← Quay lại trang sách

Chương 5

NGỒI ĐỐI DIỆN MÂM CƠM BĨ BÀNG gồm có gà đút lò, vịt tiềm, cá lóc nướng, cháo tôm, toàn là những món ăn ngon mà tôi chưa có dịp ăn lại kể từ nhiều năm nay, từ ngày nhà tôi suy sụp bất ngờ. Những thửa ruộng cò bay thẳng cánh bất thần bị tịch thu, trong nhà không còn một hột lúa ruộng. Ruộng của ông tôi mênh mông, bỗng nhiên con cháu không còn chút đất cắm dùi vì cái tội có ông nội làm quan cho Pháp.

Tôi nhớ rõ lắm. Đó là một buổi sáng có sương mù và trời đất bắt đầu lành lạnh, có lẽ là đã qua nửa tháng chạp rồi. Theo lệ thường, ông tôi sẽ ngồi ghe đi cùng với một người Miên –anh Tuốt– tới Vĩnh Long trôi nổi về miệt Hóc Hỏa để thâu lúa ruộng. Chiếc ghe lườn với chiếc mui lá chầm uốn cong hình bán nguyệt sẽ trở về trước Tết để đón giao thừa. Anh Tuốt chèo lái và chị Bảy nấu cơm và kiêm luôn người chèo đàng mũi. Ông tôi chỉ việc nằm đọc sách, báo từ sáng cho tới giờ đậu ghe lại ăn cơm hai bữa và ngủ. Trong ghe, chị Bảy Một (chị chột hết một mắt) đã cụ bị sẵn lương thực có thể dùng trong vòng một tuần. Từ Vĩnh Long chèo qua Cần Thơ thì nghỉ lại đó vài ba tiếng đồng hồ để mua thêm thực phẩm, rồi lại nhổ sào tiếp tục cuộc hành trình. Chiếc ghe rời bến nước sau nhà tôi, sẽ quay về nhanh hay trễ là do khả năng chèo chống của anh Tuốt và của chị Bảy Một định đoạt.

Trước khi chiếc ghe bung ra khỏi nhà thủy tạ, lũ cháu nội và sáu bà vợ của ông tôi cùng hằng chục con trai và con gái đứng xếp hàng trên bờ tiễn ông bằng cách vẫy tay, bằng những cặp mắt mừng rỡ lộ liễu của lũ cháu khiếp sợ ông, của vài ba đứa con của các bà vợ trẻ tuổi suýt soát tuổi cháu nội của bà vợ lớn.

Riêng đôi mắt của bà vợ thứ sáu thoáng buồn buồn, còn những bà kia hình như vừa trút được một gánh nặng. Họ có vẻ không bịn rịn làm màu mè. Ông tôi sống giữa những bà vợ lấy ông vì địa vị hiển hách ngày xa cũ và giữa tiền bạc đắp đầu gối họ. Chỉ còn bà vợ út quấn quít lấy ông, còn đẻ rán cho ông vài mụn con đỏ. Mấy bà kia đã tẩy chay việc làm vợ chồng với ông. Họ sống với ông như một người quen sống vì nghĩa, sống che dấu người ngoài, sống cho bầy con mình có cha để chúng đỡ tủi thân. Sự có mặt hay vắng mặt của ông tôi trong ngôi nhà cổ âm thầm nầy không có nghĩa lý gì nữa. Ông chỉ đem lúa, tiền về nuôi họ đủ mỗi ngày hai bữa cơm và miễn sao con cái họ không đến nỗi rách rưới.

Ông tôi ngồi ló đầu ra khỏi mui ghe cũng đưa tay vẫy. Trong cơn gió làm chiếc ghe tròng trành, ông nghe những tiếng dặn dò từ bến:

– Ông nhớ mua cho sắp nhỏ một mớ khoai lang nghen.

Bà vợ thứ nhất tức là bà kế mẫu của ba tôi dặn.

Bà thứ nhì thêm:

– Đừng quên mua cho bầy trẻ vài chục ký mắm lóc.

Một bà khác nữa hỏi:

– Ông mua một mớ khóm Cầu Đúc, lựa khóm già nở mắt đem về thì vừa, mua chín quá đem về chưa tới nhà nó rục hết.

Bà áp út hớt hơ hớt hãi, hét:

– Ờ Bảy, mầy nhớ thắng cho bà một khạp nước màu bằng nước khóm ép nghe.

Mấy thằng oắt con rần rần chạy xuống nhà thủy tạ la ầm lên:

– Anh Tuốt nhớ hớt cá thia thia Rạch Giá cho tụi em. Nhớ hớt cho thiệt nhiều, lựa cá «gộc» đá cho giỏi nghen.

Bà Út trổ giọng uốn éo:

– Mình đừng có quên là em ở nhà đợi mình về, có mua cho em cái gì cho gọn dễ xách nếu có mắc tiền chút đỉnh cũng được.

Bà vợ cả nhìn bà Út nửa con mắt rồi bỏ vô nhà.

Ông tôi chỉ còn nghe những tiếng reo hò nho nhỏ của lũ con bắt đầu nổi loạn khi chiếc ghe khuất sau rặng dừa để vào rạch nhỏ rồi đổ ra sông lớn.

… Sau hai tháng, chiếc ghe đó trở về với hai người chèo và trong khoang thì trống trơn.

Anh Tuốt ốm đi nhiều, tay chèo như uể oải và chị Bảy Một, với con mắt sáng còn lại, bơ phờ. Lũ con nít độ ba mươi đứa ra mừng rồi tiu nghỉu khi anh Tuốt nói không có cá thia thia và mấy bà vợ lo lắng nhìn sâu vào bên trong hỏi dồn:

– Ông đâu rồi tụi bây?

– Sao kẹt lâu quá vậy?

– Tá điền chưa đong đủ lúa sao?

– Ông có mạnh giỏi không?

Bao nhiêu câu hỏi phi vào đầu anh Tuốt nhanh đến độ không trả lời kịp. Anh lặng lẽ cặm sào rồi nhảy lên bờ thuật:

– Ông xuống tới dưới bị tá điền ở bên sóc người Miên cự nự về vụ thất mùa và đồng lòng không đong lúa. Sau một hồi cãi vã, chúng dùng mác đâm ông trọng thương. Lúc cậu Hai đem ông về chòi ở Hóc Hỏa chạy chữa thì ông chết. Đợi chôn cất ông xong xuôi đầu đó, cậu Hai mới cho tụi con về thưa lại với các bà.

Chị Bảy Một khóc thút thít tiếp:

– Trước khi ông nhắm mắt, ông có trối nên đem ông về mai táng đất nhà.

Tôi nhìn qua một lượt, sao chẳng nghe tiếng kêu khóc nào của các bà vợ và mấy đứa con. Dường như họ xem cái tin dữ nầy như tin người hàng xóm chết. Rồi họ lặng lẽ bỏ vào tiếp tục công việc đang làm dở. Thỉnh thoảng họ kể cho nhau nghe những giấc chiêm bao mà bây giờ họ mới đem ra minh chứng điềm ông tôi chết dữ.

Bà vợ thứ tư ong óng:

– Cách đây nửa tháng, tui thấy ổng về kêu cửa. Chừng tôi ngó lên thấy mặt mũi ổng đổ máu. Sợ quá, tui hét lên và mới biết mình nằm chiêm bao.

Bà cả chen vô:

– Tao cũng thấy ổng về và lại gần tao kêu đói. Khi tao làm cho ổng một dĩa cơm sườn bưng lên thì ổng ôm ngực kêu đau. Tao nhìn lên thấy sao mà ngực ông đổ máu xối xả.

Bà vợ thứ sáu hỏi anh Tuốt:

– Mày thấy ông chết có nhắm mắt không?

– Thưa bà, ông chết nhưng hai con mắt còn mở trao tráo. Con phải nhờ cô Bảy vái van một hồi rồi con vuốt, ông mới chịu nhắm mắt.

Các bà cứ đem giấc mộng ra thuật một cách say mê. Giọng bà nào cũng sôi nổi và thỉnh thoảng có tiếng cười lác đác. Sau đó, một vài bà mếu máo một cách gượng gạo làm tôi mắc cỡ.

Quay qua chị Bảy Một, bà Út hỏi:

– Mầy vái làm sao Bảy?

– Con vái: các bà, các cậu ở xa quá không ai hay, vậy xin ông thương mà nhắm mắt lại.

Chị Bảy pha trò:

– Chắc ông còn nuối bà Út nên chỉ nhắm hơi hơi thôi.

Không khí trong nhà tuy không đượm vẻ tang tóc lắm nhưng có cái gì trống vắng, nhờn nhợt phủ quanh và tháng ngày trôi chầm chậm trong quên lãng. Các bà vợ của ông tôi lần lượt bỏ ngôi nhà hương hỏa đi làm lại cuộc đời. Các bà lớn tuổi hơn không còn cơ hội lấy chồng lại ra mua gánh bán bưng nuôi thân và con cái. Ngày ông tôi còn sống, họ ỷ lại vào gia sản, trông cậy những huê lợi hàng năm, những lẫm lúa đầy tận nóc của ông tôi. Tai nạn bất thần làm họ tỉnh mộng, họ nhìn lại trong tay mình không có lấy một cục đá chọi chim và họ phải bồng bế nhau đi tìm sự sống sau khi tiêu gần hết mấy món tư trang.

Đức thúc vào hông tôi gọi:

– Liễu làm gì thẫn thờ vậy?

Tôi giật mình vội cầm đũa gắp một miếng thịt gà đút lò cho vào chén.

Đức bấm vào đùi tôi:

– Coi bộ nãy giờ mầy như người mất hồn, chắc thắng Nam Giò nó lại dẫn hồn phách mầy vô vườn bưởi rồi.

Tôi mỉm cười về câu nói dẫy đầy ám khí của nàng và tôi cầm ly bia uống một hơi gần cạn để bôi xóa những ý nghĩ lộn xộn trong đầu. Khi chất bia ngấm vào người, tôi ngây ngây. Tôi nhìn từ chỗ ngồi đến người ở cuối bàn, thấy ai cũng có vẻ đáng mến hơn ngày thường một cách kỳ lạ. Chợt nhớ tới Nam, tôi ngẩng lên tìm kiếm, chàng từ bên kia bàn cách tôi lối mười cái ghế đang gặm cái xương cánh gà và cười nói xôn xao với Huấn.

Bà Hảo ngồi đầu bàn danh dự ăn một cách cần mẫn. Tôi nghĩ ngay đến cọng cỏ đuôi chồn vương trên mái tóc có vài sợi bạc ban nãy và đoán chừng bà vừa ăn vừa ôn lại chuyện mới xảy ra bên líp cỏ đuôi chồn và cái khung cảnh bên gốc cây bàng cạnh bờ sông.

Thấy tôi nhìn bà hơi lâu, bà dừng đũa lại:

– Liễu, sao em ăn yếu quá vậy?

Sáo nhìn sang tôi:

– Ăn ít cũng mang tiếng ăn nghe mậy.

Tôi cười hồn nhiên và tiếp tục ăn để bù lại những ngày ăn toàn rau dưa chấm tương hay nước mắm sả ớt. Tôi ăn ngấu nghiến như chưa hề được ăn ngon như thế bao giờ.