Chương 3
ĐỨC LẠI NGỒI CẠNH TÔI, TAY CẦM xấp ảnh. Nàng khoe:
– Anh Lập chụp cho tao một loạt hình hôm đi chơi «picnic» ở bên cồn An Thành.
Tôi dành xếp ảnh trải ra trước mặt nhìn chăm chú:
– Mầy chụp ăn ảnh lạ! Cho tao mấy tấm làm kỷ niệm nghen.
Đức nhún nhường:
– Anh Lập lấy thiếu ánh sáng nên chụp không đẹp lắm.
Tôi cãi lấy lòng. Nếu dại mồm dại miệng mà chê thì khác nào gọi nhầm cái hỗn danh Đức Cống của nàng.
Tôi lựa một tấm ảnh tương đối có cảnh trí đẹp và người nàng không tệ lắm, xuýt xoa:
– Nàng Hiệp-Đức. Ngày xưa quí phi Hiệp-Đức làm đảo lộn triều đình nhà Hán, bây giờ vơi giọng ca đầy tình cảm của mầy và kèm theo nhân dáng «ưa nhìn» sao không lên sân khấu hát thử coi có «succès» không?
Tín cho nước:
– Đúng như chị Liễu nghĩ. Thằng nầy thích nhất chị Hiệp-Đức hát bản «Cô Hàng Nước» hôm kỳ thi ca với ông Tư ống vó (tên thầy dạy nhạc chúng tôi). Chỉ được ổng cho 16 điểm gần bằng số điểm con Nguyệt, chim sơn ca của trường mình ở lớp Đệ Ngũ. Hôm nào có dịp ban Gió Nam (ban kịch lưu động), về diễn tụi tôi đề nghị chị nên tình nguyện lên hát thử coi.
Quan chen vô:
– Biết đâu gánh hát nầy thấy chị hát có triển vọng sẽ «lăng-xê» chị mau nổi danh. Chớ còn hát xướng ở cái trường Cao Tiểu vô danh tiểu tốt nầy biết bao giờ mới nổi tiếng.
Đức hớn hở:
– Tụi bây nói thiệt chớ. Hôm nào có dịp tụi bây nên theo ủng hộ tinh thần giùm tao, có vậy tao mới bạo dạn thử một lần coi ra sao.
Chúng tôi vỗ tay hoan nghinh nhưng trong ánh mắt của mỗi đứa thoáng một niềm tinh nghịch. Hiệp-Đức nữ sĩ sung sướng tủm tỉm, da mặt ửng hồng e thẹn.
Sáo cao hứng hát ri rỉ bản «Cô Hàng Cà Phê», mắt nàng chớp chớp như đang trình diễn trước mặt khán giả. Sáo hát say sưa như không cần biết có ai đang nhìn nàng soi bói. Oanh kề tai Đức:
– Tao đố mầy con Sáo đang bắt chước điệu bộ của ai?
Đức nhíu mày:
– Điệu bộ của con Nguyệt, chim sơn ca lớp Đệ Ngũ chớ còn ai vô đây? Mắt con Nguyệt đẹp, chớp chớp coi có vẻ trữ tình, con mắt con nầy thì…
Oanh thách:
– Mầy chỉ giỏi tài nói lén. Tao đố mầy dám lại nói thẳng vào mặt nó thì tao phục mầy sát đất.
Đức trợn mắt nhìn Oanh:
– Mầy khỏi thách, tao đang ngứa miệng đây. Để tao lại «sửa lưng» nó cho bỏ tật.
Đức xếp hình bỏ vào ngăn tủ bàn học.
Chờ cho Sáo hát xong, nàng bước đến vịn vai Sáo, dõng dạc nói, cố ý cho cả lớp nghe.
– Nầy thi sĩ Ngọc Lệ, nội mầy làm thơ đã đến khổ mọi người mà bây giờ muốn trình diễn cái tình tứ của đôi mắt một mí leo lét như ngọn đèn hết dầu của mầy nữa sao? Phải chi mắt mầy đẹp như mắt con Nguyệt thì thấy đỡ chướng.
Sáo ngừng hát, mặt xám ngắt. Tôi hốt hoảng trước tình thế gây hấn của Đức.
Sáo nói nhanh:
– Ừ, kệ tao, mắc mớ gì đến mầy?
Đức đổi giọng:
– Chỗ bạn bè với nhau, tao mới sửa những cái khó coi của mầy, chớ để mầy quen thói làm trước mặt kẻ khác, người ta cười cho.
Sáo nói nhanh:
– Ừ, cám ơn mầy, tao sẽ sửa chữa.
Oanh đắc ý cười quay vào tường.
Chúng tôi nhìn nhau cười chúm chím. Thằng Quan ngứa miệng:
– Rõ ràng tiền kiếp hai bà nầy là hai con trâu đen và trắng. Họ kiếm cớ bày chuyện chém nhau hoài.
Sáo nguýt Quan, rồi bỏ về chỗ ngồi còn lảm nhảm:
– Ai mượn mầy xía vô đó.
Tôi đã hẹn lũ bạn đi xem ban kịch lưu động Gió Nam về diễn tại sân vận động. Đa số học sinh đều kéo nhau đến đó coi hát không tốn tiền. Mặt trời vừa tắt, đèn điện trong khu sân banh giăng mắc trên hàng cây bã đậu hai bóng đèn vàng úa thường lệ. Chiếc xe GMC gắn loa phóng thanh réo gọi dân chúng đến xem ban hát lưu động. Dân chúng từ các nẻo đường gấp rút đến chỗ đám hát. Bọn bạn tôi đã dặn gặp nhau tại sân vận động lúc tám giờ kém mười lăm, trước xem hát, sau sẽ chứng dám cho vài mục linh tinh mà tụi Quan, Tín sẽ dành cho chúng tôi một bất ngờ đầy hứng thú.
Như thường lệ, cứ lúc chạng vạng, tôi có phận sự lên nhà trên đốt nhang cho các bàn thờ tổ tiên. Hôm nay, sau khi rửa xong chén bát, tôi vội vã đi tắm và lên thắp nhang sớm hơn mọi khi. Tôi cầm chiếc dùi chuông đánh khẽ ba tiếng. Tiếng chuông ngân dài giữa căn nhà vắng như một ngôi chùa ít được thiện nam tín nữ lui tới. Tôi thắp ở mỗi bàn thờ ba cây nhang trầm. Mùi hương bốc theo khói nồng nực. Tôi đưa ba cây nhang còn cháy đỏ lên trán và xá dài theo thói quen chứ không phải là do sự thành khẩn, rồi cắm trước bàn thờ ông thiên ngoài sân trước dưới gốc mai già hơn tuổi tôi, trồng ở chính giữa sân. Bàn ông thiên của nhà tôi giống như một cái miếu lớn bằng loại nhà giấy dùng đốt cho người chết trong những ngày đám làm tuần. Nóc ngói uốn cong và bên trong vách, trên nền đá đỏ khắc hai chữ Hán sơn đen đã nhạt màu. Nơi đây, mẹ tôi đặt thường trực một bình bông và ba chén chung nước lạnh.
Tôi vừa cặm nhang vào chiếc lọ sành thì Kim đã đứng trước mặt tôi. Nàng mặc chiếc áo bà ba màu hoa cà nhạt thêu trước ngực một chùm hoa «pensée» tím lẫn màu lửa hoàng. Trên áo và cửa tay thêu «feston» cũng màu tím. Kim tủm tỉm cười:
– Mầy có khấn sau nầy được gặp lại cố nhân không?
Tôi bước tới lôi Kim vào ngồi ở bậc tam cấp hướng ra đường. Tôi khen nàng:
– Hôm nay mầy diện quá.
Kim cự nự nho nhỏ:
– Mày lại phá tao làm gì? Lúc nào trông mầy cũng hí hửng, yêu đời.
Tôi cười khẩy nhìn lên trời, đoán giờ theo con sao mọc sớm. Tôi nói:
– Bây giờ chắc gần tám giờ. Mình không cần phải đi sớm để rồi đứng lố nhố mỏi chưn. Vả lại, anh Huấn nói khoảng hơn tám giờ anh ấy sẽ cùng đi với tụi mình.
Kim móc trong túi áo trao cho tôi gói đậu phọng rang. Chúng tôi ngồi ăn đậu phọng dưới bóng tối chập chờn không nhìn thấy rõ mặt. Ánh đèn dầu hôi để trong lồng kiếng treo trước hành lang leo lét vàng úa. Ba cây nhang trong bàn ông thiên lụn xuống, còn lại ba cái chấm đỏ lập lòe. Kim nhai đậu phọng dòn tanh tách giữa hai hàm răng.
Tôi chợt hỏi:
– Còn con Oanh đâu?
Kim đã dọn về ở với bà dì Oanh sau tai nạn đó.
Kim im lặng; mùi long não trong túi áo nàng bay đến tôi đầm ấm.
Bỗng một bóng người áo trắng vừa xuống xe. Tôi kêu lên nho nhỏ:
– Kìa, anh Huấn tới.
Kim hơi lúng túng, tôi đon đả
– Anh Huấn đó hả? Vô đây, bọn nầy đang chờ anh.
Huấn dựng xe bên gốc cây nguyệt quế, bước đến bên tôi:
– Chắc chị và Kim chờ tôi lâu lắm?
Tôi nói giỡn:
– Chưa ăn xong hết gói đậu phọng rang mà.
Huấn nhìn Kim rồi nhìn lên cây nguyệt quế rũ rượi trong bóng đêm. Chợt Huấn hỏi:
– Bác có nhà không chị Liễu?
– Má tôi đi về ngoại, nhà chỉ có một mình tôi. Đi xem hát xong, tôi giữ Kim lại ngủ. Nếu anh rảnh đến chơi.
Huấn hơi suy nghĩ, đáp:
– Như vậy có phiền gì cho chị không?
Tôi lắc đầu:
– Nếu phiền thì tôi không mời anh tới. Vả lại, bọn mình chẳng còn bao lâu nữa thì giã biệt nhau mà.
Huấn đùa:
– Chắc chị sẽ lấy chồng xa.
Tôi tiếp:
– Và anh lấy vợ ở đất người.
Chúng tôi cười xòa.
Tôi chở Kim, Huấn đi xe đạp riêng song song với xe tôi. Kim vẫn im lặng. Chúng tôi đi qua những con đường vàng vọt ánh đèn và tôi vụt cảm thấy cô độc khi đi bên cạnh hai người đang yêu nhau. Huấn lùi lại sau tôi, bắt chuyện với Kim, những mẩu chuyện tào lao. Kim chỉ trả lời rất hà tiện. Nàng không muốn nói chuyện nhiều với Huấn trước mặt một người thứ ba, mặc dầu tôi là cái móc nối liền giữa hai người.
Chúng tôi đến sân banh vừa lúc màn đơn ca mở đầu cho buổi trình diễn. Người xem đứng lố nhố chen lấn nhau. Cái rạp hát lộ thiên nầy nuốt hàng ngàn người. Kẻ đi xem siêng năng vác theo ghế để uy hiếp bọn người đứng sau lưng. Từ những tàng cây bã đậu, lũ con trai choai choai đeo tòn teng như lũ khỉ đột. Tôi khóa xe rồi bỏ bừa gần chỗ đứng mà bọn Tín, Quan đã dành sẵn. Sau vài màn vũ, xướng ngôn viên của gánh hát muốn thay đổi không khí nên kêu gọi trong hàng khán giả, ai có thể giúp vui môn nào xin mời lên máy vi âm. Chúng tôi đẩy Đức tới. Hơi rụt rè một chút, rồi nàng bạo dạn bước sấn tới sân khấu.
Quan xin lên giới thiệu:
– Đây cô Hiệp-Đức, nữ sinh trường Cao Tiểu xin cống hiến quí vị bản «Trăng Mờ Bên Suối».
Dứt lời, Quan bước xuống khán đài giữa một bọn học sinh vỗ tay làm cò mồi. Hiệp-Đức nữ sĩ bước lên khán đài một cách khoan thai giữa tiếng huýt sáo vang dậy. Nàng trịnh trọng cúi đầu rất nghệ sĩ, và ỏn ẻn:
– Kính thưa quý vị, Hiệp-Đức xin bát bản mà ông bạn vừa giới thiệu ban nãy.
Ánh mắt nàng đong đưa. Chiếc áo dài màu đỏ tươi gắn hàng chục ngôi sao bạc sáng chấp chói mà trên đầu Đức cài chiếc nơ đỏ. Tôi nhìn sang Oanh, khen:
– Nó có goût chọn áo khi leo lên sân khấu đấy. Mặc màu đỏ dễ nhìn dưới ánh đèn.
Kim thêm:
– Trông nó hôm nay trang điểm tỉ mỉ như cô dâu.
Tôi vụt nhớ đến chuyến đi nghỉ hè của Đức ở Saigon. Tựu trường, vào lớp, Đức họp báo, khoe:
– Tao ở Saigon một tháng mà chẳng ai nói tao là người lục tỉnh hết. Tao đi dạo phố Catinat, người ta khen tao quý phái lịch lãm, tự nhiên như một Saigonnaise.
Tôi bắt bẻ:
– Ủa, bộ người ta biết mầy là dân lục tỉnh sao mà họ nói mầy có dáng dấp giống dân Saigon?
Đức trớ ngay:
– Người nói tao giống Saigonnaise là một người quen biết tông tích tao ở lục tỉnh, chớ gặp người lạ, tao đố họ biết được.
Có lần đến nhà nàng thình lình, tôi gặp nàng đang luyện giọng. Thuở ấy, phong trào ngân gợn sóng nốt cuối của câu hát lan rộng, ai hát mà thiếu ngân sẽ bị cho là hát dở. Đức cố gắng mãi vẫn không ngân được như các ca sĩ đài phát thanh. Nàng bèn chế biến ra một cách ngân là nắm miếng da cổ, phần gần yết hầu giựt đều, và nghe như tiếng chữ cuối của câu hát sẽ ngân dài rập rờn lượn sóng trước khi bắt qua nốt khác. Giọng ngân theo kiểu đó nghe có vẻ như là ói mửa âm thanh. Tôi lăn ra đi-văng cười ngất nhưng khi tôi trấn tỉnh được, tôi không quên «thổi» nàng:
– Mầy ngân nghe ngon lành lắm. Giống ca sĩ thiệt, nhưng rán khi trình diễn, nhớ đừng đưa tay lên giựt da cổ kẻo khán giả tưởng mầy mắc kinh phong..
Đức cười lớn:
– Tao chỉ luyện lúc đầu cho quen. Hát mà phải giựt da cổ thì để dành lúc hát sau hậu trường, khán giả sẽ không thấy được…
Bây giờ tôi thu hết can đảm nhìn lên sân khấu. Nàng Hiệp-Đức đang õng ẹo trước máy vi âm. Giọng hát nàng thê thảm và chua lét. Đức cũng chớp mắt, cũng cười cợt và tôi hơi đánh thót. Khi đến nốt cuối của bản nhạc, nàng cầm chiếc khăn tay trắng đè lấy cổ. Tôi sợ nàng quen tật nắm da cổ giựt, nếu vậy, chắc khán giả sẽ hò hét chế nhạo.
Tôi quay sang cự Tín:
– Tụi bây ác thiệt! «Thuốc» nó lên sân khấu để nó làm trò hề cho cả tỉnh à?
Quan ngắt lời:
– Ai bảo y thị háo danh!
Oanh chen vô:
– Tụi bây quên rằng xấu lá xấu nem à? Truy ra thì nó học chung với mình, như vậy cũng đủ «muối mặt» cho cả bọn.
Nhưng may quá, sau khi đặt chiếc khăn tay lên cổ, Hiệp-Đức lại lấy xuống ngay và tiếp tục ói mửa âm thanh.
Bản «Trăng Mờ Bên Suối» chấm dứt. Chỉ có vài ba tiếng vỗ tay lỏn chỏn của đám chim mồi chúng tôi, còn thì hàng hàng lớp lớp người xem hò hét đả đảo hỗn xược.
Đức giả vờ cúi đầu trước máy vi âm, và ngọt ngào nói:
– Xin cảm tạ toàn thể quý vị. Để đáp lại tấm thạnh tình của quý vị, Hiệp-Đức xin hiến thêm quý vị một bản nhạc vui tươi để thay đổi không khí.
Trong hàng khán giả, người ta hò hét mạnh hơn:
– Xuống! Xuống! Nghe chán lắm!
Đức vẫn thản nhiên như không và lì lợm tiếp tục vừa hát, vừa nhún nhẩy, như không hề nghe những lời đả kích của khán giả. Tuy không phải xem màn hài kịch, bọn tôi vẫn cười nghiêng ngửa trước thái độ phớt tĩnh ăng-lê của Hiệp-Đức.
Oanh có ý kiến:
– Mấy đứa dám xông pha như nó biết đâu lại thành công trên đường đời.
Bỗng nhiên tim tôi đau nhói. Lúc nầy hình như Đức tấn công Lập tới tấp. Chàng đã chụp ảnh nàng, đưa nàng đi chơi. Tự ái tôi nổi lên. Tôi thua cuộc với Đức sao? Chẳng lẽ từ khi làm bích báo, từ khi điền thêm chữ Hiệp vào cái tên Đức trơn lu, nàng khởi sắc một cách bất ngờ? Hiệp-Đức quý phi, em của Phi Yến hoàng hậu, không ăn thua, không dính dáng gì đến Hiệp-Đức nữ sĩ cả. Đối với tôi, Hiệp-Đức nữ sĩ chỉ có một khuôn mặt có thể trình diện với người đời mà không lu mờ, thế thôi chớ chưa lấy gì làm đẹp. Tôi chỉ thấy cái miệng hỗn vặt của nàng khi nghĩ đến nàng.
Thật sự tôi cũng chưa hề xây một giấc mộng bé tí ti nào với Lập. Qua cái đêm chàng đưa tôi về nhà trên con đường trăng sáng tôi chẳng nghĩ ngợi gì về chàng nhiều. Cuộc thi tuyển vào nghề giảng tập viên đã làm tôi quên Lập một dạo. Nhưng tôi không muốn thua kém Đức…
Sáo được dịp nhiếc, trả đũa:
– Chớ không phải nó mặt chai mày đá không biết vinh nhục gì ráo, ai nói «xỏ», nó cũng không hay. Madame Sans-Gênes đó mà!
Đức đã xuống khán đài, mò lại chỗ chúng tôi đứng. Nàng hấp tấp hỏi:
– Được không tụi bay?
Tín lẹ miệng:
– Được lắm, giọng chị giống giọng cô Ái Liên trong dĩa nhựa hiệu Gon Gà lắm.
Đức hơi ngờ vực, im lặng. Quan suy tôn:
– Giọng chị hát như đầm và chuỗi ngân của chị như là của Minh Trang.
Sáo nguýt ngang:
– Tụi nó chơi trác mầy đó. Bộ mầy không nghe khán giả người ta đuổi xuống sau khi hát bản «Trăng Mờ Bên Suối» sao? Còn bọn vỗ tay lẹt đẹt đó là lũ thằng Tín chứ ai vô đây?
Đức sừng sộ:
– Tao không cần mầy khen, miễn hai thằng em tao biết thưởng thức tao là được
Đức lầm bầm:
– Có mợ chợ cũng đông, không mợ chợ cũng không thiếu người.
Tôi nhìn Kim cười và chúng tôi không có ý kiến gì. Huấn cười lỏn lẻn giữa câu chuyện của Đức và Sáo.
Chàng đến giuc chúng tôi:
– Ta về đi, chị Liễu!
Chúng tôi bước theo toán người ồ ạt ra cửa chen lấn tràn trề như nước lũ. Tôi đề nghị Huấn đèo Kim trong chuyến về.