← Quay lại trang sách

Chương 4

TÔI BỎ LỚP SỚM HƠN NGÀY THI bằng Thành Chung gần ba tháng khi tôi nhận được phiếu báo danh ngày thi giảng tập viên. Tôi không hề thố lộ cho ai biết và bỏ một ngày học để đi dự thi.

Ông Ty Trưởng ném cho cho tôi quyển qui trình và dặn:

– Cô về xem cho kỹ, ngày mai chắc chắn sẽ có một vài câu hỏi rút trong đó. Đáng lẽ cô phải học thuộc lòng thì họa may mới hòng chấm đậu.

Tôi nhếch mép cười, rồi lặng thinh đem quyển sách ra khỏi văn phòng. Thực ra, tôi không hề biết nào là qui trình và bài vở thi là những môn nào?

Sáng hôm sau, tôi ngồi vào phòng dự thi mặc dầu sau khi mang cuốn qui trình về, tôi không đọc quá phân nửa. Có lẽ tôi không tha thiết làm cái nghề gõ đầu trẻ nầy cho lắm nhưng tôi biết rằng nếu bỏ lỡ cơ hội để thi cho xong bằng Thành Chung, chắc tôi không có dịp nào để đi làm, ngoài cái nghề giáo viên trong phạm vi tỉnh lẻ nầy. Ông thầy cũ của tôi khi nghe tin giờ chót, liền tìm đến tôi.

– Nếu con cần đi làm, thầy sẽ đứng ra lãnh con vì hôm nay khóa sổ nộp đơn rồi.

Tôi không phải suy nghĩ dài dòng:

– Thưa thầy có thể giúp con…

Ông Minh đưa cho tôi một cái đơn và tôi điền ngay tên họ, ngày sinh tháng đẻ của mình vào đó.

Thầy Minh dặn:

– Con rán thi một lần cho đậu vì có người thi đến mấy keo mà vẫn trợt vỏ chuối hoài. Bây giờ thời buổi khó khăn, sở nào cũng dày đặc người muốn chen vào làm.

Tôi cám ơn thầy và chẳng hy vọng gì cả. Bốn trăm thí sinh mà chỉ tuyển lấy có hai mươi người

Hôm đi thi, tôi bước đến gần một người quen hỏi:

– Thi có những môn gì vậy anh?

Người đàn ông đó tròn mắt ngạc nhiên:

– Cô chưa biết gì hết thì đi thi làm gì cho uổng công. Tôi thi lần nầy là lần thứ ba mà cũng không hi vọng lắm…

Tôi cười nhìn hắn, sau nét mặt có vẻ bực bội về những câu hỏi mà hắn không tin rằng tôi thật tình. Hắn lại nói:

– Cuộc thi gồm có Qui trình, Tập viết và bài Phiên dịch Việt văn ra Pháp văn.

Tôi ngó hắn:

– Có cả tập viết nữa sao anh?

Bất giác tôi cười dài và nhớ đến lời ông Trường mắng tôi như tát nước bè về tội viết chữ xấu. Chắc chắn gặp môn ác ôn nầy, tôi xin cầm cờ đi chót, chớ làm thế nào mà tranh nổi với mấy ông đàn ông.

– Còn qui trình thì sao anh?

Hắn nói như muốn gây:

– Cái đó phải học thuộc như học cửu chương mới được. Hễ người ta hô điều số sáu, khoản mấy thì phải biết ngay nó là lời dặn gì đối với một nhà giáo.

Hắn lại dọa:

– Còn bài phiên dịch khó lắm…

Tôi nhìn thấy trong túi quần hắn cuốn tự điển Việt Pháp loại bỏ túi ló ra. Tôi chợt cười thầm. Hình như ai cũng có đem bùa để quây. Riêng tôi, tôi ngơ ngác như ngỗng đực. Gia sản tôi chỉ có cây viết Pilot và quyển tập giấy trắng để kê viết cho êm.

Tiếng trống báo giờ thi nổi lên hối thúc.Tôi rút tờ phiếu báo danh nhìn lên góc: số 400. Con số cuối cùng trong bản danh sách dự thi. Sau khi tìm được chỗ ngồi, tôi cảm thấy mình lạc lõng giữa hai hàng ghế dài toàn là đàn ông. Ông giám thị bước vào. Tôi chợt mừng nhận ra ông thầy học cũ hồi tôi còn học lớp Nhì trường làng. Dưới đôi kính già để trệ xuống gần chót mũi, ông nhìn quanh lớp và căn dặn thí sinh mấy điều lấy oai..

Một dùi trống mở màn môn qui trình. Tôi nhìn lên bảng, ông thầy cũ tôi thoăn thoắt ghi lên bảng đen cái đề tài bằng phấn đỏ, nét chữ bay bướm. Tôi hồi hộp nghĩ ngay mình sẽ rớt ngay môn nầy không đợi đến môn tập viết đẹp.Tiếng trống ngắn làm tôi đánh thót như bước hụt chân. Tôi lẩm bẩm đọc đề thi «Nhà giáo phải làm thế nào đối với học trò khi ngày đám cưới của mình gần kề?»

Tất cả thí sinh hùng hục viết qui trình theo số trang trong sách. Tôi ngơ ngác và cuối cùng biến bài qui trình thành một bài luận, nghĩ theo mình ; ý kiến riêng do trí mình tưởng tượng, suy luận. Thiên hạ thuộc nằm lòng mấy điều căn dặn trong cuốn qui trình trong hai mươi phút. Viết không nghĩ ngợi, cắm đầu cắm cổ làm theo điều nầy, khoản nọ. v.v…

Ông giáo già đầu râu tóc bạc lò dò đi bắt kẻ gian đang quây «bửu bối» từ trong tay áo, vạt áo dài. Đủ loại mánh khóe để qua mặt giám thị. Khi ông đến bên tôi với vẻ mặt lãnh đạm như chưa hề gặp tôi lần nào trong đời ông, ông nhìn xuống bài làm, suýt la lên. Ông tin chắc tôi lạc đề, vì thấy tôi không biết tí gì về qui trình, và tôi đang hát cương. Nhưng một lúc sau, ông mỉm cười chắp hai tay sau mông đi rình rập người khác.

Tan giờ đó, ông gọi tôi lên bục gỗ, trách nhẹ:

– Làm thế nầy khó được tuyển lắm. Con có biết qui trình là cuốn kinh của nhà giáo không?

Tôi mỉm cười:

– Mãi tới bây giờ, con chưa thuộc lấy một câu trong quyển qui trình nữa là đến điều 57 gì đó.

Vừa lúc đó, ông Ty Trưởng bước vào. Thầy cũ tôi thỏ thẻ điều gì lâu lắm với ông. Ông Ty Trưởng lấy tờ giấy thi của tôi lẩm nhẩm đọc. Vụt ông bật cười rồi gật gù.

Sau giờ thi, tôi trở về nhà cười thầm rằng hôm nay mình phí môt ngày học một cách vô ích. Chắc chắn tôi sẽ giấu nhẹm chuyện nầy, không tiết lộ với đứa nào trong lớp. Không phải tôi xấu hổ vì mình rớt. Tôi chỉ hơi tủi thân một chút khi mình đã bắt đầu nghĩ đến bỏ học và chạy kiếm cơm quá sớm trong khi bọn bạn bè trong lớp còn mơ rượt đuổi mảnh bằng.

Mấy tuần qua, tôi bỏ quên cuộc thi và hình như tôi không buồn đi xem bảng niêm yết thí sinh trúng tuyển. Tôi tự nghĩ thi cử cái điệu dó, nếu không rớt về môn qui trình thì chắc chắn nội chữ viết như cua bò của tôi cũng đủ xin hẹn lại kiếp khác mới được chọn làm cô giáo.

Nhưng một hôm vào lớp, tôi ngạc nhiên khi thấy ông thầy cũ của tôi đang đứng ngoài hiên chờ – chiếc xe Alcyon dựng bên thềm. Tôi cúi đầu chào, và thầy vào đề ngay:

– Thầy đến báo tin con đã đậu vào khóa giảng lập viên, hạng năm trên hai mươi.

Tôi há hốc mồm đến độ kinh ngạc.

Ông cười:

– Tuy chữ viết con kém, nhưng bài qui trình, ông Ty Trưởng và ban giám khảo đều công nhận rằng có ý riêng và không thua nội dung của qui trình.

Trời vừa rực sáng, tôi đã có mặt tại địa điểm công tác phụ trội ngày chúa nhật – đắp lộ đất. Con đường nầy nối liền đường cái vào khu trù mật, bề rộng có thể cho phép hai chiếc xe đò chạy ngược chiều được. Ông Tỉnh Trưởng chỉ thị tất cả nam nữ giáo viên luân phiên đi đắp lộ vào ngày chúa nhật mỗi tháng hai lần. Sau khi toán trưởng của ban kiểm soát điểm danh chúng tôi, tất cả đều mặc đồng phục đen đội nón lá, chân đi trần, sẽ biến ruộng sâu thành lộ cái. Mỗi người xoắn quần khỏi đầu gối nhảy tõm xuống sình. Nam giáo viên có phận sự nặng nề hơn nữ giáo chức.’ Họ phải đào những viên đất vuông ném cho các nữ giáo viên ôm lên đắp lộ. Chúng tôi tổ chức làm việc theo lối dây chuyền – và tôi đứng làm cái móc nối cho phái nam lẫn nữ. Khi một thầy giáo xắn cục đất không lớn hơn viên gạch tiểu rớt ra khỏi khối đất lớn, tôi có phận sự bê nó lên rồi chuyền đến hàng chục người mới tới bờ lộ. Những bộ móng tay sơn màu nhọn hoắc xuýt xoa tiếc rẻ. Duy có tôi với hai bàn tay cắt sát móng, bàn tay cố hữu của con nhà lao động, không có gì để đau xót khi bê những cục đất đen ngòm còn hăng hăng mùi rạ mục.

Tôi chợt buồn vì trong công việc tập thể nầy không có lấy một khuôn mặt quen thuộc, không môt tâm tình cởi mở, không một lời bỡn cợt hồn nhiên và tôi cảm thấy xa vắng những chuỗi cười, những câu bông đùa nghịch ngợm của lũ bạn.Tôi lẩm bẩm tính lại tôi vừa bỏ nhà trường, bỏ hàng cây còng rợp bóng mát, bỏ những cuộc du ngoạn luôn cái thú ngồi quanh bà hàng nước đá si-rô vào những buổi trưa. Tôi, đón từng viên đất mới xắn, như một cái máy, rồi trao qua người đứng gần bên.

Chuyền được vài chục cục đất thì các chị bạn kêu mỏi và dắt nhau tìm chỗ bóng mát nghỉ xả hơi và giải lao. Ban ủy lạo đem tới toán chúng tôi một thùng thiếc nước chanh tươi và mỗi ông giáo đem chiếc lon Guigoz múc, rồi rót vào từng chiếc ca bằng nhôm. Tôi thấm mệt, mồ hôi rịn từ chân tóc, chân lông. Chiếc áo bà ba đen bê bết bùn. Tôi tìm một gốc cây ngồi bệt xuống, giở chiếc nón lá ra phe phẩy trước mặt, và cảm thấy mình lạc loài giữa những người đàn bà. Họ bàn bạc nhau về hụi hè, hột xoàn và các thức thời trang. Họ còn khoe nhau chuyện chồng con. Kể cho nhau nghe những chuyện ghen tuông và những chiến dịch đi rình rập chồng mình. Tôi chưa có thể nhập vào cái thế giới xa lạ đó. Thế giới của tôi là thế giới của lũ trẻ mới lớn thích ăn hàng vặt, thích đi du ngoạn, thích phá phách từ hàng giáo sư đến bạn bè, thích tán nhảm về chuyện ái tình, âm nhạc, ca vũ, ciné. v.v…

Nga, một chị bạn cùng khóa giảng tập viên với tôi, gương mặt xanh vì mệt, nhưng nụ cười rất tươi, men tới hỏi chuyện:

– Chị Liễu sao có vẻ buồn vậy?

Tôi cười chống chế:

– Hơi mệt vì đêm qua mất ngủ.

Nga cũng vừa bỏ học như tôi. Nga học trường tư. Nàng có chiếc răng khểnh và cái dáng dấp giống Kim. Nang khác Kim ở điểm mê màu đỏ thay vì màu tím.

Tôi nói giỡn khi cái khăn mùi-xoa bằng the đỏ loe ra khỏi túi áo đen của nàng:

– Kiếp trước chắc bà là thợ đấu bò rừng.

Nga loi nhẹ vào hông tôi.

Từ ngày gặp Nga đi đắp lộ, tôi cảm thấy mình có người để trò chuyện, để có dịp nhắc nhở bạn bè của tôi mà Nga cũng biết được vài đứa, những kỷ niệm còn nóng bỏng của nhà trường. Nga đi dạy ở một trường cách tỉnh lỵ hơn hai cây số, tuy nhiên chúng tôi chỉ có dịp gặp nhau khi tròng vào chiếc áo bà ba đen ngày chúa nhựt

Cũng như mọi hôm, sáng nay, chúng tôi kể cho nhau nghe những chuyện nhà trường, chuyện học trò đối với cô giáo mới và chuyện đồng nghiệp.

Nga than thở:

– Bà nghĩ coi, trường tôi có ba thành phần giáo viên: giáo viên sư phạm, giáo viên ăn lương công nhựt và sau hết là cái lũ giảng tập viên, loại giáo viên hạng bét như tụi mình. Họ chơi vơi nhau cũng phải có điều kiện đồng số lương thành ra tui ở đó chỉ có một mình không ai thèm chơi hết.

Tôi an ủi Nga:

– Ở đâu cũng vậy. Trường tôi cũng cùng một khuôn trường bà.

Tôi kể cho nàng nghe chuyện lúc tôi vào đưa sự vụ lệnh để nhận lớp. Ông Hiệu Trưởng nhìn tôi từ đầu đến chân. Hôm đó, tôi mặc áo dài trắng, chiếc nón lá cầm tay, mặt mầy để tự nhiên không có lấy một chút phấn sáp. Ông đẩy đôi kiếng trắng máng trên trán và dịu dàng từ chối khéo:

– Lớp nhứt hết chỗ trống rồi, vậy em ra trường tỉnh xin thử.

Tôi, một tay cầm nón, một tay cầm sư vụ lệnh chưa kịp đưa cho ông, e ấp như học trò mới. Và khi tôi lấy lại bình tĩnh, tôi nói là tôi vào nhận lớp dạy. Ông kéo kiếng xuống sóng mũi, rồi dán mắt vào tờ giấy quay bằng ronéo to hơn bàn tay xòe. Ông ngẩng lên nhìn tôi lần nữa và lẩm bẩm:

– Nhỏ tác quá mà làm sao dạy cái tụi lớp nhất nầy gồm tụi học trễ nên nào đứa nấy lớn sồ sộ cao hơn cô giáo và có vài ba đứa con trai đã có râu lún phún.

Nghe chuyện kể, Nga cười ngặt nghẹo vuốt vai tôi hỏi:

– Rồi bà làm sao?

Tôi tiếp:

– Thì nhận dạy đại chớ còn biết làm sao. Tôi đâu có dám xưng với học trò bằng cô mà là bằng chị hai.

Nga có vẻ thích thú:

– Sao chị Hai bầy trẻ tính chừng mấy năm nữa mới lớn để còn lấy chồng đây?

Tôi giỡn:

– Nếu bây giờ hô lấy chồng thì chị Hai xấp nhỏ cũng có thể lấy chồng liền, chớ không đợi mấy năm mấy tháng gì hết.

Nga rù rì:

– Chị Hai nó có cho ông nào té vào giếng mắt mình chưa?

Tôi cười hồn nhiên:

– Có té rồi, nhưng không phải thầy giáo mà là học trò.

Nga hoảng, hỏi dồn:

– Học trò hả? Ê! làm bậy coi sao được. Dầu sao nó cũng là học trò, ai đời cho nó té ẩu vào mắt vậy bà?

Tôi biết nàng hiểu lầm nên quyết chọc thêm, không thèm đính chánh vội:

– Ai mà ngờ, ái tình gặp lỗ hở, hớ hênh thì té bất thần. Sao mà bà còn kêu là té ẩu? Phải nói đó là tai nạn do sự bất cẩn chớ đâu có ai có ý té bao giờ.

Tôi đặn thêm:

– Hứa đừng nói ai là mình cho học trò té vào mắt nghen.

Nga nhắc:

– Bà làm vậy kỳ quá, quên tuốt câu quân sư phụ rồi sao?

Tôi đấm vào vai Nga:

– Nói giỡn chớ mình đâu có té vào mấy cái thằng học trò của mình. Mình té vào học trò trường khác cùng lứa tuổi với mình, bạn học một trường với mình đó.

Nga trề môi:

– Vậy phải coi được không?

Tôi xô Nga nhè nhẹ, và với giọng làm ra vẻ buồn rầu:

– Ngày xưa cho nó té, bây giờ đã vớt nó lên và đuổi đi khỏi con ngươi rồi.

Nga chưa kịp hiểu thì một giọng trầm trầm đằng sau lưng chúng tôi vang lên:

– Mời hai cô uống chút nước đá chanh cho khỏe.

Tôi ngẩng lên, bắt gặp đôi mắt hơi xếch và nụ cười phô hai hàm răng thật tươi.

Nga vội vàng đỡ ca nước đá còn lại, miếng vỏ chanh xanh trôi nhấp nhô trên ấy.

Nga lo việc cám ơn và nói xã giao mấy lời, trong khi đôi mắt tôi bám theo đôi môi ướt mọng và nụ cười tươi sáng của anh chàng ủy lạo.

Tôi hỏi Nga:

– Bà có biết ai đó không? Con cái nhà ai khéo đẻ quá.

Nga can:

– Thằng đó là thầy giáo dạy cùng trường với tôi.

Nga hạ thấp giọng:

– Nó đĩ lắm. Già chẳng bỏ, nhỏ chẳng tha. Sở dĩ nó không nán lại đây giở giọng là vì có tôi, nên nó không tán bà bây giờ. Nó sẽ khất lại khi khác. Hãy đề phòng đừng cho nó té bất tử vào mắt thì nguy lắm.

Tôi hứ một tiếng:

– Bà để tôi trị nó. Trị không nổi, tôi sẽ viện trợ đến nàng Hiệp Đức nhà tôi, dầu nó có ba đầu sáu tay mười hai con mắt ắt cũng phải chừa.

Nga dẫy nẫy:

– Đừng giỡn nữa. Ai lại con gái mà tấn công con trai bao giờ? Cứ yên chí, mai chiều gì đây, nó sẽ đến làm quen và trổ giọng. Rán chờ đi,

Tôi uống xong ca nước đá. Cơn mệt trút hết theo những mẩu chuyện tào lao.

Tôi chia tay Nga, mỗi đứa trở về toán của mình và tiếp tục công việc.

Tôi đứng lại vị trí cũ và làm cái móc nối giữa người lấy đất và người chuyền đất lên lộ. Tôi bước xuống ruộng, còn ngóng lên bờ tìm Nga, chỉ nhận ra nàng nhờ hai cái dây thừa của chiếc quai nón đỏ bay phất phới trong gió như hai cái phướng của con cá thia thia Tàu. Tôi cảm thấy vui vui trong câu chuyện bất thần giữa Nga và tôi. Chưa bao giờ chúng tôi nói nhiều và nói khỏe như thế. Tôi tìm ở Nga cái không khí của Kim, của Đức và của thằng Tín nữa.

Một giọng nói khác ở sau lưng:

– Đây, nhờ cô Liễu trao dùm…

Tôi quay lại ngạc nhiên và đưa hai bàn tay mở ngửa đỡ khối đất có vẻ nhẹ hơn trước. Đây rồi, ai xui hắn đến đứng làm gần tôi. Quả thật hắn giỏi chạy chọt để đổi chỗ gần chỗ tôi. Một bà giáo đứng kế tôi đã hơn ba mươi ngoài tuổi mà tôi chưa hề gặp lần nào. Bà búi tóc cao như đàn bà Lèo và giắt một cây trâm bằng cẩm thạch cẩn hai bên một hàng hột xoàn sáng chấp chới.

Bà nhìn hắn, cười quở:

– Thầy Tùng lại mò đến đây rồi.

Hắn cười và tôi biết hắn đang khai thác cái vốn trời cho trên đôi hàm răng trắng trong và đôi môi rộng tươi sáng một cách cố ý và lặng thinh.

Hắn bê cục đất đặt vào tay tôi và hắn cố ý cho bàn tay hắn chạm lên tay tôi. Tôi mỉm cười và nhận thấy ánh mắt hắn đong đưa tống tình.

Tôi nói thầm:

– Quả tên nầy lợi hại!

Tôi đưa mắt thả mồi cho hắn.

Tôi bằng lòng về rất nhiều cuộc sắp đặt của ông Trời. Mắt tôi không phải chỉ để xem chiếu bóng, xem sách, nó phải có công dụng khác hơn nữa chớ. Mười tám tuổi mà sao tôi cảm thấy sốt ruột quá rồi. Tôi phải thả tình ý của mình qua một cái liếc, liếc ngang, liếc dọc, liếc cách nào cũng tốt cả, miễn sao cho đối tượng mình hiểu là được. Tôi muốn sau cái hôn của người tình, thế giới say đắm sẽ mở cho tôi một cánh cửa rộng để tôi bước vào và chìm lĩm trong đó.

Tùng liếc lại tôi một lần nữa làm tôi rùng mình, trái tim như một đóa hoa nở rộng ra muôn ngàn cánh thâu nhận một cảm giác vũ bão.

Trời sắp đứng bóng. Nắng làm đỏ hai cánh tay tôi, ở chỗ không có vải che hơi nóng rát. Con đường nầy cao chưa được năm tấc và tôi tự hỏi còn bao nhiêu ngày chúa nhật đi đắp lộ nữa, và tôi sẽ gặp tên Tùng nầy mấy bận? Tôi hình dung đến những chuyến gặp gỡ sau nầy… Bà bạn bới đầu Lèo của tôi thắc mắc, hỏi bông lông:

– Không biết con đường nầy khi xong xuôi sẽ mang tên gì?

Một thầy giáo đáp không cần nghĩ ngợi:

– Mang tên ông bự nhứt tỉnh chớ còn tên gì?

Tôi càng ngạc nhiên khi hắn lên tiếng:

– Đó là cái chắc. Đáng lẽ chết rồi, người ta mới lấy tên đặt tên đường, đằng nầy….

Hắn lại thôi, không nói nữa. Chừng hắn sợ tai vách mạch rừng chăng?

Tùng tiếp nói:

– Mình còn sống mà lấy tên đặt cho con đường khác nào tự trù ẻo mình chết cho sớm.

Một giọng khác than thở kể lể:

– Làm giáo chức lương chết đói mà phải mướn người đi đắp thế cho mình mỗi tháng hai lần là thấy tiêu cha nửa tháng lương. Nghèo phải rán chớ cả tuần đi dạy hùng hục như trâu bò, ngày chúa nhật còn bắt đi làm xâu như vầy.

Một giọng khác mềm mại hơn:

– Chỉ tội nghiệp mấy cô giáo ra nắng đen da và hư cả bàn tay đẹp.

Thêm một giọng khác có vẻ khôi hài:

– Đường nầy không tráng nhựa và chẳng dùng vào việc gì. Đâu có ai điên đầu đến nỗi đường nhựa không đi, lại vác xe chạy vô đây đặng ngửi bụi, lại nữa mùa mưa chắc chắn là mình đi bắt cá cạn. Đường nầy chiều chiều không có xe cộ, dắt bồ bịch ra đây du dương thì tuyệt hơn. Gió ở đây nhiều hơn chỗ khác.

Cả bọn cười rộ. Mồ hôi tôi từng đợt tuôn xuống mặt. Trong không trung, mặt trời túa ra vô số vì sao nhảy múa trong nắng. Cuống họng tôi khô như đất ruộng ngày hạn. Tôi chỉ mong tiếng kiểng nhà thờ đổ lên réo rắt và tôi được lên bờ, trở về nhảy xuống con sông sau nhà trầm mình để tẩy hết cái mùi hăng hăng của đất ruộng và tìm lại sảng khoái cho thân thể sau khi mồ hôi và sình non được tẩy sạch.