạo đức của chúng ta là sự phủ nhận mọi đạo đức và mọi sự công bằng. Chúng ta đã bác bỏ cái đạo đức thấp kém và hạn hẹp của những sự trừng phạt và ban thưởng mà một tôn giáo thực tế nêu ra cho chúng ta. Nhưng chúng ta đồng thời cũng quên mất rằng, nếu như sự việc xảy ra được ban cho một cảm nhận nhỏ nhất về sự công bằng, thì cái đạo đức vô tư cao cả mà chúng ta mơ ước sẽ trở nên bất khả. Nếu bạn không tin chắc rằng, sự việc xảy ra là hoàn toàn bất công, thì sẽ chẳng có một công tích nào để đáng là một người công bằng. Chúng ta bác bỏ lý tưởng thần thánh và tin chắc rằng, việc thực hiện nghĩa vụ với niềm hy vọng vào một sự ban thưởng nào đấy, dù đó chỉ là sự nhận thức vui mừng về cái nghĩa vụ đã được thực hiện, chắc hẳn trong mắt Chúa anh minh cũng không có mấy giá trị, chẳng khác gì làm một điều ác, vì nó có lợi cho chúng ta. Chúng ta hãy sẵn sàng nói với mình rằng, nếu Chúa cao cả như cái tư tưởng cao cả nhất mà Người truyền thêm vào tâm hồn của những người ưu tú nhất trong chúng ta, thì Người phải tống khứ cho xa khỏi bản thân mình tất cả những kẻ mong muốn làm Chúa hài lòng, tức là tất cả những kẻ làm điều thiện không kèm theo cái cảm giác như thể Chúa không tồn tại, và những kẻ không yêu quý đức hạnh hơn yêu chính bản thân Chúa. Nhưng trong thực tế trước một biến cố nhỏ nhất chúng ta nhận thấy rằng, những cuốn sách ấu trĩ về “đạo lý qua các hành động của nó”, mà trong đó tất cả các tội ác đều bị trừng trị, vượt trội hơn không nhiều. Trái lại, chúng ta cần đến những tuyển tập về “các phẩm hạnh bị trừng phạt”. Chúng có lẽ sẽ có ích hơn cho những tâm hồn chân thật khi hỗ trợ cho lòng tự hào và nghị lực của cái thiện trong các tâm hồn này. Chúng ta đừng nên quên rằng, chỉ vì sự vô đạo đức của sự việc xảy ra mới cần phải sinh ra đạo lý chuẩn mực hơn. Và trong bất cứ sự việc nào con người càng cảm thấy mình bị bỏ rơi, càng dễ dàng có được sức mạnh của riêng mình. Trong những bất công quá lớn của một sự việc xảy ra, sự phủ nhận luật lệ đạo đức cao cả khiến chúng ta lo lắng; nhưng luật lệ đạo đức tối cao được trực tiếp sinh ra từ chính sự phủ nhận này. Cùng với việc hủy bỏ sự trừng phạt và ban thưởng, trong chúng ta mới xuất hiện sự cần thiết phải làm việc thiện vì cái thiện. Đừng bao giờ phải lo ngại, nếu chung ta cảm thấy như một quy tắc đạo đức đang biến mất: luôn luôn có dự trữ một quy tắc khác cao cả hơn. Cái chúng ta có lẽ thêm vào cho đạo lý của định mệnh là cái mà chúng ta có thể phảiloại bỏ khỏi phẩm hạnh thanh cao hơn của chúng ta đấy. Và trái lại, chúng ta càng tin chắc hơn rằng, định mệnh là bất công, thì chúng ta càng mở rộng và thanh tẩy trước bản thân mình các lĩnh vực đạo đức cao thượng nhất. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng, các nền tảng đạo đức sẽ sụp đổ vì chúng ta cảm thấy như Chúa thật bất công. Trái lại, chỉ có trong sự bất công rõ ràng của vị Chúa của mình thì đức hạnh của con người mới có thể tìm được những nền tảng không gì lay chuyển nổi của mình.

LXXIII

Chúng ta rồi sẽ quen với sự dửng dưng của thiên nhiên đối với nhà thông thái. Sự dửng dưng này khiến chúng ta kinh ngạc chỉ vì chúng ta chưa đủ thông thái; một trong những nghĩa vụ của sự thông thái là, với sự đúng đắn có thể và với sự khiêm nhường có thể, hiểu rõ về địa vị của con người trong vũ trụ.

Con người có vẻ vĩ đại trong lãnh địa của mình, giống như con ong có vẻ to lớn trên cái lỗ ở tầng tổ của mình. Nhưng dường như thật phi lý khi mong chờ trên những cánh đồng bừng nở thêm ít ra là một bông hoa do con ong chúa đã xử sự một cách anh hùng trong tổ của mình. Không nên lo ngại rằng, chúng ta đang hạ thấp giá trị bản thân mình khi đề cao vũ trụ. Dù chúng ta có cảm thấy ai là vĩ đại đi chăng nữa, chính chúng ta hay cả thế giới này, thì cảm xúc về cái vô cùng - đây là tinh huyết của mọi đức hạnh - với sức mạnh như nhau sẽ chuyển biến trong tâm hồn chúng ta.

Và một hành động tốt đẹp của chúng ta là gì, để chúng ta có thể mong đợi những phần thưởng nào đó vì nó? Những phần thưởng này chúng ta cần sở hữu trong chính bản thân mình, chứ không phải trong các định luật hấp dẫn. Chỉ những ai không biết cái thiện là gì mới đi đòi hỏi trả công cho việc thiện. Trước hết chúng ta đừng quên rằng, một hành động đức hạnh luôn luôn tương ứng với sự cảm nhận hạnh phúc. Một hành động như thế luôn luôn là một bông hoa của một đời sống nội tâm dài lâu, hạnh phúc và mãn nguyện. Nó luôn luôn cần có những ngày giờ nghỉ ngơi dài lâu trên những đỉnh cao bình yên nhất của tâm hồn chúng ta. Không một phần thưởng nào tiếp theo sau sánh được với phần thưởng bình an có trước [hành động tốt đẹp]. Người công chính chết trong tai họa mà tôi vừa kể đến có mặt ở đó chỉ vì ông ta qua việc từ thiện đã có được tính xác thực, có được một thế giới mà không một hạnh phúc nào, không một vinh quang nào, không một tình yêu nào có thể đem lại cho ông ta. Nếu như trước những con người như thế ngọn lửa mở lối, con nước phải lùi bước và chính cái chết cũng còn do dự, thì từ đây về sau điều gì sẽ xảy ra với những người anh hùng và công chính? Chuyện gì có thể xảy ra với niềm hạnh phúc của cái đức hạnh nhận thức được là mình hạnh phúc chỉ vì nó cao thượng và thanh khiết, và nó cao thượng và thanh khiết chỉ vì nó chẳng chờ đợi bất cứ một sự ban thưởng nào? Có niềm vui sướng mang tính con người là làm điều thiện trong khi cố gắng nhằm tới một mục đích nào đó; có một niềm vui sướng mang tính thần thánh là làm điều thiện mà chẳng hề mong đợi một cái gì. Thông thường, một người biết tại sao anh ta làm điều ác, nhưng chúng ta càng ít biết lý do tại sao chúng ta làm việc thiện hơn, thì cái thiện này càng thanh cao hơn. Để nhận ra giá trị của một người công chính, chúng ta sẽ hỏi lý do tại sao anh ta công chính: rất có thể là cái người, có lẽ, trả lời câu hỏi này kém hơn những người khác sẽ là người công chính hoàn hảo nhất. Có thể là theo mức độ trưởng thành của lý trí, số động cơ thúc đẩy tâm hồn đến với chủ nghĩa anh hùng sẽ giảm bớt đi; nhưng đồng thời lý trí cũng nhận thấy rằng, nó chẳng còn một lý tưởng nào khác ngoài cái chủ nghĩa anh hùng mỗi ngày càng thêm thành thật hơn và hào hiệp hơn.

Dù sao đi nữa, người nào cảm thấy nhu cầu phải làm tăng giá trị của đức hạnh bằng cách bổ sung thêm cho nó sự tán đồng của số phận và của thế giới là người còn chưa hoàn toàn sở hữu được đức hạnh. Một hành động chỉ có thể là tốt đẹp khi hành động vì chính bản thân mình mà không mong đợi một điều gì ngoài sự hiểu biết ngày càng sáng tỏ hơn rằng, cái thiện là gì. “Không có một chứng nhân nào khác ngoài con tim mình”, - Saint-Just nói. Tôi nghĩ rằng, trong mắt Chúa có sự khác biệt đáng kể giữa tâm hồn của một người tin chắc vào một điều là những tia sáng của một hành động đức hạnh không có giới hạn, với tâm hồn của cái người tự nhủ rằng, những tia sáng, có lẽ, không cần vượt qua hàng rào của con tim anh ta. Một chân lý quá đỗi tự ái, đáng tin có thể vào một thời điểm nhất định khích lệ cái sức mạnh lớn lao trong chúng ta; nhưng một chân lý khiêm nhường hơn và nhân ái hơn luôn khơi gợi cho chúng ta một sức mạnh bền bỉ và trọng đại hơn. Có cần thiết hay không việc phải là một người lính tin chắc rằng, vận hội chiến thắng được quyết định nhờ từng đòn đánh của anh ta, hay là một người lính khi biết anh ta chẳng mấy quan trọng trong trận chiến, thế nhưng vẫn chiến đấu với một lòng dũng cảm kiên cường? Một người trung thực có thể không dám lừa dối người thân, nhưng anh ta rất thường xuyên có ý nghĩ phần nào đánh lừa bản thân rằng, mình là biểu tượng cho sự phục vụ một lý tưởng.

Nhưng chúng ta quay trở lại với sự thất vọng của một người công chính. Tôi tin chắc rằng, những người ưu tú nhất trong chúng ta sẽ đi tìm cái hạnh phúc khác, nếu như đức hạnh là cái có lợi, và Chúa sẽ lấy đi của họ một trong những động cơ sống chính yếu, nếu như thường xuyên ban thưởng cho họ. Cũng có thể rằng, chẳng có gì trên thế gian là cần thiết, và rằng, nếu tước đi ở một tâm hồn niềm vui sướng làm việc thiện vì cái thiện, thì nó sẽ tìm thấy một niềm vui sướng khác còn trong sáng hơn; song, hiện giờ niềm vui sướng này là tuyệt vời nhất, thì chúng ta sẽ không động chạm đến nó khi không cần thiết. Chúng ta sẽ không quá thường xuyên động đến những nỗi đau khổ của đức hạnh, vì sợ sẽ đồng thời chạm vào cái bản chất thuần khiết nhất của niềm hạnh phúc của nó. Những tâm hồn đã thật sự được nếm trải niềm hạnh phúc này, cũng lấy làm ngạc nhiên khi thấy người ta mong được ban thưởng cho chúng, hệt như những tâm hồn khác ngạc nhiên khi thấy người ta muốn được trừng phạt chúng vì những nỗi khổ đau. Những người ít sống trong đức hạnh nhất lại là những người thường than vãn về những nỗi bất hạnh của nó hơn cả.

LXXIV

Minh triết Ấn Độ đã đúng khi dạy: “Hãy lao động như những người đầy tham vọng. Hãy trân trọng cuộc sống như những người khao khát sống đã làm. Hãy hạnh phúc như những người sống vì hạnh phúc”.

Tâm điểm của sự thông thái của con người là ở đây. Hãy hành động như thể mỗi một hành động sẽ đem lại trái quả lạ thường và vĩnh cửu, và đồng thời nên hiểu rằng một hành động công tâm thật nhỏ mọn làm sao trước vũ trụ. Cảm nhận được sự không tương xứng này, tuy nhiên vẫn thực hiện con đường của mình như thể có những sự tương xứng hợp nhân tính. Đừng đánh mất cái môi trường vĩ đại và tiến bước trong môi trường nhỏ bé của mình với thái độ tin cẩn ấy, lòng kiên định ấy, tín niệm ấy và với cảm nhận thỏa mãn như thể nó bao hàm trong bản thân mình cái môi trường vĩ đại.

Chúng ta có cần đến hay không những ảo tưởng để duy trì lòng khát khao cái thiện của chúng ta? Cứ cho là cần phải có những ảo tưởng ấy, thì cũng nên thừa nhận rằng, sự khao khát này không ăn nhập với bản tính của con người. Thật nông nổi khi nghĩ rằng, con tim còn tin rất lâu vào cái điều mà lý trí đã không còn tin nữa. Nhưng lý trí có thể tin vào cái điều được chứa đựng trong con tim. Nó thậm chí càng ngày càng thật lòng đi tìm kiếm nơi ẩn trú trong con tim mỗi khi bóng đêm buông xuống lãnh địa của nó. Bởi đối với con tim lý trí đóng vai là người thiếu nữ thận trọng, nhưng còn quá trẻ, vẫn thường xuyên cần những lời khuyên từ bà mẹ tươi cười và mù lòa của mình. Trong cuộc sống sẽ đến cái thời khắc khi vẻ đẹp luân lý dường như cần thiết hơn vẻ đẹp trí tuệ. Sẽ đến thời điểm khi mọi thành quả của lý trí cần phải biến thành sự cao cả của tâm hồn do nỗi sợ bị lạc lối một cách thảm hại giữa thung sâu, như con sông chẳng tìm được cho mình đường ra biển lớn.

LXXV

Song không nên cường điệu một điều gì khi nói về sự thông thái, thậm chí là [cường điệu] thái độ đối với chính sự thông thái. Nếu những sức mạnh bên ngoài không phải lúc nào cũng dừng bước trước một người làm điều thiện, thì những sức mạnh nội tâm trong đa số các trường hợp tuân phục anh ta, mà mọi niềm vui và khổ đau của con người ta bắt nguồn từ những sức mạnh nội tâm. Chúng ta đã nói rằng, nhà thông thái khi đi ngang qua cuộc đời, chấm dứt cả ngàn tấn bi kịch. Ông ta chỉ bằng sự hiện diện của mình chấm dứt phần lớn những thảm kịch xảy ra do lầm lỗi hay do sự độc ác. Ông ta chấm dứt chúng trong chính bản thân mình và ngăn cản chúng xuất hiện quanh mình. Có những người có thể thực hiện cả ngàn hành động điên rồ và tội ác sẽ chẳng thực hiện chúng vì trên con đường của mình đã gặp được một người có đạo lý dung dị và thiết thực, bởi trong cuộc sống phần lớn các tính cách là tầm thường, và do hoàn cảnh lạ lùng sẽ bước vào vùng khổ đau hay bình yên. Ví dụ như xung quanh Jean-Jacques Rousseau tất cả đều rên rỉ, tất cả đều bội bạc, tất cả đều đầy mánh khóe và mưu mô, tất cả như thể đang sống trong sự mê mụ; xung quanh Jean Paul tất cả đều trung thực, tất cả dường như đều cao thượng, trong sáng, tất cả đều bình tâm và tất cả đều đang yêu. Cái mà chúng ta chiến thắng trong bản thân mình, thì chúng ta đồng thời chiến thắng trong tất cả những người xung quanh chúng ta. Ở gần một người công chính luôn luôn hình thành một vòng tròn bình yên mà ở gần nó những mũi tên độc ác sẽ dần mất đi kỹ năng xuyên thấu. Những nỗi đau khổ về đạo đức xảy ra với anh ta sẽ không phụ thuộc vào mọi người.

Cần phải nói với đúng nghĩa đen rằng, sự độc ác của con người có thể buộc chúng ta phải khóc chỉ trong những lĩnh vực mà bản thân chúng ta vẫn còn chưa đánh mất ý thích làm cho kẻ thù của chúng ta phải rơi lệ. Nếu những mũi tên đố kỵ còn làm chúng ta bị thương, thì điều này chứng tỏ rằng, bản thân chúng ta còn có thể phóng đi những mũi tên như thế, và nếu sự phản bội còn khiến chúng ta rơi lệ, thì điều này chứng tỏ rằng, trong chính chúng ta vẫn còn ẩn giấu sự sẵn sàng phản bội. Chỉ có thể làm tổn thương một tâm hồn bằng chính những công cụ tấn công mà bản thân nó còn chưa ném vào ngọn lửa vĩ đại của tình yêu.

LXXVI

Còn về những bi kịch xảy ra do sự thiện tâm, thì chúng diễn ra trên sàn diễn bị giấu kín như nhau với nhà thông thái, cũng như với những người khác. Chúng ta chỉ thấy kết cuộc của các bi kịch này, nhưng không biết nó được trù tính trong bóng tối nào hay trong ánh sáng nào. Một người công chính có thể hứa hẹn với bản thân chỉ một điều rằng, định mệnh sẽ đuổi kịp anh ta trong khi thực hiện hành động yêu thương hay chính nghĩa. Nó luôn sẽ đuổi kịp chỉ trong tình trạng phúc lành, theo cách nói của các tín đồ Cơ đốc tức là trạng thái hạnh phúc nội tâm. Và một điều này thôi đã đóng sập cánh cửa đối với các số phận nội tâm ác nghiệt và phần lớn những cánh cửa đối với các trường hợp ngẫu nhiên ở bên ngoài.

Tùy theo mức độ khái niệm của chúng ta về nghĩa vụ và hạnh phúc được nâng tầm lên bao nhiêu mà cái vương quốc của những nỗi đau khổ về đạo đức sẽ càng trở nên thanh khiết hơn, nhưng phải chăng trong lĩnh vực này cái định mệnh thống trị một cách chuyên quyền nhất? Hạnh phúc của chúng ta rốt cục là phụ thuộc vào sự tự do nội tâm của chúng ta. Sự tự do này sẽ tăng lên khi chúng ta làm điều thiện, và giảm thiểu khi chúng ta làm điều ác. Chẳng phải với nghĩa bóng, mà đúng với nghĩa đen là Marc-Aurèle lại trở nên tự do hơn khi mỗi lần có được một chân lý mới trong sự khoan dung, khi mỗi lần tha thứ hay suy lý. Với nghĩa bóng ít hơn nữa Macbeth với mỗi tội ác của mình đã tự trói buộc bản thân bằng những xiềng xích mới. Và tất thảy những gì đúng với những tội ác lớn trên sàn diễn cung đình và những đức hạnh lớn lao trong cuộc đời của người anh hùng, thì cũng đúng với những hành động khiêm nhường nhất và với tất cả những đức hạnh huyền bí của một cuộc đời bình thường. Quanh chúng ta có rất nhiều những Marc-Aurèle chưa thoát ra khỏi tuổi ấu thơ, và những Macbeth vẫn còn sống trong sự ấu trĩ. Dấu tư tưởng của chúng ta về cái thiện có chưa hoàn thiện đến đâu chăng nữa, chúng ta chỉ cần rời bỏ nó một phút thôi là chúng ta sẽ rơi vào quyền lực của những thế lực độc ác bên ngoài. Một sự dối trá bình thường với chính bản thân mình, được chôn giấu trong sự im lặng của con tim tôi, có thể giáng một đòn đánh nguy hại cho sự tự do nội tâm của tôi như một hành động phản bội trên quảng trường đông người. Và cái tự do nội tâm của tôi vừa mới bị xúc phạm thì định mệnh sẽ tiến lại gần sự tự do bên ngoài của tôi, giống như con thú dữ từ từ lén đến gần con mồi mà nó đã rình đón đợi lâu rồi.

LXXVII

Có hay không cái bi kịch mà trong đó một người thật sự tuyệt vời và thật sự thông thái có thể cũng đau khổ như một kẻ độc ác? Dường như hiển nhiên rằng, trong thế giới này cái ác kéo theo mình sự trừng phạt không thể tránh khỏi hơn là đức hạnh kéo theo mình sự ban thưởng. Quả thật là tội ác thường trừng phạt mình với những tiếng la làng váng động, trong khi đức hạnh ban thưởng cho mình trong sự im lặng tạo nên khu vườn ẩn mật hạnh phúc của nó. Cái ác rốt cuộc sẽ dẫn dắt theo mình những thảm họa dữ dội, trong khi một hành động đức hạnh chỉ là sự hy sinh thầm lặng được cái quy luật sâu sắc nhất của sự tồn tại của con “người đem lại. Và đó là lý do tại sao chúng ta có cảm tưởng như cán cân công lý vĩ đại sẵn sàng nghiêng về phía bóng tối hơn là về phía ánh sáng. Nhưng nếu việc thực sự có ” hạnh phúc trong tội ác” là một điều đáng ngờ, thì phải chăng “bất hạnh trong đức hạnh” là điều thường gặp hơn? Trước tiên chúng ta loại trừ những nỗi đau khổ về thể chất, chí ít là những đau khổ mà nguồn gốc của chúng tiềm ẩn trong các khu rừng tăm tối ngẫu nhiên. Tất nhiên là cả đám đao phủ có thể ném Spinoza lên chiếc ghế tra tấn, và không gì có thể ngăn cản căn bệnh đau đớn nhất ập đến với Antonin Thánh thiện, cũng như với Régane hay Goneril. Toàn bộ điều này tạo nên không phải khía cạnh đau khổ mang tính người, mà là khía cạnh đau khổ có tính động vật. Tuy nhiên, chúng ta sẽ nhận thấy rằng, sự thông thái cắt cử khoa học, cô em út của mình, để nó mỗi ngày thu nhỏ thậm chí cả miền đau khổ về thể chất trong lãnh địa của định mệnh. Song trong những miền này, dù sao đi nữa vẫn luôn luôn còn một góc chẳng thể tiếp cận, nơi sự bất hạnh ngự trị. Luôn luôn có một ai đó sẽ trở thành vật hy sinh của sự bất công không thể tránh khỏi, và nếu cái điều tồi tệ nhất khiến chúng ta phiền muộn, thì nó ít ra cũng sẽ dạy chúng ta đền đáp lại cho sự thông thái hiện thực hơn, mang nhân tính và kiêu hãnh tất cả những gì chúng ta đã lấy đi từ sự thông thái quá đỗi thần bí.

Chúng ta trở thành những người công tâm từ cái ngày chúng ta buộc phải tìm kiếm điển hình của sự công tâm chỉ trong chính bản thân mình mà thôi. Hơn nữa sự bất công của định mệnh cho con người thấy cái địa vị thật sự của anh ta trong tự nhiên. Anh ta hoàn toàn không cần phải nhìn ngó quanh mình, tựa như một đứa trẻ còn phải tìm bà mẹ của mình. Chẳng có gì phải lo sợ rằng, những nỗi thất vọng như thế có thể tước đi nguồn sinh lực về đạo đức của chúng ta. Sự thật, dẫu cho nó có vô vọng đến đâu, vẫn làm cuộn sôi sinh lực của những người biết đón nhận nó. Bất luận thế nào, một sự thật vô vọng, chỉ nội một điều nó là sự thật thôi sẽ luôn luôn có ý nghĩa hơn sự giả dối tuyệt vời nhất khích lệ chúng ta. Nhưng trong thực tế làm gì có những sự thật vô vọng, mà là có những niềm hy vọng không tương hợp với sự thật. Cái khiến những kẻ yếu đuối rúng động lại làm cho những người mạnh mẽ trở nên vững vàng hơn. “Em nhớ đến tình yêu sâu đậm của chúng mình, - một người phụ nữ đã viết, - khi đứng bên ô của sổ rộng mở hướng ra biển, anh với em thấy vô số những con thuyền trắng xuất hiện nơi chân trời và thong dong về bến tàu nằm phía dưới chỗ chúng mình đứng… Ôi, em nhớ ngày hôm ấy rõ ràng đến thế! Anh có nhớ không, có một con thuyền cánh buồm gần như đen tuyền, và nó cập bến sau cùng. Anh cũng nhớ chăng khi giờ chia tay đến, anh cùng em đã rất buồn và quyết định coi việc con thuyền cuối cùng cập bến là tín hiệu cho việc lên đường. Trong sự ngẫu nhiên ban cánh buồm đến cho con thuyền cuối cùng ấy, chúng mình có thể thấy lý do cho nỗi buồn. Nhưng với tư chất của những người đang yêu “đã chấp nhận” cuộc đời, chúng mình tươi cười ghi nhận sự ngẫu nhiên này và một lần nữa thêm hiểu nhau.”

Vâng, đó là cái cách cần phải hành động trong cuộc sống. Chẳng phải lúc nào cũng dễ dàng nở nụ cười với sự xuất hiện của những con tàu đến, nhưng luôn luôn có thể tìm thấy trong cuộc sống một cái gì đó làm chủ chúng ta mà không khiến chúng ta buồn rầu, như tình yêu không làm cho người phụ nữ đã viết những lời này buồn rầu khi làm chủ cô ấy. Cùng với mức độ rộng mở của lý trí và con tim, chúng ta càng hiếm khi nói về sự bất công. Thật hữu ích việc nhắc lại với bản thân mình rằng, mọi điều trên thế giới này đều tuyệt vời với chúng ta, bởi chúng ta là thành quả của thế giới này. Quy luật của vũ trụ mà chúng ta cảm tưởng là nghiệt ngã có lẽ phù hợp với bản chất của chúng ta hơn tất cả các đạo luật tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể nghĩ ra. Rõ ràng là đã đến thời kỳ con người cần học cách đặt trung tâm của niềm kiêu hãnh của mình và của những niềm vui sướng của mình ở đâu đó bên ngoài bản thân mình. Cặp mắt chúng ta mở ra, và chúng ta cảm thấy mình ở trong quyền lực của một sức mạnh mỗi ngày càng lớn, khổng lồ hơn; nhưng đồng thời chúng ta mỗi ngày càng có được niềm tin nội tâm lớn và lớn hơn nữa rằng, chính chúng ta tạo nên một phần của cái sức mạnh này. Và thậm chí khi nó làm chúng ta tổn thương, chúng ta vẫn tiếp tục khâm phục nó như chàng Telémaque khâm phục sức mạnh của đôi tay cha mình.

Chúng ta dần dần tập cho mình biết suy ngẫm về sự vô thức của tự nhiên cũng với cái tính hiếu kỳ đầy vui sướng và cảm động mà cùng với nó đôi khi chúng ta dõi theo những chuyển động vô tình của sự vô thức của bản thân chúng ta. Có lợi ích gì trong việc chúng ta hướng ánh sáng lý trí yếu ớt của mình vào cái mà chúng ta gọi là vô thức trong tự nhiên và trong chính bản thân mình? Cả hai cùng thuộc về chúng ta một cách sâu sắc như nhau. “Sau khi nhận thức được sức mạnh của mình, - Guyau nói, - một trong những điểm ưu việt của con người là ờ chỗ, anh ta có thể nhận thức được sự bất lực của mình, ít ra là với tư cách một cá nhân. Do sự không tương ứng giữa cái vô hạn giết chết chúng ta và sự nhỏ mọn của riêng chúng ta mà trong con người chúng ta xuất hiện cảm giác về một sự vĩ đại nào đó: chúng ta thấy dễ chịu hơn khi là một kẻ bị đè nén bởi một ngọn núi hơn là bởi một tảng đá; trong trận chiến chúng ta thích được chết khi chiến đấu chống lại cả ngàn địch thủ hơn là chống lại một địch thủ. Có thể nói thế này, lý trí khi chỉ cho chúng ta thấy sự bất lực vô cùng của chúng ta, đã lấy đi ở chúng ta sự thương cảm về thất bại của chúng ta”.

Nào ai biết? Hiện giờ đã có những thời điểm, khi cái sức mạnh làm chúng ta tổn thương xâm chiếm chúng ta nhiều hơn cái phần sinh thể của chúng ta đang chịu đựng tổn thương. Không có gì dễ dàng đến thế thay đổi chốn nương thân của mình như lòng tự trọng, bởi bản năng cảnh báo chúng ta rằng, không có thứ gì tạo ra tài sản cho chúng ta ít đến thế. Lòng tự trọng của những triều thần bảo vệ cho một ông vua hùng mạnh tìm thấy chốn nương náu tuyệt vời trong quyền lực vô hạn của ông vua này; và sự hạ nhục trút xuống đầu họ từ trên ngôi cao hung bạo chạm đến lòng kiêu hãnh của họ ít hơn là nó giáng xuống từ đỉnh cao hơn. Nếu thiên nhiên trở nên ít thờ ơ hơn, thì chúng ta không cảm thấy nó đủ bao la muôn trùng. Những cảm nhận của chúng ta về sự vô hạn cần đến toàn bộ sự vô hạn của thiên nhiên, toàn bộ sự thờ ơ của nó để tự do hoạt động. Và một phần tâm hồn của chúng ta luôn luôn thích đôi lúc được khóc trong thế giới vô hạn hơn là được hạnh phúc trong một thế giới chật hẹp.

Nếu như định mệnh đối xử với nhà thông thái với sự công bằng thường lệ, thì điều này dĩ nhiên là tuyệt vời vì sự thể đã được như thế. Nhưng định mệnh đã dửng dưng, và điều này còn tuyệt vời hơn, và có lẽ, còn trọng đại hơn. Dù sao chăng nữa, điều này đem lại sự trọng đại cho vũ trụ bao nhiêu thì cũng lấy đi bấy nhiêu giá trị ở những hành động của tâm hồn chúng ta. Vả lại chúng ta đâu có mất gì, bởi không có sự vĩ đại nào biến mất đối với nhà thông thái, nó ở trong thiên nhiên hay trong đáy sâu nơi con tim của ông ta. Chúng ta cần hỏi cái vô hạn ở chốn nào để làm gì? Trong mức độ cái vô hạn có thể thuộc về một người, nó sẽ chỉ thuộc về người nào tôn sùng nó.

LXXVIII

Bạn có nhớ cuốn tiểu thuyết có tên “Pierrette” trong seri “Những kẻ độc thân” của Balzac không? Đây còn lâu mới là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, và tôi nhắc đến nó không phải có ý nói về chất lượng nghệ thuật của nó. Trong truyện miêu tả một cô bé người Bretone hiền lành, ngây thơ. Ngôi sao bất hạnh đã giằng giật lấy cô bé khỏi cả ông và bà của cô, những người yêu thương cô, và chôn vùi cô ở chốn thâm u của một thị trấn tỉnh lẻ, trong ngôi nhà buồn thảm của ông chú và bà dì có tên là Rogron và bà chị Sylvie của ông ta. Họ là những người chủ quán đã bán đi cái quán của mình và trở thành những kẻ tư sản thô lậu và nhẫn tâm, ngu ngốc kênh kiệu và keo kiệt, những kẻ độc thân bất an, tăm tối và một cách bản năng căm thù tất cả.

Cực hình của cô bé Pierrette bắt đầu ngay từ ngày đầu tiên cô đến. Thêm vào đó là những tình cảnh khốn khó về tiền bạc: những mối lo ky cóp tiền của, nỗi buồn phiền về hôn nhân, sự thỏa mãn lòng tự ái vật vãnh, chuyện thừa kế v.v. Những người hàng xóm, bạn bè của Rogron thản nhiên sống trong sự đau khổ tai hại chậm rãi và kéo dài [của Pierrette]; bản năng của họ vui sướng một cách tự nhiên với thành công của những kẻ mạnh hơn. Tất cả kết thúc với cái chết của Pierrette và sự mừng rỡ của nhà Rogron, tay luật sư Vinet đáng khinh và tất cả những kẻ a tòng với chúng. Từ nay trở đi chẳng có gì xâm phạm được hạnh phúc của những tên đồ tể. Chính cơ may có vẻ như cũng ưu ái chúng, và Balzac bất chấp ý nguyên, khi nhượng bộ cho thực tế của các sự kiện, dường như với lòng thương cảm đã kết thúc cầu chuyện của mình bằng một câu như sau: “Chúng ta cũng phải ngầm nhất trí rằng, pháp lý có lẽ là món lời cho sự lường gạt, nếu như không có Chúa”.

Chẳng cần phải tìm chỉ trong các cuốn tiểu thuyết một bi kịch như thế. Chúng hằng ngày đang diễn ra trong nhiều gia đình. Tôi mượn thí dụ này ở Balzac, vì ở ông chúng ta thấy câu chuyện thường ngày này ở dạng thức hoàn chỉnh cho thắng lợi của sự bất công. Chẳng có gì mang tính đạo lý hơn những thí dụ tương tự như thế, và phần lớn các nhà đạo đức học, có thể, đã sai lầm khi giảm nhẹ những bài học lớn như thế do mong muốn biện hộ về khả năng bất công của định mệnh. Có những người giao cho Chúa mối quan tâm về việc ban thưởng cho sự vô tội. Những người khác sẽ nói với chúng ta rằng, trong những chuyện rủi ro như thế nạn nhân không phải là người đáng được thương cảm nhất. Những người sau ấy rõ ràng đã đúng theo nhiều lẽ. Pierrette bé nhỏ bị truy bức và bất hạnh được biết những niềm vui mà những kẻ hành hạ cô bé không được biết đến. Cô bé mắt đẫm lệ vẫn là người biết yêu thương, dịu dàng và thùy mị, mà điều này đem lại nhiều hạnh phúc hơn cái tính ích kỷ hả hê, độc ác và thù hằn. Yêu một cách buồn khổ, không được yêu thương; nhưng còn đáng buồn hơn là tuyệt nhiên không hề biết yêu thương. Và phải chăng có thể so sánh những niềm vui sướng quái gở, những hy vọng thấp hèn và hẹp hòi của nhà Rogron với niềm hy vọng lớn lao của một cô bé trong tâm hồn đang đón chờ sự tận cùng bất công? Không có chi tiết nào trong cuốn tiểu thuyết cho chúng ta thấy Pierrette tội nghiệp thông minh hơn những kẻ ở quanh cô bé; nhưng người không đáng phải chịu khổ đau, trong khổ đau sẽ tạo cho mình viễn cảnh rộng mở đến độ ở một số điểm nhất định có thể tiếp cận với những niềm vui sướng của những tính cách cao cả nhất, giống như việc thậm chí dù không ở trên đỉnh núi cao, chúng ta đôi khi vẫn cảm thấy đường rìa của trái đất tiếp xúc với chân trời. Sự bất công do chúng ta thực hiện nhất định sẽ dẫn cuộc đời chúng ta đến những thỏa mãn nhục thể nhỏ mọn, và tùy theo mức độ chúng ta nếm trải chúng, chúng ta ghen tị nhìn nhận khả năng của nạn nhân của chúng ta ngày càng rõ ràng hơn và càng cố kiết hơn hưởng thụ những phúc lợi mà chúng ta không thể lấy đi ở nó, hưởng thụ tất cả những gì mà chúng ta không thể hiểu được rằng, chúng chẳng hề có quan hệ trực tiếp gì với vật chất. Một hành động bất công mở rộng trước nạn nhân chính cái cánh cửa mà gã đao phủ đã đóng sập lại với tâm hồn của mình, và khi ấy người đang chịu đau khổ hít thở bầu không khí trong lành hơn kẻ đang gây nên sự đau khổ. Trong con tim của những người bị truy bức trăm lần ngời sáng hơn trong tâm can của những kẻ đi truy bức. Và chẳng lẽ sức mạnh của hạnh phúc không phụ thuộc vào chất lượng của nguồn sáng mà chúng ta mang trong bản thân mình? Con người gây nên đau khổ sẽ dập tắt trong chính bản thân mình nhiều hạnh phúc hơn trong tâm hồn của người chịu khổ đau.

Ai trong chúng ta, - nếu như được chọn, - lại chẳng thích chọn ở vào vị trí của Pierrette hơn là vị thế của Rogron? Bản năng hạnh phúc của chúng ta biết rõ rằng, không thể có chuyện một người ngay thật về đạo đức lại không hạnh phúc hơn kẻ lầm lạc, thậm chí dù kẻ đó có ?