Chương 7
MÙA TỰU TRƯỜNG TỚI, ông Hiệu Trưởng cũ đã đổi đi, và một ông Hiệu Trưởng khác dòng dõi vua chúa ngoài Huế đổi về.
Trọn một mùa hè qua, lòng tôi đã xáo động không ngớt, hình bóng Nam cứ chiếm hết cả ý nghĩ của tôi. Mấy trận mưa dầm dề làm đám cỏ bên hông nhà xanh um và cây hoàng lan đêm đêm nở hoa thơm ngát.
Tôi bắt đầu viết nhật ký và viết thư gởi Nam. Chàng hồi âm cho tôi rất âu yếm. Tôi không dám khoe với Kim, nhưng thường tìm nàng để cùng nàng nhắc đến những mối tình thiên thu của các nhân vật lịch sử. Chúng tôi dành tiền mua chỉ màu và ngồi thêu suốt ngày bên khung cửa sổ quay về dòng sông. Kim hát bài Mỵ Nương Trương Chi hoài không chán. Nhưng tôi muốn khám phá đời sống qua Nam. Tình yêu là gì? Chuyện đó tuy gần mà sao xa quá làm tôi bứt rứt.
Tựu trường, má tôi may cho tôi chiếc áo cẩm vân trắng. Tôi bắt đầu đi guốc, và sửa dáng đi cho nhàn rỗi, uyển chuyển hơn. Thế nào cũng phải gặp Nam.
Nhà trường tổ chức một bữa tiệc mặn vào lúc tối để đón tiếp ông Hiệu Trưởng mới và bà vợ trẻ đẹp biết đánh đàn tranh của ông ta. Bữa tiệc đó chỉ có ban giáo sư và các giám thị ở trường. Bọn học trò thì cũng hùn tiền lại, tổ chức tiệc trà trên sân cỏ nhà trường vào buổi xế cùng ngày. Ông Hiệu Trưởng cũng có tham dự, nói vài lời huấn dụ, và chúng tôi bắt đầu mê lời nói ngọt lịm và trơn láng của ông ta.
Tôi không quên buổi chập choạng tối trong sân trường, trên bãi cỏ Nhật Bản xanh mịn như thảm nhung chạy dài đến nhữug lối sỏi. Hàng ghế học trò đâu nhau phủ nắp trắng làm bàn ăn luôn cả ghế dựa. Phòng khánh tiết lộ thiên lợp bằng nền trời đen chi chít các vì sao mọc sớm. Anh Nam và chị Ngọc làm trưởng ban tổ chức của hai lớp Đệ Ngũ (hồi chúng tôi còn học Đệ Ngũ). Cả hai đến từng nhà các bạn cùng lớp mượn chén dĩa và những dung cụ dùng cho bữa tiệc. Hai dãy bàn chạy dài từ cổng vào, vòng theo cái sân bao quanh phòng Giám Thị. Những chén dĩa ly cốc không đồng nhất. Nhà trường rước về môt toán thợ nấu đồ rừng, dắt con dê xuống nhà kho dành cho các bác tùy phái, nơi đây nổi lên ba bốn bếp lửa. Con dê bị trói bốn chân, bác đồ tể cho nhậu rượu đế. Khi nó say túy lúy nằm thở hồng hộc thì bác đồ tề dắt nó ra giữa sân cột vào cây trụ, rồi dùng roi quật vào lưng nó. Tuy say nhưng nó phải cố gắng đâm đầu chạy trối chết. Nếu nó vừa ngừng lại thì trận mưa roi lại trút xuống. Bác đồ tể hành nó mệt ngất xỉu rồi mới chịu đem ra cắt tiết. Bọn tôi đứng quanh nhìn cách chết thê thảm của nó, ngạc nhiên hỏi bác đồ tể:
– Tại sao bác không cắt cổ dê như heo hay bò, hoặc đập đầu cho nó chết tốt, đỡ tội nghiệp hơn.
Với bộ ngực, hai cánh tay bắp thịt cuồn cuộn có xâm những hình cổ quái, ướt đẫm mồ hôi, bác đồ tể thở hồng hộc vì phải rượt theo con dê hằng mấy mươi vòng quanh cột trụ. Tôi nhìn người và vật xoay tròn trên khoảng đất làm đầu óc tôi xây xẩm. Bác ngồi xuống nghỉ mệt, vấn điếu thuốc rồi giải thích:
– Phải làm cho nó xuất hạn trước khi cắt cổ thì thịt ăn không hôi.
☆
Hàng cây điệp giăng mắc bóng đèn vàng vọt hiu hắt. Ông Mậu cười bâng quơ, đoạn ông quay qua ông Giám Thị tên Minh:
– Thôi cũng tạm được, đèn nửa mờ nửa tỏ càng tăng thêm vẻ thơ mộng.
Ông Minh ngắt lời:
– Nghe nói người Huế có món cơm gọi là «Cơm Âm Phủ », chắc lúc ăn cơm, họ cũng dọn ra chỗ tranh tối tranh sáng cho có vẻ trần gian giáp nối với âm cảnh, nên món cơm đó có cái tên thơ mộng và ý nghĩa như vây, phải không ông Tổng Giám Thị?
Ông Mậu cười xòa rồi giải thích về món cơm đặc biệt của quê ông cho đám học trò đứng quanh lẫn ông Giám Thị nghe và ông rao vài đường suy tôn món cơm ấy.
Thằng Tín há hốc mồm rồi hạ giọng:
– Đúng là khi ăn cơm đó xong thì chỉ muốn đi âm phủ cho rồi.
Chúng tôi rúc rích cười và ông Minh cũng hiểu ý, mấp máy đôi môi đen thâm vì khói thuốc.
Thằng Quan trổ giọng quê hương của bà nội nó, nó vốn là Triều Châu lai Việt:
– À, cái lầy cơm âm phủ của nị sao bì kịp cơm Dương Châu của ngộ ngon nhất bên Tàu.
Khi đó, ông Mậu và ông Minh vừa quay đi. Trên phòng giáo sư, bàn tiệc đã bày sẵn và trên bàn rải rác những đóa hoa điệp đỏ lẫn hoa ti-gôn hồng nhạt. Bọn học trò tinh nghịch đem dây tơ hồng vàng ối cho bò lên những chiếc khăn ăn xếp hình đóa sen nở. Bọn học trò rỉ tai nhau rúc rích cười. Hôm nay là ngày đám cưới của các vị giáo sư và giám thị. Tiệc thịt dê lại còn có ý nghĩa hơn. Chúng nó thì thầm tại sao không đãi gà, vịt, heo, bò mà lại làm dê. Năm nay là mùa giao duyên của hàng giáo sư. Ông Biểu đã dòm ngó bà Hảo hồi mấy tháng trước. Bà Lý đã đưa ông Chung vào căn phòng sau nhà kho mà bà ở tạm. Căn phòng đơn sơ nhưng nhờ bà khéo bày biện nên trông cũng có vẻ ấm cúng. Bà tự nấu ăn lấy, lúc rảnh, thêu thùa săn sóc da mặt, coi sách, trồng bông hường. Bà từ Saigon đổi về đây dạy nữ công và gia chánh. Bà hơn bốn mươi tuổi, đã góa chồng gần hai mươi năm nay. Bà chỉ có đứa con gái độc nhất đã bỏ nhà theo trai trước khi bà về đây nhận việc. Bà sống cô độc, thui thủi tội nghiệp. Chẳng bao lâu, bà chinh phục được một đám học trò lui tới chơi với bà vào những giờ tan việc ở trường. Bà cảm thấy đỡ trống vắng trong cuộc sống giữa nơi tứ cố vô thân nầy. Tuy trên bốn mươi tuổi nhưng bà còn giữ được vẻ trẻ trung lâu nhờ gương mặt trái soan, cặp môi gọn gàng, cởi mở và màu da mịn màng nhờ nuôi dưỡng công phu. Nhưng chắc chắn hơn hết là bà trẻ nhờ giọng cười, và bà phong lưu nhờ cách phục sức ở nhà bằng bộ «côm-lê» trắng viền ren trong như búp bông lài. Bọn học trò trong câu chuyện thường thành thật khen bà:
– Cô đúng là gái một con trông mòn con mắt.
Bà chống chế một cách yếu ớt nhưng không che dấu nỗi sung sướng và hãnh diện trong ánh mắt. Dáng bà thon thon, và bà thường thích mặc màu trắng nên dễ lẫn lộn trong bọn học trò con gái khi bà đứng chung với chúng tôi. Bà vương vãi cho người chung quanh sự trẻ trung và bà đã làm cho chúng tôi quên bà suýt soát tuổi cha mẹ chúng tôi. Bà tham dự tất cả những cuộc chơi có tính cách thể thao với bọn tôi như những buổi chơi vũ cầu trong sân trường. Giọng cười bà cất lên trong trẻo, tinh nghịch và phơi phới vào những chiều trên khoảng sông vắng bà theo chúng tôi đi bơi. Mỗi người mặc chiếc quần xanh dương thẫm bó ống và chiếc áo ngắn tay màu xanh thiên thanh. Bộ đồ đó dành mặc tập thể dục. Bà bì bõm lội kiểu chó và chúng tôi xúm nhau bao quanh bà và xô sóng vào tấn công bà, làm bà chới với vì những lượn sóng xoáy tròn, và bà kêu la bài hãi làm nhốn nháo cả mặt sông. Chúng tôi giỡn cho bà vừa mệt rồi lôi bà vào bờ. Bà leo lên chiếc cầu ván bắt từ bờ nhủi xuống sông ngồi thở. Chiếc áo mỏng trong suốt và hơi thở bà gấp rút làm tôi có cảm tưởng ngắm bà như một bức tượng bán thân giữ cả một nguồn sinh lực mùa xuân dai dẳng. Đức lội vào bờ ngồi cạnh và vuốt trên lưng bà, nửa đùa nửa thực:
– Thân thể cô là thân thể đàn bà nên nồng nàn hơn thân thể bọn con gái tụi em nhiều.
Trong những lúc đó, cuộc sống huyên náo, trong sáng làm bà Lý trẻ trung, nghịch ngợm hơn. Bà cười đùa sảng khoái, quên khoảng thời gian cô độc, buồn nản từ ngày bà về cái tỉnh lẻ mà trước kia bà cứ nghĩ rằng nơi đó sẽ xa bóng dáng thân thuộc của người thân và những chuỗi ngày góa bụa của bà sẽ còn kéo dài mãi không thôi.
Ngày xưa, khi chồng bà chết vì bạo bịnh, bà mang thai đứa con gái đầu lòng được mười lăm hôm. Cuộc sống vợ chồng chỉ đến với bà trong vòng hai tháng. Mẹ chồng thấy nàng dâu còn trẻ nên đề nghị gả bà Lý cho một người đàn ông góa vợ và có địa vị trong làng sau khi mãn tang con trai bà. Bà mẹ chồng cứ nghĩ đến tương lai của đứa cháu nội mồ côi khi bà nhắm mắt từ bỏ tất cả. Nhưng lúc có những hình ảnh, những kỷ niệm thuở bà còn là nữ sinh trường Áo Tím và thuở chồng bà còn học trường Trương Vĩnh Ký lãng vãng trong trí nhớ nên bà không thiết gì đến chuyện cải giá. Bà giận mẹ chồng và cho là mình đã bị xúc phạm và bà nghĩ mẹ chồng mình muốn tống cổ mình ra khỏi nhà. Bà khóc lóc, vật vã mấy ngày liền, rồi bồng con trở về sống với mẹ ruột.
Hai năm sau, bà đã xin đi dạy học nuôi con. Bà Lý chỉ có ý nghĩ làm lại cuộc đời khi đứa con gái lớn lên và dần dần xa bà. Nó không còn quấn quít bà như lúc còn bé. Bấy giờ bà mới thấy cần một người đàn ông bên cạnh lúc đau yếu hoặc lúc thất bại. Sau khi con gái bà lén trốn theo trai, bà cảm thấy có chồng là điều cần thiết. Bà không còn chịu đựng nổi sự cô độc vò võ bên bà mẹ già nên xin đổi về đây mong rằng cuộc sống buồn nản sẽ có cơ hội thay đổi và bà lại chờ đợi.
Bà tâm sự với chúng tôi:
– Cô tưởng về đây sẽ buồn và cô độc hơn nữa, nhưng trái lại…
Bà không mấy thích chơi với nữ đồng nghiệp vì bà có mặc cảm thua sút họ. Môn bà dạy có tính cách phụ thuộc và bà còn mặc cảm là mình có trình độ văn hóa thấp, và nghèo hơn các bạn dạy cùng trường. Bà thích tâm sự và nghe tâm sự của chúng tôi, thích tìm hiểu đời sống của các cô nữ sinh ngoài phạm vi nhà trường nên bà thường đến thăm nhà mỗi đứa. Chúng tôi xem bà như một người chị, một người bạn có thể gia nhập vào sự sôi nổi huyên náo trong các cuộc chơi.
Trong hàng giáo sư, số mê bà chiếm hết hai phần ba. Họ tìm đủ cách chinh phục bà. Trong số đó, chỉ có ông Chung dạy toán lý hóa là được bà chú ý nhất.
Ông Chung cũng vừa đổi về đây một lượt với bà. Vừa gặp ông ở phòng giáo sư, bà hoảng hốt vì tướng mạo người nầy có nhiều nét giống chồng bà. Nụ cười ông Chung vừa tươi, vừa nghịch ngợm ở chiếc răng khểnh. Cũng đôi mắt một mí dưới chiếc kính cận và mụt ruồi nằm dưới cằm. Bà cho là chồng bà tái sinh nhưng già đi đôi chút. Rồi thì hình ảnh ông bạn đồng nghiệp đó lởn vởn trước mắt bà mỗi ngày hai buổi trong phòng giáo sư. Dần dà sự gặp gỡ đó biến thành một thói quen kỳ lạ. Bà bắt chuyện với ông Chung và hình như bà là một thỏi kim loại thu hút ông. Bà không mặc áo trắng, bà may thêm vài cái áo lụa Bombay, và mỗi khi đi đâu, bà cũng quàng khăn san màu bia vàng óng. Sự thay đổi của bà, ngoài quần áo, còn ở chỗ căn phòng mới sơn màu kem, rèm sáo màu hồng rắc bông trắng. Bà lại hỏi chúng tôi là liệu bà uốn tóc có hợp với tuổi tác không?
Đôi khi, bà kể lể:
– Sao trời có thể nặn hai người giống nhau như hai hột đậu vậy cà?
Lũ thằng Tín thông báo với chúng tôi:
– Bà con ơi! Coi mòi ông Chung đang chiếu tướng bà Lý. Cặp nầy không sớm thì muộn cũng «cụp» nhau. Mà bà Lý gan trời mới nhào vô ông Chung.
Oanh nhìn quanh quất tiếp ·
– Tao ở gần bà Chung. Trời ơi! Con mẹ Bắc đó dữ như sư tử Hà Đông. Hàm răng khít rịt như sẵn sàng đay nghiến ai.
Đức tiếp lời:
– Mà đúng sự thật bả ở tỉnh Hà Đông, bả nói với tao hôm nọ khi tao đem bài đến nộp cho ổng.
Sáo chen vào:
– Lạng quạng, bả xé bà Lý ra trộn gỏi, tao ghê đàn bà Bắc số một, ngọt bề ngoài, đắng bên trong, đúng là viên thuốc bọc đường.
Thằng Quan ngắt lời:
– Chị và chị Đức mai sau lấy chồng lưng còm để sẵn sàng luồn cúi, còn cô nào mà động tới lông chưn chồng mấy bà là mấy bà xởn tóc, lột truồng người ta giữa ban ngày.
Sáo cự nự:
– Nè, tui con nít chớ nói chuyện bao đồng, con nít hãy lo ăn sữa bột đừng có nói chuyện vợ chồng. Chồng tao sao nầy dắt tình nhân lượn trước mặt thử coi. Tao có cách riêng giữ hồn phách của chồng, khỏi cần la lối ồn ào.
Oanh trề môi:
– Thôi đi mẹ, mẹ chỉ làm thinh vác cây sắt lụi người ta như lụi cá nướng trui đó à?
☆Giờ nhập tiệc đã bắt đầu. Chúng tôi thuộc nhóm bồi tiệc nên được ăn tiệc thịt dê và chúng tôi đùa giỡn náo loạn cả sân trường dưới ánh đèn vàng nhỏ từ những cành cây còng cao, um tùm lá. Tiếng pha lê cụng nhau, mùi rượu nồng nặc, tiếng cười dòn dã, những lời bông đùa huyên náo. Khách qua đường dừng chân lại nhìn vào sân trường và cười hùn với bọn học trò tác yêu tác quái. Bọn con gái thật quá lộng, những chuyện tếu thanh lẫn tục làm quà cho bữa tiệc trong hàng ghế con gái.
Kim và tôi đang ngồi thưởng thức miếng thịt dê với ly bia pha xá xị. Trong ánh đèn mờ mờ, mặt Kim đỏ bừng; tôi cầm chai bia rót thêm vào ly cho nàng.
Tôi hỏi:
– Uống bia pha nước ngọt mau say phải không Kim?
Đức cầm ly bia đang sùi bọt trắng xóa đến gần Kim, vịn vai nàng.
– Cha chả. Phật Bà Quan Âm hôm nay phá giới. Con Kim nầy đã uống bia khác nào Tam Tạng ăn thịt chó uống rượu đế.
Kim nhìn tôi một lúc trách:
– Tại con Liễu nó cứ rót bia vào ly tao hoài.
Oanh thêm:
– Đừng lo, lát nữa con Liễu sẽ cõng mầy về.
Sáo rỉ vào tai tôi:
– Kêu thằng Huấn cõng cho.
Kim lắng nghe và cự nự nhưng không lấy gì làm quyết liệt:
– Đừng nói bậy, người ta nghe được kỳ lắm. Tụi bây giỏi tài cáp đôi hoài.
Đức cười hóm hỉnh:
– Muốn ăn gắp bỏ cho người đó, tụi bây ơi!
Oanh can:
– Thôi tụi mầy, hôm nay không phải là ngày gây gổ mà là ngày ơn đền oán giải.
Ngọc reo lên:
– Phải đó, các bạn ạ, theo tao thì một câu nhịn bằng chín câu cự.
Kim bật cười thành tiếng. Huấn cầm chai bia đi ngang bắt gặp Kim đang cười dòn, chàng ghé lại:
– Chắc hôm nay Kim vui lắm phải không?
Kim vụt làm nghiêm đáp:
– Có gì đâu anh, các chị nầy đang cãi nhau cho buổi tiệc có hài lẫn bi vậy mà.
Tôi day qua Sáo:
– Sáo! hình như mầy và con Đức bắt tay giao chiến. Sao hai đứa nầy kiếm chuyện kê nhau hoài vậy?
Chúng tôi đang túm tụm nhau nói thì thằng Tín hớt hơ hớt hãi chạy lại:
– Mấy người hãy lên phòng giáo sư coi ếch bắt cặp kia.
Oanh hỏi dồn:
– Mầy nói vậy nghĩa là sao?
Tín lắc đầu, xua tay:
– Muốn thấy thì đi ngang qua đó.
Oanh chêm vào:
– Đi đi anh chị ơi. Nếu thằng Tín nói gạt, tụi mình sẽ căng nọc, đánh nó một trận.
Thằng Tín hất hàm.
– Muốn ăn phải lăn vô bếp chớ. Muốn chết thì lết vô hòm. Mấy người nầy vừa tọc mạch vừa làm biếng.
Tức thì, Oanh lôi Ngọc bỏ ghế đi mất. Chẳng bao lâu chúng tôi lần lượt tiến về phòng giáo sư. Trên chiếc bàn đặt dài chiếm cả văn phòng, từng cặp một ngồi đối diện nhau. Ống Biểu ngồi ngang bà Hảo, ông Chung đối diện bà Lý, ông Thái ngang mặt bà Mai.
Đức kề tai tôi:
– Mầy thấy chưa?
Tôi lắc đầu:
– Thì họ sắp đặt để ngồi với nhau từng cặp, chớ có gì đâu mà thằng Tín la bài hãi như vậy?
Đức rùng vai:
– Mày có mắt bận quần. Hãy nhìn xuống gầm bàn kia.
Tôi liếc xuống gầm bàn, rồi kéo Đức đi một nước.
Các ông đã rút chân ra khỏi giày sờ soạng trên bàn chân quý bà.