Chương 31 Rồng và thú
“Thú trấn mộ ấu kỳ lân!”Tại “Núi Đạt Ma trên biển”, phòng bảo tàng tư gia trên tầng hai, Anna bổ sung một câu. Tần Bắc Dương nhìn chằm chằm nửa phút, cảm giác như bị con tứ bất tượng này giữ chặt, không lấy kiếm chặt đứt không thể chia lìa. Không phải hồng tông liệt mã (1), cũng không phải toan nghê một trong chín đứa con của rồng (2), càng không giống “Hươu gì phải ăn trong đình này? Giao này dòng dõi nào dưới nước?” trong Sở từ (3). Thế nhưng cặp sừng trắng như tuyết này rõ ràng của con hươu, lông bờm lông đuôi đỏ rực lửa là sư tử, giáp vảy nhỏ toàn thân giống giao long, còn bốn chân thú lại như hổ báo… Đâu chỉ không đâu vào đâu, đây đâu phải tám loài, mười sáu loài ấy chứ! Cậu nhìn chằm chằm đôi mắt thú trấn mộ, hỏi, “Từ đâu ra thế?” “Nghe nói đào được từ trong một ngôi mộ lớn của thời Đường. Anh biết nó à?” “Không, lần đầu nhìn thấy,” Tần Bắc Dương cảm thấy tim nhói lên, viên ngọc đeo trên cổ ấm hơn, “Dù có biết cũng là chuyện đời trước” “Nó mới ở nhà tôi mười ngày thôi, có điều tôi rất thích món bảo bối này, nó rất đẹp, còn đáng yêu nữa nhỉ?” “Vì nó là thú non, chưa trưởng thành. Nhìn tỷ lệ đầu và thân của nó là biết. Nhìn thần thái và vẻ mặt nó hệt như mấy con chó con, mèo con” Anna nghếch mặt gật đầu, “Ồ, anh nói cũng chí lí! Quên mất chuyện chính, anh có thể sửa được những vết lồi lõm này không? Đây toàn là vết đạn, cha tôi nói là vết đạn súng máy. Đám quân phiệt này đúng là dã man” “Ừ, chắc là vết súng Mác, không giống vết súng gatling lắm” “Cái này anh cũng biết?” “Có biết một chút…” Tần Bắc Dương cười xấu hổ. Khi xây dựng lăng mộ Viên Thế Khải, cậu ở trại công binh núi Thái Hành một năm, có đọc qua về các loại vũ khí này. “Anh có sửa được không? Nhưng không được phá hủy trạng thái ban đầu. Cha tôi nói ở cung điện Louvre và Bảo tàng Anh có rất nhiều đồ cổ của châu Âu. Chúng cũng phải qua vài lần tu bổ mới trưng bày được, ban đầu bẩn thỉu và hỏng hóc không nhìn nổi” “Có thể mở tủ để tôi kiểm tra đã được không?” Tần Bắc Dương không dám nói thẳng nhà mình chính là thợ thủ công chế tạo thú trấn mộ gia truyền. Cửa kính mở ra, cậu tự tay chạm vào bụng thú trấn mộ nhỏ. Bên ngoài có vẻ toàn vảy cứng, bụng rất mềm mại, không xác định được chất liệu. Dựa theo quy tắc chế tác, bên ngoài là đồng xanh và đá, trong rỗng như đồ gốm, đựng linh thạch, vật chứa “hồn” của chủ mộ thời còn sống và những bánh răng tinh xảo, dây cót và lò xo nhỏ. Nhưng con thú này không giống, tuyệt đối không giống với hai thú trấn mộ Tần Bắc Dương từng chế tạo. Lẽ nào kỹ thuật chế tạo thú trấn mộ triều Đường tốt hơn triều Thanh? Hơn một nghìn năm sau mà lại thụt lùi ư? Hay có bí kíp gì của tổ tiên đã bị thất truyền? “Ai đấy?” Một giọng nói của đàn ông trung niên vang lên sau lưng. Anna dậm chân, “Cha, đây là thợ thủ công do con mời đến. Hộp nhạc mẹ cho con đã hỏng hai tháng nay, con mất ngủ tròn sáu mươi ngày, thế mà anh ta sửa được đấy” “Con muốn để cậu ta sửa thú trấn mộ ấu kỳ lân?” Người đàn ông vê chòm râu kiểu Napoleon đệ Tam, nghiêm mặt, “Hoang đường! Anna, cho cậu ta một trăm đồng bạc, đưa ra ngoài đi. Cấm con cho người ngoài vào phòng này! Cha sẽ tịch thu chìa khóa của con” Tần Bắc Dương quay đầu liếc nhìn thú trấn mộ, lưu luyến chuẩn bị rời đi. “Chờ chút, không cho anh đi!” Âu Dương Anna níu cậu lại, quay sang bảo cha mình, “Cha, cha để người ta thử xem sao!” Người đàn ông nhìn thì nghiêm nhưng rõ ràng rất chiều con gái, “Tôi là Âu Dương Tư Thông, chủ nhân “Núi Đạt Ma trên biển”. Con gái trẻ người non dạ, xin lượng thứ!” “Nếu tôi thật sự có thể sửa thú trấn mộ này thì sao?” “Không thể nào! Người tài giỏi thật sự sửa được thú trấn mộ trong thiên hạ này đã xuống mồ! Trừ khi là thợ thủ công của Hoàng đế triều Thanh!” Tần Bắc Dương không dám nói thật, lòng vòng quanh co, “Hiện nay có rất nhiều thợ rèn Trung Quốc áp dụng kỹ thuật phương Tây, có thể sử dụng kỹ thuật gia công kim loại để sửa vỏ thép bên ngoài. Có điều kỹ thuật đó sợ là sẽ làm hỏng món bảo bối này. Để chữa trị, tốt nhất là loại bỏ vỏ đạn trước, sau đó hơ lửa nhỏ, ít nhất cũng chữa được hơn nửa. Còn lại lấy chất liệu khác đắp lên, sơn lại cho đẹp” “Cậu còn nhỏ tuổi, sao hiểu biết nhiều thế?” “Tiên sinh Âu Dương, thú trấn mộ này của ngài là bảo bối hiếm có khó tìm, sao dễ dàng để người khác chạm vào? Có điều trong phòng này còn nhiều bảo bối khác, tôi thấy chúng cũng không còn nguyên vẹn. Tôi có thể bắt tay sửa vài thứ trước để ngài xem khả năng của tôi” Âu Dương Tư Thông cười nhạt. Khoe khoang đồ cổ là niềm vui lớn nhất đời ông. Được cái cậu trai trẻ trước mắt đây nhìn nghèo hèn, vác rương gỗ đựng dụng cụ nhưng ăn nói không thô tục, cư xử cũng không giống loại chợ búa. “Được, cậu thử món gốm màu đời Đường này xem!” “Ý ngài là tượng gốm màu lạc đà hai bướu này? Trước có người Hồ kéo dây cương, yên cương trang trí họa tiết mặt thú, lạc đà nghển cổ há mồm, hai chi trước hơi khom, hai chi sau đứng thẳng, ngửa mặt lên trời hí dài” Tần Bắc Dương thao thao bất tuyệt, nói đến nửa tiếng về gốm màu đời Đường, bao gồm cả những phương pháp tu sửa đơn giản. Âu Dương Anna mở to mắt nghe như đang nghe giáo viên giảng bài. Âu Dương Tư Thông cũng gật đầu lia lịa, tựa như đã tìm được bạn cùng đường đã lâu không gặp. Năm đó, thợ thủ công Hoàng gia lụn bại, Tần Hải Quan bị Thái hậu Từ Hy dời đến Di Hòa Viên, sửa món bảo bối lão Phật Gia yêu thích nhất. Ông đi theo nhiều thợ thủ công lành nghề, làm ở Di Hòa Viên mười năm, học được hầu hết kỹ thuật nghề, sau đó truyền thụ lại toàn bộ cho con trai. Tần Bắc Dương chọn bức tượng Phật khắc gỗ xếp đối diện với thú trấn mộ. Tượng phật bị đứt hai ngón tay, môi sứt một miếng, mặt có khe nứt, lớp vỏ ngoài bong từng mảng nhưng pháp tướng trang nghiêm, người ta ngắm mà kính nể. “Đây là Phật bảo,” Âu Dương Tư Thông nói, “Hoàng hậu nước Liêu Tiêu Yến Yến tìm thợ lành nghề chế tạo tượng Phật mô phỏng hình dáng mình. Nó vốn nằm trong một ngôi chùa cổ ở Sóc Châu, Sơn Tây, bị cướp bóc năm Canh Tý, sau đó lưu lạc dân gian. Ta bỏ tám trăm đồng đại dương mua về” “Tiên sinh Âu Dương, tôi cam đoan có thể sửa được bức tượng khắc gỗ này trong vòng ba ngày” Nhìn vẻ thành khẩn của Tần Bắc Dương, Anna níu áo cha, “Cha, để anh ta thử đi!” Âu Dương Tư Thông suy nghĩ thật kỹ cuối cùng cũng đồng ý. Ông để một phòng làm việc ngay cạnh để Tần Bắc Dương tập trung sửa chữa. Cơ hội trời cho này khiến Tần Bắc Dương mất ăn mất ngủ. Cậu phân công người đi mua nguyên liệu, chẳng hạn như bong bóng cá, dùng làm keo dính tự nhiên; thuốc màu làm từ khoáng thạch thiên nhiên để tạo màu gỗ; và thật nhiều gỗ cũ. Hai đêm liền cậu không về nhà, cứ thế sửa tượng Phật không ngừng nghỉ. Cậu có nha hoàn đưa cơm ngày ba bữa, còn được cấp chỗ ngủ cho khách. Anna đứng bên cạnh nhìn cậu chạm khắc ba ngón tay bù cho chỗ bị đứt, sau đó dán lại bằng keo. Cô có rất nhiều câu hỏi nhưng Tần Bắc Dương chỉ giữ im lặng. “Hey! Không để ý tôi à? Anh cũng kiêu căng thật đấy!” “Tôi không kiêu căng, tôi chỉ là một anh thợ thủ công bình thường,” Cậu pha thuốc màu, “Tiểu thư Anna, xin hãy để tôi làm việc tiếp” Thiếu nữ tức giận bỏ đi, để lại nồi cháo và bát cho cậu. Đêm khuya vắng lặng, Tần Bắc Dương một mình sửa chữa tượng Phật gỗ. Cậu nghe thấy âm thanh kì quái từ căn phòng bên cạnh. Dường như thú trấn mộ nhỏ trong tủ kính đang chăm chú nhìn cậu xuyên qua lớp tường. Khi sơn móng tay cho tượng Phật, những ngón tay có kích thước tương đương người thật đột nhiên di chuyển, ánh sáng vàng lóe lên. Tần Bắc Dương hốt hoảng ngã ngồi ra đất. Đèn tắt, một đóa sen vàng lại nổi lên từ ngón tay của tượng Phật khắc gỗ thời Liêu. Tần Bắc Dương quỳ xuống chắp hai tay. Đến khi đèn sáng lại, đóa sen trên đầu ngón tay kia chớp cái đã rũ thành tro tàn. Tần Bắc Dương phấp phỏng thầm đoán rằng việc sửa chữa của mình được tượng Phật tán đồng, hay có thể nói là Hoàng hậu Khiết Đan Tiêu Yến Yến tán thành? Cậu tiếp tục tô màu cho ngón tay, khiến chúng tỏa sáng nhìn như thật. Ngày thứ ba, Tần Bắc Dương hoàn thành. Âu Dương Tư Thông kinh ngạc nhìn tượng Phật khắc gỗ thời Liêu này. Tựa như nó tượng vừa được giải phẫu thẩm mỹ, màu sắc vẫn như trước, vẫn giữ được cảm giác về phong cách nghệ thuật cổ xưa ngàn năm qua, cũng không hề ảnh hưởng đến kết cấu ban đầu Tần Bắc Dương được nhà Âu Dương trọng dụng, tiền công hàng tháng ba mươi đồng đại dương, bao ăn ở, công việc là chữa trị các đồ cổ bị hư hỏng. Tần Bắc Dương về nhà một chuyến. Vừa đến tòa nhà ở đường Thiên Đồng, Tề Viễn Sơn nhìn cậu với đôi hai mắt đỏ hoe, nói, “Trời ơi là trời! Cậu cũng biết đường về cơ đấy! Tôi đã ba ngày ba đêm không chợp mắt, đi khắp Thượng Hải tìm cậu, còn tưởng cậu bị người ta bắt cóc tống tiền đấy! Cậu không về chắc tôi sẽ đăng tin mất tích lên báo. Tôi không đến phòng tuần bộ, án mất tích ở đó chất thành núi chẳng ai quản” “Ầy, sao lời này của cậu giống bà vợ hỏi chồng đi đâu về thế” Tần Bắc Dương do dự mãi cuối cùng vẫn nói thật: cậu muốn chuyển đến “Núi Đạt Ma trên biển” sống. “Cậu không sống với tôi nữa sao?” Tề Viễn Sơn lo lắng đi loanh quanh, “Đây là phản bội!” “Tôi đi làm mà, đâu có ngồi tù, vẫn có tự do cá nhân. Chỉ cần không phải làm việc, tôi có thể đến thăm cậu bất cứ lúc nào. Chúng ta có thể cùng nhau ăn cơm, đi nghe Bình đàn ở sân khấu, còn đi dạo ngoài sân quần ngựa” “Được đấy, Bắc Dương. Cậu đã tìm được việc tốt, tôi cũng tìm được việc tốt” “Cậu tìm được việc rồi?” Tề Viễn Sơn đá hai lần, “Sáng nay, khi tôi đến đầu cầu đường Tứ Xuyên, chỗ cửa Tổng Cục Bưu chính thì thấy có đám đàn ông áo đen cầm rìu, vây quanh con xe đen chặt chém. Lái xe và bảo tiêu bị chém chết. Một người đàn ông trung niên nhảy xuống dưới xe trốn, đúng lúc gặp tôi. Tôi thấy tên kia định chém chết ông ấy thì tiện tay lấy gậy trúc đâm ngang một tên, sau đó dựng thẳng đâm tên còn lại bị thương. Đó là kỹ thuật bắt súng gia truyền của nhà tôi. Cảnh sát chạy đến thổi còi mới đuổi được đám này đi” “Thế mới đúng chứ. Gặp chuyện bất bình, rút dao tương trợ!” “Cậu không đoán được đâu. Người mình cứu là lão đại Thanh bang đấy. Để đền ơn cứu mạng, ông ấy mời tôi đến nhà làm việc,” Tề Viễn Sơn lại nói thêm một câu, “À đúng rồi, ông ấy tên Âu Dương Tư Thông” _______________ Chú thích: (1) Hồng tông liệt mã: nghĩa là ngựa màu đỏ. Cũng là tên một vở Kinh kịch có tiếng. (2) Toan nghê còn gọi là nghê, được coi là một trong chín đứa con của rồng trong truyền thuyết Trung Hoa. (3) Tên một bài thơ trong quyển thơ “Cửu ca – Tương phu nhân”, quyển thứ mười một trong tập Sở từ, được cho là do Khuất Nguyên sáng tác. Sở là “nước Sở”, “từ” là “ngôn từ”. Nguồn tham khảo.