← Quay lại trang sách

Chương 6

NẮNG BỚT HANH, TRỜI NGẢ MÀU XÁM, chúng tôi từ giã mảnh vườn sầm uất đó không mấy luyến tiếc vu vơ. Thời tiết buổi chiều đe dọa chuyến về của bọn tôi. Ông Biểu nhìn trời, rồi lắc đầu trấn an chúng tôi:

– Chẳng lẽ tháng hè lại đổ mưa. Nhưng các em hãy cố gắng về cho sớm kẻo ba má đợi.

Tôi leo lên xe và Kim được Huấn đèo giúp. Nhìn lại rặng vườn âm u, tôi âm thầm gởi lại đây một kỷ niệm đơn sơ của tuổi học trò, của tình yêu sơ sài không hẹn trước. Linh cảm cho tôi biết, tôi đến đây chỉ một lần, nhưng tôi mong Nam còn đến với tôi dày đặc như những chiếc lá cam và chàng sẽ cho tôi những mộng đẹp ngọt ngào như một trái cam chín cây trong mảnh vườn xa tít mắt nầy.

Cũng con đường hồi sáng, nhưng bây giờ tôi cảm thấy dài ra, uể oải như có cái gì níu lấy hai chân. Tôi đạp xe chầm chậm. Trời thương tôi nên không làm gió ngược. Huấn dừng lại đợi tôi. Chàng đề nghị tôi để chàng tiếp sức bằng cách để Kim níu tôi như kéo «rờ-mọt». Chiếc xe tôi tròng trành một lúc mới giữ nổi thăng bằng. Kim cố gắng lôi tôi trong lúc Huấn cong lưng đạp mạnh. Đến những ổ gà trên đường, tôi buông tay Kim để giữ lấy tay lái và tôi lại tiếp tục «báo đời» hai đứa nó cho đến khi nhìn thấy giải đèn vàng úa trước mặt của bến bắc đìu hiu thưa thớt khách sang sông.

Tôi dẫn xe xuống phà và dựng vào thành bắc nhìn xuống dòng sông đen đặc chảy lờ đờ. Tôi khoanh tay trước ngực, gió lành lạnh ở hai bàn tay. Tôi nhìn hai bên bờ, những cây bần mọc bên mé nước chiếu ra hàng muôn triệu chấm ánh sáng xanh lân tinh chớp tắt liên hồi. Tôi tưởng tượng đó là một khối lân tinh tập trung hàng hà sa số hồn ma bóng quế.

Một lần nọ, có con đom đóm bay lạc vào nhà, bà ngoại tôi nói rằng:

– Vong hồn người nào đó về thăm nhà mình.

Tôi cảm thấy rờn rợn và trí óc non nớt của tôi dễ bị đe dọa.

Mẹ tôi thêm:

– Bắt đom đóm, sẽ làm bể chén dĩa sau đó.

Bây giờ đứng trên thành chiếc phà nhìn hàng triệu con đom đóm chiếu lập lòe, tôi nhớ đến lời ba tôi năm xửa năm xưa:

– Mỗi con đom đóm là một linh hồn người chết và mỗi ngôi sao xẹt là có người vừa lìa bỏ cõi đời.

Thành thử, mỗi khi nhìn thấy đom đóm la đà bay qua, tôi nghĩ đến bà tôi đang nhập vào con vật sáng ánh như màu ngọc sa-phia về bên tôi và khi nhìn sao đổi ngôi, tôi nghĩ một cái tang rũ xuống gia đình nào đó và tự nhiên tôi buồn bâng quơ.

Tiếng chân vịt của chiếc phà rồ lên rồi im dần. Nước xoáy tròn, dề lục bình chơi với chết hụt dưới lườn phà. Tôi giao Kim chiếc xe đạp và theo hẳn Huấn. Từ đây đến nhà không còn xa lắm. Huấn và tôi đi song song nhau. Huấn một tay vịn ghi-đông xe và một tay bỏ lửng. Lũ bạn sốt ruột đã rùng rục phóng xe mạnh ai về nhà nấy. Chúng tôi đi bộ qua một ngôi đình nằm bên đường. Nơi đó cửa đóng im lìm và không có một ánh đèn. Nóc đình uốn hình hai con rồng giao du và có vài nơi ngói bể nát đổ xuống lòng máng xối. Quanh đình trống trơn và đồng ruộng chạy thoai thoải.

Huấn chỉ vào đình, giọng chàng trầm xuống:

– Nơi sân đình nầy, mười năm về trước ba tôi đã bị chết chém.

Tôi hơi hoảng hốt hỏi tới:

– Sao vậy Huấn?

Huấn ngậm ngùi:

– Tây bắt ba tôi đang «chém dè » dưới mé nước, và khi bọn nó thấy dề rau mác lay động, chúng nghi có quân kháng chiến trốn ở đó. Chúng sai bọn lính Miên theo hầu làm chó săn dùng dao chém xả vào mấy lùm rau mác. Ba tôi bị thương nơi cánh tay, máu loang đến mặt nước đỏ ngầu và ông đành trồi lên đầu hàng chúng. Khi lôi cổ ba tôi lên khỏi mặt nước, bọn nó đem ông vào sân đình và sẵn mác, chúng chém người đứt lìa cổ.

Nói đến đó, giọng Huấn trầm xuống ướt sũng nước mắt.

Thầy Biểu và lũ bạn dừng lại chờ tôi và Huấn. Bà Hảo thận trọng điểm lại số học trò. Khi Huấn và tôi vừa đi tới thì bà Hảo reo lên:

– Thiếu hai đứa nầy. Tụi em làm gì mà lục đục tới bây giờ mới đến?

Vài giọng cười rúc rích chế nhạo. Huấn dõng dạc:

– Thưa cô, chị Liễu thích đi bộ một khoảng cho đỡ tê chân nên em ở lại cùng đi với chị ấy cho vui.

Ông Biểu trở về phía đình:

– Các em có biết ngôi đình lèo tèo đó là ngôi đình lịch sử không?

Bầy học trò nhao nhao lên

– Thưa thầy, sao người ta gọi đình nầy là đình Khao?

Ồng Biểu tằng hắng:

– Ngày xưa khi quân Pháp vừa mới đặt nền đô hộ thì nơi đây, những bậc tiền nhân chống Pháp ban đêm tụ tập làm lễ «uống huyết ăn thề», mỗi người dùng gươm cắt tay lấy máu cho vào vịm pha rượu đế. Trên nóc đình treo hằng trăm thanh gươm. Tất cả mọi người ngồi xếp hàng quanh chậu huyết pha rượu. Họ thề với nhau: «Ai có tâm địa phản bội tổ quốc sẽ bị những thanh kiếm thiêng nầy rơi xuống chém đứt đầu». Thề xong, họ chia nhau uống huyết trong chậu để tăng cường sự hăng say phụng sự tổ quốc, chia sớt gian khổ với anh em đồng sanh tử…

Chúng tôi tiếp tục tiến vào thành phố.

Bên kia đường tiếng hát ru em hòa lẫn tiếng kẽo kẹt của chiếc võng làm mí mắt tôi nặng. Tôi nhìn lên trời. Con trăng lưỡi liềm treo lơ lửng trên nóc nhà việc làng, tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Một giọng hát từ trong mái lá cất cao lên…

Đến dốc cầu rẽ qua thành phố, chúng tôi chia tay nhau. Tôi ở bên nầy cầu, rẽ theo con sông Long Hồ phía bên trái và được về nhà sớm hơn các bạn. Bên kia sông, sự hoạt động về đêm sôi lên tràn trề…