PHẦN VI XCVI
Chiều hôm qua, khi đọc lại hồi ký của Saint-Simon, trong đó dường như ta từ trên ngọn tháp cao nhìn xuống cả mớ hàng trăm số phận con người dưới thung lũng, tôi mới hiểu ra cái mà bản năng con người gọi là số phận tuyệt vời. Có thể, bản thân Saint- Simon cũng không biết ông yêu cái gì và khâm phục cái gì trong một số nhân vật anh hùng mà ông bao bọc họ bằng một bầu không khí trọng vọng êm ái và vô thức nào đó. Hàng nghìn đức hạnh mà ông thần thánh hóa đã chết; hàng nghìn phẩm chất mà ông ca tụng trong các vĩ nhân của mình mà giờ đây chúng ta cảm thấy thật thấp kém. Nhưng chỉ một số ít người mà ông không dành cho họ một sự chú tâm đặc biệt và thậm chí, bất chấp việc ông, thực chất, không hề tán đồng cái tư tưởng khích lệ họ, - chỉ bốn hay năm nhân vật thôi, những nhân vật trang trọng, có thiện ý và đáng kinh ngạc, có thể nói, bất kể danh tiếng của họ, đã đi xuyên qua một đám đông hào nhoáng đang xúm xít quanh ngai vàng của ông vua vĩ đại. Đấy là Fénelon, công tước Chevreuse và Beauvilliers, cuối cùng là Thái tử. Họ chẳng phải là những người hạnh phúc hơn những người khác. Họ chẳng có công tích đặc biệt, chẳng giành được những thắng lợi lẫy lừng. Họ, như những người khác, đang sống trong sự bất an, trong sự ngóng chờ cái, mà tôi thiết nghĩ, được gọi là hạnh phúc chỉ vì rằng nó được mong chờ. Fénelon bị thất sủng với một con người khá tầm thường về trí tuệ, nhưng thận trọng và tinh quái, kiêu ngạo, sầu não và thích hội hè, một vĩ nhân cho những tiểu sự và một tiểu nhân cho những đại nghiệp - đó là Louis XIV. Fénelon bị kết tội, bị truy nã và nhận án lưu đày. Hai công tước Chevreuse và Beauvilliers, dẫu tầm quan trọng của chức vị mà họ nắm giữ, tự nguyện và dè chừng sống cách biệt trong cung điện. Thái tử thì không được nhà vua sủng ái. Anh ta là nạn nhân của những âm mưu của một nhóm người có thế lực và đố kỵ đã thành công trong việc hủy hoại vinh quang chiến trận non trẻ của anh ta. Bủa vây lấy anh ta là những thất bại và tai họa tưởng như không thể cứu vãn nổi trong chốn hoàng cung xăng xái náo động và xun xoe bợ đỡ, bởi những thất bại và tai họa mang tầm cỡ mà cái luân thường thời ấy đem lại cho chúng. Cuối cùng anh ta đã chết sau vợ mấy ngày, người duy nhất mà anh ta yêu một cách cuồng si. Có lẽ anh ta chết vì bị đầu độc như vợ, và kẻ thua cuộc ấy ngã xuống đúng vào giờ phút, khi những tia sáng đầu tiên của sự khoan hồng rọi ánh vàng lên những bậc thang cung điện của anh ta.
Những nỗi buồn, thất bại, tuyệt vọng và âu lo mà cuộc đời của những con người này phải chịu đựng là thế đấy. Nhưng tuy nhiên, khi chúng ta quan sát tập hợp nhóm người nhỏ nhoi âm thầm này giữa sự hào nhoáng kỳ quái thất thường của đám người còn lại, thì chúng ta sẽ cảm thấy bốn số phận của họ thực sự tuyệt vời và đáng ghen tị. Cùng có một thứ ánh sáng nào đó làm bừng sáng mọi sự ngang trái trong cuộc đời của họ. Ánh sáng phát ra từ tâm hôn vĩ đại của Fénelon. Fénelon luôn là một con người trung thành với những suy nghĩ cao cả về niềm vui, sự thiêng liêng, công lý, tính nhún nhường và tình yêu; ba người còn lại thủy chung với người thầy và người bạn của mình.
Việc những tư tưởng thần bí của Fénelon không ăn nhập với những suy nghĩ của chúng ta thì có liên quan gì đến chúng ta nhỉ? Và cũng thế, những suy nghĩ, mà theo quan điểm của chúng ta, là những suy nghĩ sâu sắc và đúng đắn nhất và nhờ chúng mà chúng ta xây dựng nên toàn bộ niềm hạnh phúc tinh thần và toàn bộ chân lý của cuộc đời chúng ta, sau khi chúng ta qua đời chúng sẽ biến thành phế tích và một lúc nào đó những tư tưởng, mà chúng ta cảm tưởng là đầy nhân ái và thấu triệt, khiến những người tìm ra chúng phải bật cười - chúng có liên quan gì đến chúng ta không? Cái trọng yếu, cái nâng cao phẩm giá và soi sáng cuộc đời chúng ta - đó không chỉ là những suy nghĩ của chúng ta, mà còn là những tình cảm mà những suy nghĩ này đánh thức trong chúng ta. Tư tưởng, có thể, tạo nên mục đích. Cùng với mục đích này còn có đích đến của muôn vàn cuộc hành trình: chính con đường, những điểm dừng chân nghỉ ngơi, mọi thứ gặp trên đường, tất cả những gì xảy ra vượt quá sự mong đợi - đó là tất thảy những gì lôi cuốn chúng ta hơn cả. Và ở đây, cũng như trong mọi vấn đề khác, cái còn lại chỉ là sự chân thành của tình cảm nhân ái. Về những suy nghĩ, chúng ta chẳng bao giờ biết, nó có lừa dối chúng ta hay không. Nhưng tình yêu mà chúng ta dành cho óo sẽ đến với chúng ta, thì không một tia sáng nào của nó, cũng như luồng sức mạnh nào của nó bị mất hút giữa những lầm lạc. Con người lý tưởng, mà mỗi người trong chúng ta cố gắng đánh thức dậy trong bản thân mình, hình thành và được nuôi dưỡng không chỉ bằng tổng số các tư tưởng khắc họa nên diện mạo của nó, mà còn bằng sự thanh khiết của khát vọng, tính chân thật, sự không vụ lợi mà chúng ta bao bọc lấy những tư tưởng này. Việc chúng ta yêu cái chân lý của mình như thế nào có ý nghĩa lớn lao hơn bản thân chân lý nhiều. Chúng ta trở nên hoàn thiện hơn bằng sức mạnh tình yêu, chứ không phải bằng sức mạnh tư tưởng. Thành thật yêu sự lầm lạc vĩ đại đôi khi còn tuyệt vời hơn là phục vụ một cách hèn mọn cho một chân lý vĩ đại.
Khát vọng này, tình yêu này có thể cùng như nhau đi kèm với những hoài nghi, cũng như niềm tin. Có những mối hoài nghi cũng mãnh liệt và đại lượng như những tín niệm tuyệt vời nhất. Trong một suy nghĩ mà chúng ta cảm thấy cao quý, thanh khiết hay nghi ngờ một cách sâu sắc thì tuyệt vời nhất là điều nó đem đến cho chúng ta cơ hội yêu một cái gì đó không chút do dự. Tôi có dâng hiến hay không trọn vẹn thân mình cho một người, cho Chúa, cho Tổ quốc, cho thế giới, cho sự lầm lạc - thứ kim loại quý lúc nào đó lộ ra dưới lớp tro tàn của tình yêu hình thành không phải do đối tượng của tình yêu này, mà do chính tình yêu. Chỉ có sự chân thật, nhiệt huyết, tính kiên định của một tình cảm thiết tha chân thành mới để lại sau mình dấu tích không thể phai mờ. Mọi chuyện đều qua đi, tất cả đều đổi thay, tất thảy, có thể, rồi sẽ biến mất, ngoài ánh sáng lấp lánh của những sự sâu sắc này, tính kiên định này, sự hào phóng này của con tim chúng ta.
XCVII“Chưa từng có một ai có được cái thế giới tâm hồn như thế bao giờ”, - Saint-Simon nói về một người trong số họ, một người bị vây hãm bởi những âm mưu, những cạm bẫy, cơn thịnh nộ. Và tiếp theo, nhân một chuyện khác, ông nói về ” sự điềm tĩnh thông tuệ”, và “sự điềm tĩnh thông tuệ” này thấm sâu vào toàn bộ cái mà ông gọi là “một đàn nhỏ”. Và thực sự là, cái đàn nhỏ trung thành với những ước mơ tốt đẹp nhất, với tình bạn, với tính chân thật, với thái độ tôn trọng chính bản thân mình và sự mãn nguyện nội tâm này đã được một thứ ánh sáng hiền hòa thanh bình soi sáng. Nó đã vượt qua những thói tật hám danh, tính tự ái, sự dối lừa và phản trắc của điện Versailles.
Đây không phải là những vị thánh theo cái nghĩa hết sức thông thường của từ này. Họ đã không xa lánh vào sâu trong sa mạc và rừng thẳm, họ không tìm kiếm chốn ẩn cư trong trai phòng. Đây là những nhà thông thái. Họ không lánh đời, mà ở lại với thực tại. Đừng nên nghĩ rằng, lòng mộ đạo của họ đã cứu rỗi họ, và chốn trú ngụ tinh thần của họ chỉ ở nơi Chúa. Yêu Chúa và hết sức phụng sự Ngài là chưa đủ để tâm hồn con người ta trở nên vững mạnh và yên bình. Một người đến được với tình yêu Chúa chỉ một khi có sự trợ giúp của suy nghĩ và những tình cảm mà anh ta có được và phát triển qua sự giao tiếp với mọi người. Tâm hồn con người ta khi không phải trông chừng cái gì cả, thì nó sẽ trở nên nhân bản một cách sâu sắc. Có thể dạy tâm hồn yêu nhiều thứ, kể cả thứ vô hình, nhưng đức hạnh hay cảm xúc trọn vẹn và thuần chất con người tạo nên cho nó cái dưỡng chất quan trọng hơn là cái khát vọng hay cái đức hạnh mang tính thần thánh. Khi chúng ta gặp một tâm hồn thật sự thanh thản và lành mạnh, thì chúng ta có thể tin chắc rằng, nó phải chịu ơn những phẩm hạnh thuần khiết nhân tính về sự lành mạnh và thanh thản của mình. Nếu như có thể đọc được những điều thầm kín trong những con tìm đã ngừng đập, thì chúng ta, có lẽ, sẽ. thấy được cái nguồn gốc của sự yên bình, mà nhờ đó Fénelon ở nơi lưu đày mỗi chiều làm dịu đi được nỗi khát khao của mình, là ở lòng chung thủy của ông ta đối với bà Guyon, người đàn bà đau khổ vì một tình yêu bất hạnh, đối với Thái tử không được thừa nhận và bị truy bức, hơn là ở sự trông mong một phần thưởng muôn đời; nguồn gốc của sự yên bình ấy là ở nhận thức của ông ta, một sự nhận thức dịu dàng tình người, chân thật tình người, nói ngắn gọn là, một nhận thức hoàn hảo tình người, hơn là ở niềm hy vọng mang tính Cơ đốc giáo của ông.
XCVIIISự yên bình của cái “đàn nhỏ bé” thật đáng kinh ngạc. Không một đức hạnh nào nhen lên trong nó những ngọn lửa chói lòa trên các đỉnh non cao; toàn bộ ngọn lửa nằm trong tâm hồn và con tim. Và chúng ta không thấy trong nó một chủ nghĩa anh hùng nào khác, ngoài chủ nghĩa anh hùng của niềm tin, sự chân thành và tình yêu nhớ nhung và kiên nhẫn đợi chờ. Có những người mà đức hạnh của họ vào thời khắc nào đó bước ra khỏi tâm hồn qua những cánh cổng rầm rầm đóng mở. Nhưng cũng có những người mà đức hạnh ở trong họ giống như một cô gia nhân thầm lặng không bao giờ rời bỏ khỏi nhà, và những người đến từ cái giá lạnh ngoài trời thấy một cô gia nhân cần mẫn và chu đáo bên bếp lửa rực hồng.
Có lẽ một cuộc đời tuyệt vời cần không chỉ những giờ phút anh hùng, mà còn cả những tuần lễ chân thật, đơn điệu và thuần khiết. Có lẽ một tâm hồn ngay thẳng và tuyệt đối chân thật đáng quý hơn một tâm hồn dịu dàng và tận tụy. Dẫu ta mong đợi từ nó ít những đam mê hơn, ít sự hân hoan hơn trong những hoàn cảnh đặc biệt của cuộc đời, - tuy nhiên có thể rất tin cẩn và vững lòng trông cậy vào nó trong những hoàn cảnh thông thường. Và ai trong chúng ta, dù cuộc đời người ấy có kỳ lạ, sôi nổi và vinh quang đến đâu, rốt cuộc không có gần như trọn vẹn cả cuộc đời trong những hoàn cảnh thông thường nhất? Có ý nghĩa gì không khi ta nghĩ về những khoảnh khắc quyết định nhất của các sự kiện huy hoàng, và đặc biệt, khi ta tham gia vào đó? Phải chăng chúng ta không thấy kinh ngạc rằng, trong cơn bão lớn của giờ phút cao cả nhất mọi thói quen và tất cả những suy nghĩ trong những giờ phút yên bình nhất vẫn được duy trì? Luôn luôn phải quay về với cuộc sống bình thường. Ở đó chúng ta tìm được nền đất vững chắc và tầng đá cốt. Chẳng phải ngày nào cũng thấy cần phải cứu tôi thoát khỏi cái chết, khỏi điều ô nhục, khỏi nỗi tuyệt vọng, nhưng thay vào đó, có lẽ, cần làm sao để mỗi giờ u buồn của từng ngày tôi có thể nói với bản thân mình rằng, đâu đó có một tâm hồn đã đến bên tâm hồn tôi, nó thầm lặng, thủy chung, thờ ơ với tất thảy những gì mà nó cảm thấy không tương hợp với chân lý, một tâm hồn không đổi thay, không thể lay chuyển nổi. Dĩ nhiên, đôi khi thực hiện một hành động anh hùng hay hết sức cao thượng là một điều tuyệt vời, nhưng còn đáng khen hơn, - và điều này đòi hỏi một sức mạnh thường trực hơn, - là không bao giờ chịu nhường bước trước sự quyến rũ của một ý nghĩ thấp kém và sống một cuộc đời ít kiêu hãnh hơn, nhưng đúng đắn hơn. Hãy cố gắng bằng những suy nghĩ của chúng ta đưa nỗi niềm khát khao sự hoàn thiện về đạo đức của chúng ta lên mức là chân lý của mỗi ngày, để công nhận rằng, đôi khi thực hiện một việc thiện lớn lao dễ dàng hơn là chẳng bao giờ làm một việc ác độc nhỏ nhất nào, rằng đôi khi gợi nên một nụ cười dễ dàng hơn là không bao giờ khiến cho nước mắt rơi.
XCIXHọ đã có ở trong nhau, và điều cơ bản là, mỗi người đã có trong chính bản thân mình một nơi chốn cư trú của mình, một “vách đá vững chắc”, theo cách nói của Saint-Simon, và cái phần không thể lay chuyển nổi của bức vách đá này theo độ dài của mình hoàn toàn sánh ngang với phần hoàn hảo nhất trong con tim của họ.
Hàng ngàn sức mạnh tạo nên nền tảng của “vách đá vững chắc”, nhưng liệu phần trên cùng của nó có luôn cùng ở nơi có cái mà chúng ta coi là hoàn hảo nhất trong bản thân mình hay không? Sự thật là, cái thị hiếu về tính hoàn hảo này thường rất thô thiển và chẳng có một kẻ thủ ác nào mỗi khi chiều về lại không có lấy một phút trèo lên cái đống vụn vặt thảm hại được hắn coi là hoàn hảo. Nhưng ở đây tôi đang nói về những phẩm hạnh phần nào vượt cao hơn cái phẩm hạnh nghiêm ngặt cần thiết, và một người bình thường nhất cũng biết rất rõ phẩm hạnh lạ thường là gì. Vẻ đẹp đạo đức, cái khó tiên kiến hơn cả, có điểm đặc biệt là, một người nông cạn nhất cũng không thể thật sự vin cớ rằng, anh ta không hiểu nó, và một hành động cao thượng nhất đồng thời cũng là một hành động dễ hiểu nhất. Có lẽ, không phải lúc nào cũng cần phải leo lên đỉnh cao của cái mà chúng ta phải khâm phục, nhưng cần phải đừng bao giờ ngủ vùi ở dưới đáy của cái mà chúng ta không thể không lên án.
Song chúng ta hãy quay trở lại với nơi chốn ẩn cư của các nhà thông thái của chúng ta. Trong cuộc sống chúng ta chịu ơn cái cơ may về rất nhiều hoàn cảnh hạnh phúc và bất hạnh, nhưng thế giới nội tâm không bao giờ phụ thuộc vào cơ may hết. Tôi biết có những người xây dựng, có những người khác lại yêu thích cảnh tượng đổ nát; sau chót, là có những người cả đời lang thang tìm kiếm những sự bảo vệ che chắn của người khác. Nhưng nếu thật khó thay đổi hẳn bản năng của tâm hồn, thì dẫu sao cũng chẳng hề vô ích để làm sao những tâm hồn không dựng xây được nếm trải niềm vui, mà những tâm hồn khác đang trải nghiệm, khi vô tư đặt từng viên đá chồng lên nhau. Những suy nghĩ, những sự gắn bó, tình yêu, những tín niệm, những thất vọng và thậm chí cả những mối nghi ngờ, - tất cả chúng đều cần thiết để xây dựng, và cái bị giông tố bẻ gẫy và giật tung còn trở thành thứ vật liệu tiện lợi hơn; bằng thứ vật liệu này có thể dựng nên, có đôi chút cách biệt, một tòa nhà ít tráng lệ hơn, nhưng thích ứng hơn với các nhu cầu của cuộc sống.
Những nỗi buồn nào, những sự nuối tiếc nào, những nỗi thất vọng nào có thể làm rung chuyển được nữa đây cái ngôi nhà của một người, khi lựa chọn những viên đá cho ngôi nhà của mình, đã sử dụng tất cả những gì khôn ngoan và vững bền trong những nỗi buồn, những sự tiếc nuối, và những nỗi thất vọng? Và tiếp nữa, dùng một cách so sánh khác, phải chăng không thể nói rằng, cái điều diễn ra với nguồn gốc của niềm hạnh phúc nội tâm cũng là cái điều diễn ra với gốc rễ của những cây đại thụ? Những cây sôi vật vã hơn cả bởi cơn giông bão cắm những chiếc rễ khỏe mạnh và hút được nhiều chất dinh dưỡng nhất vào lòng đất muôn đời thân yêu, còn định mệnh giáng xuống chúng ta một cách bất công biết rất ít về những gì diễn ra trong tâm hồn chúng ta, như cơn gió biết [rất ít] về những gì diễn ra trong lòng đất.
CThật thú vị lạ thường khi nhận thấy uy lực và sức mạnh bí ẩn của sức hấp dẫn của một niềm hạnh phúc đích thực. Khi một người trong “đàn nhỏ bé” bằng những mưu kế, bằng sự cung kính, bằng những cuộc phiêu lưu tình ái nho nhỏ và những chiến thắng tầm thường của mình vượt qua cái đám đông sung sướng và hoan hỷ chen nhau trên cầu thang cẩm thạch và trong những căn phòng tráng lệ của Điện Versaille, thì trong câu chuyện sôi động của Saint-Simon bỗng xuất hiện một khoảng lặng nào đó. Có ấn tượng, không cần ông phải nhấn mạnh đến điều này, trong khoảnh khắc mọi sự háo danh mòn mỏi ấy, mọi sự thỏa mãn bừng lên, nhưng thoáng qua ấy, mọi sự dối trá lớn tiếng phát ra, nhưng run rẩy trong bóng tối ấy vụt so đo bản thân mình với mức độ tỉnh táo của một tâm hồn điềm tĩnh và mạnh mẽ. Gần như giống hệt cái điều diễn ra với đám trẻ chơi những trò chơi bị cấm, bẻ cành ngắt hoa, định hái trộm quả, ngầm hành hạ một con vật hiền lành thì bỗng cha xứ hay một ông già trầm tư đi ngang qua, dẫu không có ý quở mắng chúng. Trò nghịch ngợm tức thì dừng lại, lương tâm thức tỉnh, và ánh mắt ngượng ngùng bất giác ngừng lại ở nghĩa vụ, ở hiện thực, ở chân lý.
Người ta thường đưa mắt dõi theo ông già, cha xứ hay một ý nghĩ đã rời xa không lâu hơn bọn trẻ. Nhưng thế cũng chẳng sao; quan trọng là, họ đã nhận ra ông già và vị cha xứ, bởi tâm hồn con người, trái với cặp mắt rất sẵn sàng làm ngơ hay nhắm lại, được ban cho một sự cao thượng lớn hơn mong đợi của nhiều người cho sự bình tâm của mình; nó dễ dàng phân biệt tất cả những gì vươn cao hơn cái giờ phút vô ích mà người ta cố dùng để lôi cuốn sự quan tâm của mình. Mặc người đời có nhỏ to với nhau thế nào đi nữa dọc theo con đường nhà thông thái đi qua, dẫu biết đấy, ông ta vẫn tạo nên một luống cày sâu giữa những sự lầm lạc của thói háo danh bị lấp xóa đi chẳng nhanh như người ta nghĩ. Luống cày ấy đơm hoa đặc biệt là vào những giờ phút bất ngờ đẫm lệ. Một tâm hồn phần nào thanh khiết và nhiều sức sống hơn những tâm hồn khác rất hiếm khi khóc thương trong câu chuyện của Saint-Simon, vì không muốn bật khóc rơi lệ ở gần một trong những người đi giữa sự im lặng có đôi chút lo ngại và gần như là sự ngạc nhiên hí hửng độc ác đang dõi theo những bước chân của một cuộc đời tuyệt vời thanh cao nơi trần thế.
Con người ta không hay suy ngẫm về hạnh phúc những khi đang cho mình là người hạnh phúc. Nhưng thời khắc đau khổ vừa đến, thế là chúng ta nhớ ngay đến cái nơi chốn có một thế giới không phụ thuộc vào ánh mặt trời, lẫn nụ hôn bị từ chối từ người phụ nữ, cũng như sự ruồng bỏ của nhà vua. Khi ấy chúng ta hãy đừng đến với những người hạnh phúc với cái hạnh phúc đã qua của chúng ta, bởi rốt cục chúng ta thấy được cái gì sẽ còn lại từ niềm hạnh phúc này khi chuyện xảy ra đã có dấu hiệu nhỏ nhất của một sự thiếu nhẫn nại. Nếu bạn muốn biết nơi chốn tồn tại một niềm hạnh phúc đích thực nhất, thì đừng quên mất những người bất hạnh đang tìm kiếm sự an ủi. Sự đau khổ giống như cây đũa thần từng có lúc được những người đi tìm nơi chôn giấu kho báu và nguồn nước đã sử dụng; người mang nỗi khổ đau được nó chỉ cho lối vào nơi chốn có một thế giới sâu sắc nhất đang hít thở. Và điều này chính xác đến nỗi chúng ta đôi lúc phải tự hỏi chính mình rằng, chúng ta có quyền tin hay không vào sự hoàn hảo của thế giới của chúng ta, vào tính chân thật của việc bằng lòng đón nhận các quy luật lớn lao của cuộc đời, vào sự vững bền của niềm vui sướng của chúng ta, nếu bản năng của những người đau khổ còn chưa buộc họ phải gõ cửa nhà chúng ta, nếu họ còn chưa thấy được ánh “sáng tuyệt vời, minh bạch và hiền hòa đang chìm sâu trong giấc ngủ của một ngọn đèn không bao giờ tắt nơi ngưỡng của nhà chúng ta. Thật vậy, chỉ có những người mà tất cả những ai đang đau thương đều muốn đến với họ để cho những dòng lệ của mình tuôn trào mới có quyền cho là mình đang được an toàn. Trên đời này có những người mà chúng ta chỉ nhận ra được nụ cười nơi tâm hồn họ từ giây phút, khi những giọt nước mắt làm trong sạch ánh mắt của chúng ta đến tận ngọn nguồn sâu sắc nhất của nó dạy cho chúng ta nhận rõ sự hiện hữu của niềm hạnh phúc sinh ra không phải do lòng hảo tâm hay sự tỏa sáng trong phút chốc, mà nhờ sự tiếp nhận bao dung với cuộc đời. Ở đâu cũng thế, khát vọng và nhu cầu bức thiết
sẽ làm cho tinh thần sâu sắc hơn. Một con ong đói tìm thấy mật ngọt trong hang động sâu nhất, và một tâm hồn đau khổ rốt cuộc sẽ tìm được con đường đến với niềm hạnh phúc tiềm ẩn ở nơi chốn khó tới nhất và trong sự thầm lặng.
CIChỉ khi nhận thức bừng tỉnh và hồi sinh trong một con người thì số phận anh ta mới bắt đầu khởi phát. Tôi không nói về cái nhận thức nghèo nàn và thụ động của phần lớn mọi người, mà về sự nhận thức tích cực đón nhận bất kể một tai ương nào, dẫu nó có như thế nào đi chăng nữa, như một nữ hoàng dù bị giam cầm trong tù ngục vẫn biết tiếp nhận phẩm vật được mang đến cho bà ta. Thậm chí nếu chẳng có gì xảy ra với bạn, thì nhận thức của bạn cũng có thể tạo ra một sự kiện lớn lao sau khi thật sự nhận ra sự thiếu vắng bất kể một sự kiện nào. Nhưng có lẽ, không có một người nào mà với anh ta những sự kiện cần thiết cho việc nuôi dưỡng cái nhận thức tột cùng ham muốn, không biết mệt mỏi, lại không xảy ra nữa.
Trước mắt tôi hiện ra tiểu sử của một trong những tâm hồn mạnh mẽ và mãnh liệt nhất, mà mọi chuyện phiêu lưu tạo nên hạnh phúc hay bất hạnh của con người dường như lướt qua mà không một lần ngó ngàng đến tâm hồn ấy. Tôi đang nói đến một người phụ nữ, không còn nghi ngờ gì nữa, là một thiên tài, đặc biệt kỳ lạ, sống ở nửa đầu thế kỷ thế kỷ XIX - Emily Bronte. Cô chỉ để lại một tác phẩm với cái tên kỳ lạ
“Wuthering Heights” - “Đồi gió hú”. Emily là con gái của Patrick Bronte, một mục sư Anh, một con người nhỏ mọn, đù đờ, hợm hĩnh, tự ái nhất, tưởng như chỉ có thể có trong trí tưởng tượng. Có hai điều được ông ta coi là quan trọng hơn cả trên đời: sự chuẩn xác trong tiếng Hy Lạp, chuyên môn của ông ta và chuẩn mực trong việc tiêu hóa món ăn của ông ta. Còn bà mẹ đáng thương của Emily dường như hết sức ngưỡng mộ cái chuyên môn này và cung phục cái sự tiêu hóa của chồng. Tuy nhiên nhắc nhớ đến sự tồn tại của bà để làm gì, vì bà đã mất sau khi sinh Emily được hai năm. Song vẫn nên nói thêm, dẫu là thừa, chỉ nhằm một mục đích để thêm một lần chứng tỏ rằng, trong đời thường người phụ nữ luôn cao quý hơn người đàn ông mà mình phải đón nhận, nên nói thêm rằng, sau cái chết của người vợ hết mực chung thủy của ông linh mục háo danh và thản nhiên sống vô vị, người ta đã tìm thấy một bó thư của bà; trong đó người phụ nữ suốt đời âm thầm đã mô tả vô cùng chính xác thái độ vô tâm vô tình, tính ích kỷ, thói tật khoe mẽ rởm đời của ông chồng. Quả thật là, có thể phát hiện ra khuyết điểm của người khác, mà vốn chính mình không xa lạ gì với nó, thế nhưng, có lẽ điều cần thiết biết bao là bản thân mình phải có những tư chất phẩm hạnh để không công khai khuyết điểm ấy ở người khác. Cha mẹ của Emily là thế. Quanh cô là bốn chị em gái và một người anh trai cũng sống những giờ phút đơn điệu như nhau với sự nghiêm ngặt như thế. Cả gia đình đã sống và cả cuộc đời Emily đã trôi qua trong ngôi làng nhỏ u ám, lẻ loi, buồn thảm và nghèo khó, giữa những bụi thạch thảo của xứ Yorshire.
Không thể tưởng tượng nổi một tuổi thơ và tuổi thanh xuân nào bị bỏ mặc hơn, u buồn và đơn điệu hơn tuổi thơ và tuổi thanh xuân của Emily và bốn chị em của cô. Họ chưa từng được nếm trải một sự kiện hạnh phúc nào hay dẫu chỉ gọi là có đôi chút bất ngờ nào được phóng đại và tô điểm theo năm tháng tạo nên nơi cõi thẳm sâu trong tâm hồn một kho báu bất tuyệt có một không hai những ký ức vui vẻ về cuộc đời. Ngày lại ngày thức dậy như nhau, vẫn những việc nhà ấy, học bài xong, lại ngồi thêu thùa bên bà cô già, rồi bữa ăn thường ngày, tiếp đến là dắt nhau dạo chơi cùng những cô bé nghiêm trang hầu như chẳng nói một lời giữa những bụi thạch thảo đến hè bạt ngàn hoa, còn mỗi khi đông về bao phủ một màu tuyết trắng. Ở nhà là sự lãnh đạm tuyệt đối từ phía người cha hiếm khi thấy mặt, ăn sáng và ăn trưa trong phòng riêng của mình và chỉ chiều mới xuống căn phòng chung của cả gia đình, để oang oang đọc những cuộc tranh luận chán ngắt của nghị viện. Còn bên ngoài kia là nghĩa trang im lìm vây quanh ngôi nhà, thảo nguyên mênh mông không một bóng cây to và những ngọn đồi suốt từ mùa xuân đến mùa đông bị những cơn gió bắc khủng khiếp hành hạ.
Những sự ngẫu nhiên trong đời, - bởi chẳng có một cuộc đời nào mà sự ngẫu nhiên lại không thể hiện sức mạnh của mình, - có ba bốn lần kéo Emily ra khỏi cái xứ hoang vu, mà cô đã học được cách yêu và coi nó là chốn duy nhất nơi đất trời, cỏ cây mới thực sự là đất trời, cỏ cây và thật đáng kinh ngạc; đây là điều thường thấy với những ai sống quá lâu ở một nơi. Sau vài tuần đi vắng, cô đã bắt đầu ủ rũ, cặp mắt rực sáng mờ tối đi, và một trong số chị em của cô đã phải vội vàng đưa cô trở về ngôi nhà đơn độc của ông mục sư.
Năm 1843, - khi ấy cô tròn 25 tuổi, Emily trở về ngôi nhà này, không rời bỏ nó nữa cho đến lúc qua đời. Không một sự kiện nào, không một nụ cười nào, không một chút hy vọng nhỏ nhoi nhất nào về một mối tình từng có trong suốt quãng đời của cô cho đến chuyến trở về cuối cùng này. Không hề có thậm chí là một hồi ức nhỏ nhất về một trong những nỗi bất hạnh hay thất vọng đặng đem lại cho những con người quá đỗi yếu đuối hay chẳng mấy đòi hỏi một ảo tưởng rằng, sự trung thành thụ động với việc tự hủy hoại bản thân mình sẽ tạo nên một hành động đức hạnh, rằng việc bó tay ngồi than khóc sẽ biện hộ cho sự không hành động, và rằng họ sẽ làm tất cả những gì có thể, nếu họ nhận thấy được toàn bộ nỗi buồn và sự cam chịu trong những khổ đau mà họ có thể thấy ở Emily.
Trong tâm hồn thanh khiết và trinh bạch của Emily không hề có quá khứ, không có thậm chí là một nơi chốn nào cho những hồi ức hay cảm giác khuất phục cam chịu. Chẳng hề có gì trước chuyến đi cuối cùng, chẳng có gì sau nó, nêu không tính đến một vài sự việc bất ngờ u buồn và cảm thương cô trải nghiệm với vai trò là y tá chăm sóc người anh, mà cuộc đời của anh ta bại hoại bởi sự lười biếng và một niềm đam mê lớn, đầy bất hạnh, người anh nửa điên dại, một kẻ nghiện rượu không chữa nổi và một con nghiện thuốc phiện. Sau đó, khi cô tròn 29, vào một buổi trưa của tháng Mười hai trong phòng khách quét vôi trắng nơi ngôi nhà nhỏ của ông mục sư, khi Emily đang ngồi bên lò sưởi, trải mái tóc dài đen mượt của mình, chiếc lược bỗng rơi vào ngọn lửa; cô không đủ sức nhặt nó lên, và cái chết còn thầm lặng hơn cả cuộc đời của cô đã nhẹ kéo cô ra khỏi vòng tay tái nhợt của hai người chị mà số phận dành lại cho cô.
CII“Tôi không hề thấy trong cõi miền bao la của số phận một dấu hiệu tình yêu, một tia lửa vinh quang, một giờ vui sướng nào dành cho cô”, Mary Robinson, người đã để lại cho chúng ta câu chuyện về cuộc đời của Emily, đã phải thốt lên trong lúc nỗi buồn thương tuyệt vời dâng trào. Quả thật là, nếu nhìn bề ngoài, thì không có một cuộc đời nào u ám, buồn tẻ, vô mục đích và lạnh lẽo hơn cuộc đời của Emily Bronte.
Song phải nhìn cuộc đời của một ai đó từ khía cạnh nào đây, để phát hiện ra sự thật của nó, để biện bạch và yêu mến nó? Nếu chúng ta một phút rời ánh mắt khỏi ngôi nhà nhỏ của ông mục sư mất hút giữa xứ sở ấy và hướng nhìn vào tâm hồn nhân vật của chúng ta, thì chúng ta sẽ thấy một cảnh tượng khác. Rất hiếm khi [chúng ta] có thể bất ngờ thấy rõ được đến thế cuộc sống của một tâm hồn ở trong một thân thể, một tâm hồn chưa từng được biết đến những cuộc phiêu lưu. Nhưng có một điều rất thường thấy hơn người ta tưởng là một tâm hồn có thể có một đời sống riêng hoàn toàn không phụ thuộc vào những cuộc phiêu lưu trong một tuần hay một năm. Trong “Wuthering Heights”, câu chuyện là một bức tranh thể hiện những mối tình cháy bỏng, những khát vọng, những điều kỳ diệu, những suy tư và lý tưởng của một tâm hồn, nói tóm lại, nó là một biên niên sử đích thực về tâm hồn ấy - một tâm hồn chứa đựng nhiều năng lượng, đam mê, phiêu lưu, nhiệt huyết và tình yêu hơn mức cần thiết để làm sống động và trấn an hai chục cuộc đời anh hùng, hai chục số phận hạnh phúc hay bất hạnh.
Chẳng có một sự kiện nào dừng lại nơi ngưỡng cửa nhà Emily; nhưng không có một sự kiện nào có quyền thuộc về cô mà lại không bùng nổ với một sức mạnh vô song, một vẻ đẹp, một độ chính xác và trọn vẹn trong trái tim của cô.
Dường như chẳng có điều gì xảy ra với Emily, nhưng chẳng phải mọi sự diễn ra với cô còn mang tính cá nhân hơn và hiện thực hơn với những người khác sao, bởi tất thảy những gì xảy ra quanh Emily, tất thảy những gì cô nhận thấy và nghe thấy đều biến thành suy tư, niềm đam mê, tình yêu bao dung, cảm xúc kinh ngạc và tình cảm say đắm trong cô.
Có phải là cũng như nhau cả thôi việc một biến cố xảy ra ở sân nhà chúng ta hay sân nhà hàng xóm? Nước từ một đám mây rơi xuống thuộc về người nào thu gom nó, và hạnh phúc, cái đẹp, nỗi âu lo mang tính cứu rỗi và bằng an chứa đựng trong mỗi hành động diễn ra chỉ thuộc về người nào học được cách suy xét. Emily không có một mối tình nào, cô chưa từng một lần được nghe tiếng bước chân của người yêu gõ nhịp trên đường - thế nhưng cô, một người con gái trinh trắng qua đời ở tuổi 29, đã biết về tình yêu, đã nói về tình yêu và thấu hiểu mọi bí ẩn chưa được nói đến của nó tới mức mà những người đã từng yêu nhiều hơn tất cả mọi người đôi khi phải tự hỏi bản thân mình rằng, tình yêu nồng nàn của mình đáng được gọi bằng cái tên gì đây, khi họ nhờ cô mới được biết đến những lời nói, những sục sôi dâng trào và những bí ẩn của tình yêu mà ở cạnh chúng thì mọi thứ khác dường như là vớ vẩn và nhạt phèo.
Ở đâu, nếu không phải ở trong con tim của riêng mình, Emily có thể nghe thấy những lời không gì sánh được của người con gái đang yêu, nói với nhũ mẫu của mình về một người bị tất cả mọi người săn đuổi và khinh miệt và là người mà chỉ một mình cô ấy tôn thờ? “Những đau khổ và bất hạnh của chàng là đau khổ và bất hạnh khủng khiếp của con trên đời này. Con vẫn dõi theo và nếm trải chúng ngay từ đầu. Suy nghĩ của con, chừng nào con còn sống, hóa thành chàng. Nếu như cả thế gian này tuyệt diệt, mà một mình chàng được cứu thoát, thì con còn tồn tại. Nhưng nếu cả thế gian này còn, nhưng một mình chàng biến mất, thì vũ trụ trở nên vĩnh viễn là cõi xa lạ với con, và con sẽ chẳng tham dự vào đời sống của nó nữa. Tình yêu của con với người khác, mà Vú đang nói đến, giống như lá rừng; thời gian làm biến đổi nó, như mùa đông làm thay đổi hình hài cây cối, nhưng tình yêu của con dành cho chàng giống như những tảng đá muôn đời say mê đất. Nó là nguồn gốc của một vài niềm vui bộc lộ thôi, nhưng nó thiết yếu biết bao. Con và chàng là một. Chàng muôn đời, sống mãi trong suy nghĩ của con - không phải như niềm vui, bởi ngay chính con không phải lúc nào cũng là niềm vui với bản thân mình. Con yêu chàng không phải vì con cảm thấy chàng tuyệt vời, mà vì chàng là con hơn chính bản thân con, và dù tâm hồn chúng con được tạo nên từ một bản chất nào đi chăng nữa, thì tâm hồn chàng và tâm hồn con cùng tạo nên một tâm hồn…”2
Emily nói về những thực tế bên ngoài của tình yêu với một sự ngây thơ có thể khiến ta phải bật cười. Nhưng cô đã học được ở đâu cách hiểu những thực tại nội tâm liên quan đến tất thảy những gì có trong một tình yêu cháy bỏng sâu sắc nhất, phi logic nhất, bất ngờ nhất, khác thường và muôn đời chân thật? Có cảm tưởng như phải sống cả 30 năm trong vòng ôm nồng nàn nhất của một tình yêu cháy bỏng nhất để biết được điều mà Emily biết, để dũng cảm cho chúng ta thấy, - với một độ chân thật đến thế, với một độ chính xác không hề nhầm lẫn đến thế trong sự điên cuồng mà số phận bao trùm lên cặp tình nhân được khắc họa trong cuốn tiểu thuyết “Wuthering Heights”, - mọi chuyển động đầy mâu thuẫn của sự dịu dàng mong muốn gây khổ đau, của tính hung bạo như muốn trao gửi hạnh phúc, của niềm lạc thú khát thèm cái chết, của nỗi tuyệt vọng cố bấu víu lấy cuộc đời, của sự ghê tởm cháy bỏng khát khao, một nỗi niềm khát khao choáng váng bởi sự ghê tởm, bởi tình yêu, bởi lòng căm thù tột độ, và một lòng căm thù đổ gục dưới gánh nặng của tình yêu.
CIIINhưng tuy nhiên chúng ta biết rõ, bởi trong cuộc đời khổ sở này không có gì ẩn giấu hết, Emily không yêu một ai và cũng không có ai yêu cô. Vậy là thực ra, cái lời cuối của một cuộc đời là lời mà định mệnh thì thầm ở nơi sâu kín nhất trong con tim chúng ta? Có nghĩa là thật ra, một đời sống nội tâm cũng rất đỗi hiện thực, từng trải, đủ mọi tình tiết như cái đời sống ngoại giới? Tức là thật ra, có thể sống ở một nơi chốn, có thể yêu và căm thù trong khi không ruồng rẫy một ai và mong đợi một ai? Tức là thực ra, những hoàn cảnh có thể buồn thảm hay vô bổ chỉ với những ai mà trong con người họ sự nhận thức còn đang mơ màng thiếp ngủ?
Tất cả những gì chúng ta tìm kiếm trên những con đường lớn, - tình yêu, hạnh phúc, sắc đẹp, những cuộc phiêu du, - chúng có cùng hẹn nhau hội tụ trong con tim của Emily hay không? Chẳng có một ngày nào mang đến cho cô một trong những niềm vui, nỗi niềm xao xuyến hay nụ cười mà mắt có thể thấy được, tay có thể chạm tới, thế nhưng số phận của cô vẫn thật đủ đầy, chẳng có gì trong cô thiếp ngủ, trong con tim cô luôn sống động tình cảm trong trắng, niềm vui thầm lặng, sự tin cậy, tính hiếu kỳ, lòng hăng say và hy vọng.
Emily đã hạnh phúc, và không thể nghi ngờ gì về điều này. Bằng việc bộc lộ tâm hồn mình trước chúng ta, cô có thể cho chúng ta thấy đúng cái vụ mùa bội thu vô tận ấy, cũng như nhưng người tuyệt vời nhất đã từng được nếm trải niềm hạnh phúc muôn màu muôn vẻ nhất, dài lâu, sống động và hoàn hảo nhất… Nếu ở Emily không có một điều gì diễn ra trong tình yêu, trong nỗi buồn, trong đau thương, trong khát vọng bỏng cháy và trong niềm vui, thì thay vào đó cô đã biết đến tất thảy những gì còn lại từ những cảm xúc của con người sau khi chúng qua đi. Ai trong hai người nên được coi là chủ nhân đích thực của tòa lâu đài huyền diệu, người mù lòa luôn sống trong đó hay chính là người chỉ một lần bước vào tòa lâu đài, nhưng bước vào với đôi mắt mở to?
“Sống, không sống”. Chúng ta đừng nên lầm tưởng bởi những ngôn từ. Hoàn toàn có thể tồn tại mà chẳng hề tư duy, nhưng chẳng tài nào tư duy trong khi không sống. Thực chất hạnh phúc hay bất hạnh của một biến cố chỉ nằm trong cái tư tưởng được người ta rút ra từ nó: với những con người mạnh mẽ là ở tư tưởng do chính họ đúc rút được, với những người yếu đuối là ở tư tưởng do những người khác đúc rút.
Có thể có đến cả ngàn những sự kiện bên ngoài gặp bạn trên suốt con đường của bạn đến mộ địa, nhưng chẳng có một sự kiện nào trong số đó tìm thấy trong bạn một sức mạnh cần thiết để biến thành sự kiện tinh thần. Chỉ khi ấy một người nên nói với chính bản thân mình rằng: “Có lẽ, mình chưa từng sống”.
CIVVì thế chúng ta có quyền khẳng định rằng, hạnh phúc nội tâm của nhân vật nữ của chúng ta, cũng như của bất kể một người nào khác, thể hiện một cách chính xác nguyên tắc đạo đức của cô ấy và quan điểm của cô ấy với thế giới. Đó là thảm cỏ xanh luôn phải đo lường khi cuối đời trong khu rừng của những sự ngẫu nhiên để nhận biết được tầm cỡ hạnh phúc của một ai đó. Và ai còn có thể rơi những giọt nước mắt yếu hèn của những nỗi tuyệt vọng, những âu lo và sầu não, - chỉ toàn là những giọt nước mắt đớn đau nữa đây, bởi thay vì làm tươi mới các quan niệm, chúng lại làm cho các quan niệm trở nên tàn nhẫn, ai còn có thể rơi những giọt lệ này nơi đỉnh cao của sự thấu hiểu và điềm tĩnh mà tâm hồn Emily Bronte đã vươn tới?
Ta bắt đầu hiểu ra rằng, Emily khóc không như những người phụ nữ khác - những người cả đời vật vã từ những niềm vui bị tan vỡ này sang những niềm vui bị tan vỡ khác. Niềm vui bị tan vỡ đè nặng đôi vai chỉ của người nào cứ hoài công khư khư ôm giữ nó, như gã tiều phu chẳng bao giờ quẳng đi bó củi của mình. Nhưng trên vai đâu luôn có chỗ cho bó củi. Công dụng của nó là cháy để biến thành ngọn lửa rực sáng. Và khi nhìn vào ngọn lửa bừng lên từ tâm hồn của Emily, ta thôi không còn nghĩ, cũng như chính cô ấy không bao giờ nghĩ về bó củi đáng thương. Không có những đau khổ vô hạn, không có nỗi buồn đau vô phương cứu chữa với người nào, khi chịu khổ nạn và đau thương như những người khác, học được cách từ cõi sâu tận buồn thương và bất hạnh đi theo chỉ dẫn vĩ đại của thiên tính tự nhiên, sự chỉ dẫn duy nhất thiết thực. “Nhà thông thái không bao giờ tuyệt đối khẳng định rằng ông ta đau khổ, bởi ông làm chủ cuộc đời mình, - một người phụ nữ phi thường bản thân phải chịu nhiều đau khổ, đã viết, - ông ta suy xét nó từ tầm cao của đôi cánh chim trời, và nếu ông ta đến giờ vẫn còn đau khổ, thì có nghĩa là ông ta đã hướng suy nghĩ của mình vào phần chưa hoàn thiện của tâm hồn mình”. Cùng với tình yêu, lòng nhân từ và tính chính trực Emily còn thể hiện sự hung ác, lòng càm thù, tính báo thù lỳ lợm nhất và sự phản trắc được lường tính nhất; Emily thậm chí thấy không cần thiết phải làm cái việc tha thứ cho chúng, bởi tha thứ tức là mới hiểu được một cách nửa vời. Cô thấy rõ, cho phép và yêu. Cô cho phép và yêu cái thiện, cũng như cái ác, bởi xét đến cùng thì cái ác chỉ là cái thiện lầm đường lạc lối. Cô cho chúng ta thấy, chẳng phải qua những khuôn mẫu võ đoán của nhà đạo đức học, mà tựa như thời gian và mọi người dạy chúng ta biết những chân lý mà chúng ta đủ sức lĩnh hội, - cô cho chúng ta thấy giới hạn bất lực của cái ác trước cuộc đời, sự bình ổn của mọi sự vật trong tự nhiên hay trong cái chết, mà “chẳng qua chỉ là chiến thắng của sự sống đối với một trong những dạng thức riêng của nó”. Cô cho chúng ta thấy sự vô dụng của trò lừa dối tinh vi nhất, của sức mạnh tột độ và của thiên tài trước cái sự thật yếu đuối và ngu tối nhất; cô cho chúng ta thấy sự vô căn cứ của lòng căm thù vì tự thân không biết điều đó nên đã vung vãi những hạt giống của hạnh phúc và tình yêu vào cái tương lai mà nó muốn phá hoại. Có lẽ, lần đầu tiên Emily nói cho chúng ta biết về quy luật di truyền để dạy cho chúng ta biết làm một người khoan dung; và khi cô ở cuối tác phẩm của mình đi đến khu nghĩa trang của làng để thăm viếng giấc ngàn thu của những nhân vật của mình, cỏ xanh tươi một màu như nhau trên mộ của những tên đao phủ và các nạn nhân của chúng, và cô thấy kinh ngạc rằng, người ta có thể nghĩ như thể ác mộng đớn đau vẫn còn phá vỡ sự bằng an của những người đang yên giấc trong lòng đất lạnh lẽo và im lìm.