Chương 4
BÊN KHUNG NHUNG MÀU XANH THẪM tôi tẩn mẩn cắt những miếng hàng ni-lông đủ màu theo những hình chữ nhật lụn vụn rồi xếp thành những cánh hoa thược dược, hoa hồng, hoa cẩm chướng, hoa cúc… gắn trên nền nhung. Tôi định làm bức tranh thêu chiếc giỏ hoa rồi lồng khung kiếng treo trong buồng ngủ thay cho bức tranh hoạt họa cũ kỹ nham nhở vết gián nhấm…
Có tiếng xe xích lô máy dừng trước ngõ.
Tôi ngẩng lên. Oanh réo ơi ới. Ghim cây kim vào khung, tôi chạy xuống thềm đón bạn. Oanh dạo nầy lớn hẳn lên và hồng hào hơn trước. Tôi khen:
– Từ ngày thi đậu tới giờ, coi mầy có vẻ phát tướng.
Oanh nguýt:
– Đã không đi học lại còn ăn ngủ lu bù, chẳng bao lâu nữa, má tao sẽ đem tao đến công-xi heo cân bán ki-lô.
Chúng tôi cười dòn. Oanh xách một giỏ ổi xá lị trao cho tôi:
– Bà già tao gởi cho mầy.
Tôi vạch gói giấy bọc dầu nhìn vào trong. Những trái ổi xanh mượt lớn bằng cái chén như đúc bằng ngọc thạch, với cái dấu cuống nâu. Thấy đồ chua, tôi ực nước miếng, nói:
– Chỉ có những đứa thi rớt nên thưởng cho chúng nó đỡ buồn.
Oanh xí một tiếng dài, bước lên bậc tam cấp:
– Tao ở lại chơi với mầy một tuần. Phần thưởng thi đậu của tao đó. Tụi mình tha hồ đi thăm bè bạn.
Tôi sực nhớ:
– Mầy không có đem bánh phồng tôm Sa Giang cho tao sao?
Oanh trề môi:
– Ở Sa Đéc đến đây mà thiếu món đó, chắc không yên thân với tụi bây. Tao đã mua cho mỗi đứa một ký bánh phồng tôm đây.
Trong lúc Oanh đi tắm rửa thay quần áo, tôi dẹp khung thêu và thu xếp rổ may. Bữa ăn chiều đã có sẵn tôm rim mặn, cải trắng và sườn heo để nấu canh, đậu đũa và lòng gà để làm món xào. Nhưng tới sáu giờ, tôi mới nấu cơm.
Tôi nghĩ thầm là từ lúc bước vào nhà tôi, Oanh ủa, xí, nguýt, trề, nhún trong lúc nói chuyện. Con tiện tì nầy có vài cái thay đổi nhỏ rồi đây. Mình lúc nầy cũng làm biếng châm chọc kẻ khác.
Oanh ngồi trên ghế trường kỷ, hong khô những nhánh tóc thấm ướt. Tôi mang dĩa ổi xá lị cùng một chén muối ớt đỏ ối.
Oanh ngẩng lên:
– Mầy có gặp con Đức dạo nầy không?
Tôi đáp ngắn:
– Không!
Oanh tiếp, giọng ưỡn ẹo:
– Tao nghe nói nó phá thai cách đây một tháng.
Tôi hỏi gặn:
– Ai nói cho mầy biết?
Oanh lại nguýt tôi:
– Trong cái tỉnh lỵ nhỏ như cái chén chung nầy, chuyện tày trời của nó làm sau giấu nổi thiên hạ? Ai đời lấy thúng úp voi? Tao vừa ghé xuống bắc Mỹ Thuận thì gặp con Sáo từ Saigon đi về. Nó lẹ miệng báo cáo không sót một chi tiết.
Tôi cười xòa.
– Định giấu mầy một chút chơi, chớ nội cái miệng bài hãi của bà Hai Trầu cũng là cái loa phát thanh đặt bốn góc chợ rồi.
Tôi đứng dậy đi vào nhà sau sửa soạn bữa ăn chiều. Cơm nước xong, tôi mặc chiếc áo dài bông tím và chiếc quần Mỹ A đen và trang điểm qua loa cho khuôn mặt sáng lên một chút. Từ ngày làm quen với phấn son, nếu đi đâu, thiếu bôi chút son lên môi, hoặc quên đánh chút phấn lên gò má, tôi cảm thấy mình như cá kho thiếu nước màu dừa và tôi mất tự tin khi lộ diện. Chiếc áo dài bắt đầu cao cổ. Phong trào mặc áo dài càng cao cổ càng ra vẻ tân thời. Phụ nữ ưa chiêm ngưỡng Lý Lệ Hoa trong các phim Tàu chuyển âm, và mê cái áo sườn xám Thượng Hải của nàng. Áo đó có cái cổ cao chống cằm. Cổ tôi thông thuộc loại cổ rùa, nhưng cũng không phải cổ ngỗng. Áo hàng ni-lông bịt gió, không ngấm mồ hôi và chiếc cổ áo quá cao, chống cằm làm tôi cảm thấy như mình bị kéo thẳng cổ, day trở khó khăn.
Tôi đã sẵn sàng, bước xuống thềm đi về phía nhà dưới. Oanh đã chờ ở đó. Nàng mặc chiếc áo «ọt lông» màu nâu sẫm và xức nước hoa Tabu hỗn xược thoảng mùi trầm. Đôi môi nàng bôi son thắm kẽ lằn viền hình trái tim và đôi má nàng đánh phấn hồng không lót nền phấn trắng. Oanh tin tưởng làn da trắng mịn của nàng, chấp cả các loại phấn.
Oanh nhìn tôi, trêu:
– Lúc nầy mầy giống cô giáo trường tỉnh rồi.
Tôi chẳng vừa:
– Chớ còn mầy. Từ ngày lên Saigon xin đi làm thơ ký hãng nhuộm, dầu chưa được việc, mầy đã «bổ» cái văn minh ở đó, nên trang điểm có vẻ tài tử lắm.
Tôi còn nhớ Sáo, hơn một lần, Sáo rỉ tai tôi là Oanh thích làm giàu, để đeo hột xoàn, mua nhà bánh ếch và đi xe hơi. Tôi nghĩ rằng giấc mộng đó còn thấp lắm. Sao Oanh không mơ nhà lầu, lầu cao hơn nhà bánh ếch chớ, và giấc mộng như thế mới khỏi bị thiên hạ chê là giấc mộng lùn cũng như khổ người của kẻ xây mộng.
Oanh ngắt lời:
– Thôi mình lại rủ thằng Tín cùng đi lại con Đức, rồi mò vô Ngả Tư Long Hồ thăm Kim. Tao nhớ tụi nó lắm.
Chúng tôi đi xe lôi, loại xe gắn máy có cái thùng ở phía sau dùng làm chỗ ngồi, xe nầy còn gọi là xe tàu cau vì tiếng kéo lạt xạt của nó giống tiếng tàu cau lướt trên nền đá.
Chúng tôi đến trước một ngôi nhà lợp ngói móc và trong sân có trồng hai cây dừa Tam Quan thấp bằng đầu người, đơm trái sai oằn, rám đỏ.
Thấy khách, con chó Vện đang nằm bên gốc dừa nhảy xồ ra, sủa rối rít. Thằng Tín trong nhà hét chó, và chạy ra mừng chúng tôi.
Tín nói giọng tuồng:
– Hai bà dời gót giày nhọn đến thăm thằng nầy, thiệt là hân hạnh lắm thay.
Oanh bước tới cú lên đầu Tín. Chúng tôi quên thằng Tín bây giờ đã có thể làm thầy thông, thầy ký. Chúng tôi cứ ngỡ nó nhỏ như hồi năm nào. Vẫn thằng Tín ốm nhom, tinh nghịch thường để các chị bạn học cưng bằng những cái đấm vai, cú đầu.
Tín ngó tôi cười:
– Chị Liễu sắp sửa lấy chồng rồi phải không?
Tôi cự:
– Ai nói với cậu? Chẳng lẽ lấy chồng mà không mời cậu tới nấu nước châm trà giúp dùm tôi mấy ngày sao?
Tín vào nhà trong thay quần áo. Oanh phân bua:
– Mầy coi, thằng Tín bây giờ cao hơn tụi mình.
Khi Tín bước ra, Oanh nói:
– Để chị gả con Nguyệt Thanh cho nhà thơ trào phúng nghen.
Tín hơi sượng, nhưng rồi nó lấy lại vẻ thản nhiên trách::
– Không ai rắn mắc bằng bà Đức. Thằng nào rinh bả về thờ chắc kiếp trước nó chặt đầu lột da thiên hạ hay sao đó?
Trực nhớ điều gì, nó hỏi:
– Nghe đâu chỉ bị thằng Lập tặng cho một bầu và tên nọ quất ngựa truy phong rồi phải không?
Tôi ngứa miệng:
– Có đâu tới một bầu, mới vừa lùm lùm cái bụng là con Đức uống thuốc tống tháo ra.
Tôi chua chát nghĩ thầm là dư luận lại phóng đại cái bụng chửa của Đức cao hơn một chút. Nếu tôi gặp chuyện lầm lỡ như nàng biết đâu từ một cái bầu, thiên hạ gán cho hai cái bầu?
Oanh nói bâng quơ:
– Ở tỉnh lỵ chán lắm. Có chuyện rục rịch gì thì trong trào ngoài quận, ai ai cũng hay.
Tín rủ:
– Thôi, bọn mình đến thăm chị Đức đi. Lâu quá, tôi chưa đến thăm cô Nguyệt Thanh của tôi. Không biết lóng rày, cổ ra sao.
Cả bọn cười rộ. Niềm vui và tuổi học trò chỉ còn vương lại trong câu bông đùa. Sao tôi phải giam mình trong cái tỉnh lẻ đìu hiu nầy? Sao tôi phải làm nhân chứng cảnh bất hạnh của chúng bạn?
Tôi sống dật dờ, không hy vọng một tương lai sáng sủa, ngấy người với những câu đàm tiếu của những cái miệng lưỡi đầy nọc độc sẵn sàng bêu rếu kẻ thất cơ lỡ vận. Mọi việc đều che đậy bưng bít một cách vô lý. Tôi vun quén mầm mống bỏ đi một nơi nào không còn thấy những bộ mặt quen thuộc. Họ giúp đỡ mình thì ít mà họ chen lấn vào tâm tình và đời sống riêng tư của mình quá nhiều. Họ không phải là những nhân chứng công bình. Nghĩ đến đó, tôi muốn chạy trốn.
Oanh đập vào lưng tôi, gọi giật:
– Tới nơi rồi. Mầy mắc chứng gì mà khi không lại ngồi chừ bự, xeo nạy cũng không nhúc nhích. Bây giờ có thằng nào hớp hồn chưa? Nói thật để tao nhờ thầy pháp truy hồn tìm phách lại.
Chúng tôi bước xuống xe xích lô đạp. Tín đến trước, đứng dưới giàn hoa lý, nhăn nhở cười. Chúng tôi vào trong. Đức nằm trên võng, cuốn truyện Tàu mở ngửa đắp lên mặt. Tín đẩy cửa bước rón rén vào, đến bên Đức, lấy ngón tay khều dưới gan bàn chân nàng. Đức giật mình đánh thót, quyển sách rơi xuống nền gạch tàu lau bóng. Nàng nắm mép võng ngồi dậy nhưng chưa nhận sau lưng nàng có Oanh và tôi đứng núp sau góc cột nhà.
Đức tằng hắng rồi quở Tín:
– Đi đâu lạc loài vậy nhỏ?
Tín ném chiếc mũ lưỡi trai xuống bộ ván gõ và nhìn xuống nhà sau:
– Bà già đi đâu rồi?
Đức cười:
– Bả đi ăn giỗ ở miệt Ngã Tư, mốt mới về. Muốn gì cứ nói tao nghe.
Vừa đứng dậy khỏi võng, Đức thoạt thấy chúng tôi. reo lên một tiếng: «Ủa» mừng rỡ. Oanh chạy lại nắm tay Đức khen:
– Dạo nầy mầy mập mạp trắng trẻo.
Đức nhìn tôi mỉm cười:
– Ăn rồi nằm cả ngày. Bà già tao nói chẳng bao lâu tao bự bằng cái lu.
Tôi tìm ghế trường kỷ để ngả lưng. Bà Tư đi vắng. Chúng tôi tha hồ đứng ngồi, cười nói theo ý muốn. Đức ngồi bên cạnh tôi trách:
– Mầy đi biệt từ ngày đó, chẳng thấy bóng dáng mầy đâu cả.
Tôi chống chế:
– Tao không muốn ra ngoài từ hôm đó, chán nản sự đời lắm, mầy ơi! Tao chỉ muốn đi cho thật xa cái tỉnh này.
Mắt Đức vụt sáng lên:
– Tao còn muốn đi xa hơn mầy nữa kia.
Oanh ngồi trên võng đưa vùn vụt khoái trá. Thằng Tín chớp cuốn Tây Du Diễn Nghĩa như lân gặp pháo. Nó chúi mũi vào quyển sách, thỉnh thoảng nhếch mép cười thích thú. Nó đang theo thầy Tam Tạng và Tôn Hành Giả ngao du sơn thủy.
Oanh ngừng võng quay lại gây:
– Ê! Không lẽ đến đây, hai đứa bây lo nói chuyện hoài. Có đi thì rủ con nầy đi với.
Đức không còn vẻ vui tươi, phá phách như ngày xưa. Nàng uể oải buồn rầu và cái nhìn có vẻ lơ đãng, đăm chiêu. Nét buồn in đậm trên khuôn mặt với vành môi hỗn vặt, với khóe miệng chực gây, với đôi mắt lộ thường toát ra vẻ đanh đá. Không đầy hai tháng, sau buổi tống ra khỏi bụng chứng tích lầm lỡ, Đức hoàn toàn thay đổi. Nàng hơi ngượng nghịu, như có mặc cảm là lũ bạn thường lợi dụng cái bất hạnh của nàng để nói xỏ nàng. Nhưng hình như bạn bè không ai còn ác cảm với Đức. Đây là dịp để các cô biểu lộ lòng nhân từ đầy nữ tính.
Đức bỏ chân xuống đất, tìm đôi guốc, nói:
– Khách tới nhà mà không có gì thết đãi hết.
Rồi nàng đi tuốt xuống nhà sau, bưng lên bốn chén chè đậu xanh đặt trên chiếc mâm gỗ. Chè nâu sẫm, đặc lềnh trong lòng chén kiểu trắng muốt.
Oanh xuýt xoa:
– Có vậy mới phải chớ, phải có cái gì «hối lộ» chớ.
Tín mang quyển sách lại ném trên bộ ngựa gõ và nhập bọn. Nó đề nghị hôm nào thuận tiện đến nhà Đức xây cơ.
Đức chụp ngay cơ hội:
-Ù, vụ đó tao thích lắm nghen. Sẵn dịp bà già tao đi Saigon thăm anh rể tao.
Thằng Tín gật đầu:
– Chị phải lo mục trà nước, bánh ngọt cà phê nghen.
– Ừ.
– Thuốc thơm nữa.
– Ừ.
– Cháo để bọn nầy thức khuya đỡ đói bụng nữa nghen.
– Ừ.
– Lo giặt chiếu bông, sửa soạn gối thêu cườm cho tử tế để bọn nầy nghỉ lưng.
– Ừ.
– Coi còn thiếu thứ gì nữa đây?
– Còn thiếu cạo đầu tao sau khi hầu cơ nữa mới vừa bụng mầy.
Tín ngâm thơ:
Tiếc cây mía ngọt mà sâu,
Tiếc cô gái tốt, trọc đầu khó coi.
Tiếc nàng Hiệp-Đức mặn mòi.
Miệng nói cộc lốc… có dòi dính răng.
Oanh và tôi cười nghiêng ngửa. Tín nói:
– Thằng Quan có miếng ván hòm. Nó đem về cắt thành hình trái tim, nhỏ hơn bàn tay một chút.
Oanh sôi nổi:
– Xây cơ linh lắm tụi bây ơi. Ba tao đã chết cách đây hơn mười năm. Má tao mỗi khi xuất vốn làm ăn là bả nhờ xây cơ để bàn bạc với vong hồn ba tao. Hồi còn sống, ổng thích làm thơ và ưa ngâm thơ Đường. Trong lúc ổng nhập hồn vào cơ, má tao đem ráp từng chữ một thì được đôi ba bài thơ gì đó. Tụi tao đem thơ cầu cơ so với bổn chánh không sai một chữ.
Việc bàn tán về cầu cơ cuốn hút chúng tôi. Đứa nào cũng nao nức được dịp hỏi những thân nhân khuất mặt của mình về việc làm ăn, khoa cử, hôn nhơn, tình ái, hoặc muốn tâm sự với họ cho đỡ nhớ thương.
Oanh lại nói:
– Con nào mà đang có kinh nguyệt, hầu cơ cho tới mười năm, cơ vẫn không nhúc nhích.
Đức ngẫm nghĩ:
– Nhà ai ở gần đất thánh, hầu cơ mau lắm. Nhưng có nhiều hồn hồi còn sanh tiền mù chữ nên khi nhập vào cơ, cứ khiến cơ chạy bậy bạ không chỉ được một chữ nào.
Tín lại nói:
– Mấy người cạo heo, mấy người chém lộn mướn đều không cầu cơ được. Họ nặng bóng vía lắm.
Không khí tẻ lạnh lúc nãy tiêu tan, nhường chỗ cho những câu chuyện nồng ấm.
Đức giữ chúng tôi ở lại chơi cho đến tối và hẹn chiều thứ bảy tuần sau sẽ tổ chức cuộc xây cơ. Oanh và Tín cáo về trước.
Đức lục cho tôi quyển sách nấu ăn. Oanh dặn tôi chờ nàng tại đây vì nàng cần qua thăm bà dì của nàng một lúc sau sẽ trở lại. Dưới ánh đèn Hoa Kỳ vàng úa Đức với quyển nấu ăn trong tay ngồi bàn bạc với tôi về xảo thuật nấu các món ăn chay. Sau đó, nàng rủ tôi ra ngoài hàng ba hóng gió. Trên giàn hoa lý, mùi hương bay tản mạn. Cây chùm ruột quặt quà quặt quại dưới cơn gió thổi xôn xao. Ánh đèn quét một con đường sáng xuyên qua cửa sổ, in xuống mặt thềm. Ánh trăng rằm tháng tám rớt lổ đổ dưới đám trầu.
Tôi quay lại nhìn Đức trong ánh sáng tù mù. Hai giọt nước mắt lăn tròn xuống đôi má no tròn của nàng. Tôi với tay, bứt một chùm hoa lý, kê lên mũi:
– Mầy cứ buồn hoài. Tuổi mầy còn nhỏ, mầy có cả trăm cơ hội làm lại cuộc đời.
– Thật không? Làm lại cuộc đời ở trong cái tỉnh nầy được sao?
Tôi suy nghĩ:
– Ôi! lo gì… Mỗi người có một số phận. Có nhiều đứa con gái hư cả trăm bận mà vẫn lấy chồng được, mà lấy chồng thứ thượng hảo hạng để mà ăn hiếp, sai khiến như tôi đòi đó sao?
Đức khóc:
– Tao phải đi kiếm Lập.
– Để làm gì?
Đức nuốt ực nước miếng:
– Tao còn yêu nó, tao muốn chửi nó.
Tôi vịn vai Đức:
– Thôi bỏ qua chuyện cũ đi. Bao giờ định đi Sàigòn cho tao đi với. Tao cũng đang nuôi mầm bỏ xứ đây. Cái tỉnh lẻ chật hẹp, bực bội nầy làm tao muốn ngộp thở.