ĐOẠN III - Chương 1
NGÔI ĐÌNH LÀNG ĐÓ NẰM BÊN con rạch sâu hình như lúc nào cũng chảy siết, hối hả. Mái đình gồm hai màu xanh xám lẫn lộn. Những đám rêu mịn như nhung rải rác từ nóc ngói đổ dài xuống tận lòng máng xối. Lá vú sữa rã mục làm môi trường cho lũ rau càng cua mọng nước ngoi lên từ lòng máng xối đến mái ngói rêu xanh.
Quanh đình, hàng vú sữa rợp bóng mát. Nóc đình có hai con rồng chầu quả châu. Chiến tranh Việt-Pháp đã xin mất cái đầu của một con rồng. Con rồng kia lẻ loi nhìn sang bạn mình còn lại cái thân uốn cong, và nó cũng đã chột hết một mắt.
Nền đá cao tới ngực, làm cho mái đình thấp xuống. Hàng cột kèo bên trong loang lổ vết đạn. Hương chức hội tề đã mời vị thần đình tản cư vào phía trong để nhường chỗ làm lớp dạy học. Chiếc bảng màu vàng kẻ chữ đỏ «Tiểu Học Trang Thành» treo trên tấm bảng chữ nho màu đen nham nhở.
Con đường từ lộ đất đến trường lót những tảng đá ong đỏ. Sân trường phủ rêu trơn nhớt vào mùa mưa. Học trò nóng ruột không muốn chờ nối đuôi để đi trên lối đá ong rộng không đầy một thước. Chúng bỏ chạy xuống mé đất rêu, hai ngón chân cái của chúng phải bám xuống đất làm cái móc cho khỏi té. Nhưng thỉnh thoảng, đứa nọ lấn đứa kia và chúng thi nhau chụp ếch, té lăn, sách vở đổ ngổn ngang.
Hôm nay, tôi đi dạy trễ. Tảng sáng, tôi lật một tờ báo, xem ở mục sắc đẹp cách làm cho lông nheo mọc dài. Tôi đổ vào dĩa một muỗng cà phê rượu Rhum và một muỗng cà phê dầu xổ. Thức ăn nuôi dưỡng lông nheo là chất hòa trộn đó. Ra đời, tôi cần phải làm đẹp. Tôi rửa mặt bằng nước ấm với xà bông Cadum, rồi lau sạch. Kem nhờn lót dưới lớp phấn trắng. Phấn hồng rọi sáng khuôn mặt. Màu son tía tô đậm cặp môi háu ăn, Chiếc áo cẩm vân trắng may vừa vặn có thể làm cho bộ ngực tôi kiêu hãnh phô trương chiều cao với đời.
Tôi vừa tới cổng đình thì một đứa học trò đã chực hờ trước ngõ, và đỡ lấy chiếc xe dắt vào sân. Nơi đây tôi có thể dừng lại vài ba phút để nói chuyện xã giao với các bạn dạy cùng trường rồi mạnh ai nấy về lớp.
Ngôi đình nầy chứa được bốn lớp và dãy nhà ngang dùng để chứa người đi cúng lễ được chia làm hai lớp nữa. Tôi dạy lớp Nhất B, còn lớp kia dành cho ông Hiệu Trưởng. Vì thiếu người dạy, ông phải nhận luôn chức thầy giáo. Có hai nam giáo viên, một trẻ một già, chia nhau dạy hai lớp Nhì.
Phên vách tả tơi, không có lấy một cái màn che cho kín đáo. Thầy giáo bên kia có thể nhìn cô giáo bên nầy đang phùng mang trợn mắt với đám học trò và chị giáo bên nọ có thể ngắm ông bạn đồng nghiệp dạy ở gần mình đang nổi trận lôi đình với một đám học trò đầu trâu mặt ngựa.
Tôi đã bỏ trường học, ngừng những cuộc vui nhộn cũ để vào đây. Phải dọn cho mình nét mặt trang nghiêm giả tạo. Những lời nói thị oai của mình có vẻ nặng phần trình diễn. Cách phục sức của mình giống như quần áo của hình nộm lồng trong tủ kính. Tâm hồn tôi như vướng víu.
Tôi thèm trở về lớp học cũ, tìm lại thú vui của đời làm học trò, nếm dư vị đắng chát trong giờ Việt văn, tìm lại bóng mát của cây còng, cây me keo và những lời đùa cợt phá phách của lũ bạn cùng lớp. Nghề gõ đầu trẻ của tôi sẽ kéo dài ở nơi đây suốt cả một đời? Nghĩ tới đó, tôi bắt ngộp như đứng trước một bức tranh với toàn những màu xám ngắt. Tôi vụt bi quan. Chẳng lẽ cuộc đời lộng lẫy chỉ có trong sách diễm tình mà tôi ra đọc sau khi dùng bữa cơm tối hay sao?
Tôi lơ mơ sắp rơi vào cơn buồn ngủ thì tiếng trống trường nổi lên ầm ỉ. Tôi lặng lẽ đi vào lớp. Lũ học trò trai gái hỗn hợp xếp hàng theo sau trong im lặng và trật tự. Khi chúng hô to khẩu hiệu hằng ngày: «Phụng sự», tôi chợt nghe hình như ở cuối lớp có tiếng «Bụng Bự» trà trộn lỏn chỏn theo sau.
Tôi quay đi, giấu nụ cười và làm nghiêm rầy:
– Không phải giỡn như vậy. Hô khẩu hiệu phải cho rõ ràng.
Có tiếng cười khúc khích. Tôi thừa biết thằng Quyết, quỷ quái và cao lêu nghêu nhất lớp vừa xuyên tạc khẩu hiệu. Tôi cảm thấy vui vui và liên tưởng đến cái mặt hề lém lỉnh của thằng Tín.
Chợt bên kia lớp, thầy lớp Nhì đang cự nự và tôi xểnh thằng học trò phát âm chữ «Khỏe» thành chữ «Đẻ». Thầy liền thưởng cho thằng tiểu tặc một cái bạt tai nẩy lửa. Học trò tôi vụt cười rộ. Một giọng nói không lọt qua khỏi hai tai thính của tôi:
– Bên lớp mình thì «bụng bự», bên lớp kia thì «đẻ». Chỉ mấy năm nữa, trường nầy không còn chỗ chứa con nít.
Tôi quay mặt vào vách, cố nén tràng cười đang sôi sục trong cổ và chực tuôn ra thành tiếng. Sau đó, tôi trấn tỉnh bằng cách chụp cây thước nhôm quất lên mặt bàn, hét.
Cả bọn khoanh hai tay trước mặt, lẳng lặng nhìn lên tôi. Nếu hồi còn đi học mà gặp bạn bè dở thói biến đổi một cách thô lậu hai cái khẩu hiệu đó, chắc tôi ngã gập xuống bàn, cười như bị chọc lét cho thỏa thích. Nhưng ở đây, tôi phải mang mặt nạ che dấu cái hồn nhiên thuần tính chất bừa bãi đi. Tôi phải khép mình vào khuôn khổ bực bội. Tôi ra lịnh:
– Em nào hô khẩu hiệu nhảm nhí nữa là phải chạy hai mươi vòng cột cờ.
Cả lớp im lặng. nhưng tôi gặp những ánh mắt rực sáng và những nụ cười thích thú chỉ chực nở rộng trên môi.
Giờ đầu là giờ vạn vật. Theo chỉ thị của Ty thì môn dạy phải được cụ thể hóa, tức là khi dạy con gì, vật gì, phải có con đó, vật đó trước mặt cho học trò vừa dễ hiểu, vừa có thể quan sát từ bộ phận một. Hôm nay, tôi dạy bài nói về «Con Chó». Tôi đã giao thằng trưởng lớp ra chỉ thị cho đứa nào có công đem chó vào lớp sẽ được thưởng mười điểm vào sỗ hữu công. Bọn trẻ vốn thích điểm và thích lập công nên không nề hà tìm kiếm chó. Điểm cho không mất mát nên tôi tỏ ra hào phóng..
Tôi bắt đầu viết lên bảng đen chữ «Con Chó» bằng phấn đỏ. Cậu trưởng lớp báo cáo là có tất cả bảy con chó đã đem vào lớp. Tôi trố mắt:
– Sao nhiều quá vậy? Chúng ta chỉ cần một con mà thôi.
Thằng trưởng lớp thưa:
– Vì cô đã nói đứa nào có chó không cắn bậy thì đem vô.
Không biết tính sao hơn, tôi đành gật đầu và hứa sẽ cho chủ mỗi con chó mười điểm. Tôi hạ lệnh cho thằng trưởng lớp:
– Em lựa con cho nào có vẻ hiền nhứt đem lên đây.
Con chó cò được khớp mỏ bằng dây bố được bồng lên để trên bàn đầu của học trò. Lông nó trắng như bông gòn. Chủ nó là thằng học trò cao và ốm nhom phải vuốt ve nó để trấn an. Tôi bắt đầu chỉ từ đầu đến chân con cho để giảng từ bộ phận. Sau hết tôi nhấn mạnh sự giúp đỡ chủ nhà và tính trung thành của loài chó.
Xong xuôi đâu đó, con chó được về đứng dưới chân chủ nó. Bất thần, nó vuột khỏi sợi dây bố và xồ ra nếm thử da thịt của vài cô cậu. Bọn trẻ hốt hoảng kêu la ơi ới, náo loạn cả lên. Kết quả giờ vạn vật, ba đứa con gái bị chó cắn. Để cho cha mẹ chúng khỏi tôi thôi, tôi phải bỏ ra ba tuần lễ dắt chúng đến sở thú y chích hai mươi mốt mũi thuốc ngừa bịnh chó dại. Lúc đầu, bị chích đau, ba đứa học trò gái khóc thút thít. Tôi phải mua kẹo bánh, cà rem để dụ tui nó.
Từ đó, tôi không dại dột nghe theo chỉ thị của Ty Trưởng nữa. Thà tôi bị ổng khiển trách khi ổng vào xét lớp thình lình còn hơn là bị phụ huynh học sinh bắt đền. May là tai nạn xảy ra sau bài học con chó. Nếu học bài con trâu, có lẽ tôi còn phải đền nhơn mạng vì trâu hay chém người ta lòi phèo. Bài con cọp lại càng khó hơn nữa vì ở đây không gần vườn bách thú. Bất giác tôi rùng mình. Thần đình nầy còn thương hại tôi, chỉ cho tôi một bài học chưa mấy khó khăn trong đời làm nhà giáo.