Chương 62 Lửa thiêu am Vô Thường
Núi Đạt Ma, vách Xả Thân, am Vô ThườngTần Bắc Dương và Cửu Sắc bị thích khách truy đuổi từ đỉnh núi đến vách núi, Cửu Sắc đột nhiên biến thân! “Cửu Sắc, lại định làm gì đấy?” Không chờ Tần Bắc Dương hỏi xong, Cửu Sắc đã phun cầu lửa khỏi miệng. Cầu lửa bắn vào xà am. Gỗ ở đây đã mục ruỗng, vỡ nát vụn, rơi xuống đống cỏ khô tích thành tổ chim. Trong nháy mắt, lửa dấy lên hừng hực. Đầu óc Tần Bắc Dương cũng cháy luôn. Đầu tiên, cậu biết Cửu Sắc không sợ lửa, nhưng xác thịt cậu thì có. Thứ hai, đây là am ni cô từ thời Nam Tống, kiến trúc nhất định rất có giá trị lịch sử, thiêu hủy là làm càn! Cậu tìm mãi không thấy chổi, vách đá cheo leo không có nguồn nước, thời cổ phải nấu nước mang lên. Lửa nhanh chóng lan tràn, miếu cổ lung lay muốn sập, mái hiên và mái ngói rơi xuống tí thì đè chết Tần Bắc Dương. Quả nhiên, Cửu Sắc cũng không ngại lửa, biến về hình dạng thú trấn mộ ấu kỳ lân, đi qua ngọn lửa về phía sau Quan Thế Âm đường. Nó quay trở lại, cắn quần áo Tần Bắc Dương lôi đi cùng. Ngọn lửa liếm đến sát mặt cậu nhưng cậu không hề thấy đau chút nào, chỉ cảm thấy hơi nóng, không đến mức không chịu nổi, còn như chậu than ấm áp sưởi ấm mùa đông. Tần Bắc Dương chắt lưỡi kêu lạ, lớn mật thò tay vào lửa nhưng không bị sao cả, chỉ như sờ vào bình nước nóng. Cậu mặc kệ lửa cháy bén vào mình nhưng da không hề đổi màu, dường như cơ thể cậu có một lớp áo chống lửa hoặc áo sợi a-mi-ăng. Khi ngọn lửa bốc ngút trời, Tần Bắc Dương hiểu rằng – chỉ cần ở cùng Cửu Sắc, là chủ nhân của nó sẽ có thuộc tính của nó, không sợ lửa như hỏa kỳ lân. Chưa đến khoảnh khắc, am ni cô tám trăm năm đã thành quả cầu lửa. Củi gỗ xa xưa dẫn cháy, thoáng chốc lửa bốc lên tận trời cao, mang theo thanh xuân cùng oán hận của biết bao đời ni cô, soi sáng hơn nửa núi Đạt Ma. Thích khách ở vách Xả Thân thì tưởng Tần Bắc Dương đã bị đốt thành tro bụi. Đêm nay, núi Đạt Ma, ngọn đuốc thứ hai. Dù trận cháy này cứu mạng Tần Bắc Dương nhưng lại làm cậu áy náy muôn phần. Dù sao cũng là kiến trúc cổ thời Tống, bảo bối khó tìm! Đây có phải phạm tội không nhỉ? Cửu Sắc kéo Tần Bắc Dương đi đến một đầu hồi bị lửa thiêu rụi. Có một cánh cửa vòm bằng gạch trông giống lối vào mộ. Chẳng nhẽ am ni cô thời Tống lại giấu một ngôi mộ cổ? Cậu liên tưởng đến việc Cửu Sắc đột nhiên biến thân, dần dần khôi phục sức mạnh có dưới địa cung. Liệu có phải mảnh đất này có long huyệt, giếng vàng? Sức mạnh này xuyên qua mặt đất, ảnh hưởng đến thú trấn mộ? Tần Bắc Dương suy nghĩ kỹ, địa hình vách Xả Thân mặt hướng biển Hoa Đông, sau là núi cao trên đảo, chính là long mạch tuyệt vời rồi? Vách đá vạn trượng dưới kia, e là đã có người điểm huyệt! Tần Bắc Dương và Cửu Sắc cùng ra sức đẩy bức tường gạch, quả nhiên có hai phiến đá xanh là cửa mộ bị che đi. Hai phiến đá này không cao nhưng dưới ánh lửa, có thể thấy hình chạm trổ đẹp đẽ, giống hoa văn “Bàn Long Náo Hải”. Ở lăng Hoàng đế Quang Tự và Viên Thế Khải, cậu từng chế tạo cánh cửa này, chỉ có cậu mới biết cách mở. Không có công cụ, cậu nhét đầu ngón tay qua khe cửa, chạm vào vị trí viên đá phía trên, nhẹ nhàng mở cánh cửa mộ. Cửu Sắc phun một quả cầu lưu ly bay lơ lửng phía trước thành đèn chiếu sáng. Nó như cá gặp nước, được về nhà khi chui vào lối mộ. Tần Bắc Dương đi sau, đóng cửa mộ lại, tránh để bị thích khách phát hiện. Quả cầu lửa soi sáng lối bậc thang đá nghiêng 45 độ đi xuống lòng đất. Gần biển nên không khí trong mộ phảng phất vị mặn, thạch bích hai bên còn có hơi nước. Đây không phải là hang động tự nhiên, trên dưới đều có vết rìu đục công phu, phần dưới bức tường khắc các hoa văn cầu an như hoa kim ngân và nhẫn đông, nói rõ ngôi mộ này có quy cách rất cao. Tần Bắc Dương cảm thấy khó hiểu. Hòn đảo biệt lập giữa biển này thì chôn cất nhân vật nào nổi tiếng nhỉ? Núi Đạt Ma nằm ở nút giao giữa ba nước Trung – Nhật – Triều, chẳng nhẽ là người Nhật Bản hoặc Triều Tiên? Đôi sừng hươu của Cửu Sắc dẫn cậu lần vào trong ngôi mộ. Lại là một cách cổng, trên có hiên ngói lưu ly, rõ ràng phong phạm Hoàng gia. Tượng đá trên cửa đúng là võ sĩ cổ đại mặc sơn văn giáp và hộ tâm kích (1), trái cầm trường kiếm phải cầm chử đại kích, dường như là phong cách thời Tống hoặc Minh. Lần theo bức tranh hồ lô, Tần Bắc Dương dùng phương pháp như lúc nãy, mượn sừng thú trấn mộ ấu kỳ lân để mở viên đá trên cùng của khe cửa. Cửa mộ từ từ mở ra, một làn khói đen xuất hiện. Tần Bắc Dương lấy áo bịt mũi, bật diêm đưa vào kiểm tra lượng dưỡng khí. Ngọn lửa tưởng tàn lụi lại cháy dần lên. Tần Bắc Dương tiến vào trong mộ, thạch bích trơn nhẵn khô ráo hệt như cổ mộ trong đất liền, có lẽ đã vào sâu trong vách Xả Thân. Phía trước là một “đại sảnh”, trần mái vòm, bốn phía là hiên mái ngói lưu ly. Do không khí tràn vào, đuốc trên tường tự sáng lên, thạch thất sáng trưng như ban ngày, cũng sáng cả mấy trăm người đàn ông xếp hàng chỉnh tề… Đội khôi (2) mặc áo giáp, tay cầm đao kiếm cung tên; mặc triều phục, đầu đeo lụa đen. Kỳ lạ hơn là ai nấy mắt mũi rõ ràng, rất sống động, như bị cao thủ võ công điểm huyệt, không nhúc nhích như tượng đất. Tần Bắc Dương làm tư thế chuẩn bị đánh nhau nhưng đối phương có phải hơn một trăm người, cùng nhau tiến lên thì cậu nát nhừ. Có điều Cửu Sắc không hề sợ hãi, bốn chân tung tăng chạy đến giữa những người đó, quả nhiên không ai có phản ứng. Nó vẫy cặp sừng hươu, đẩy một tướng quân cao to mặc giáp trụ một cái, đối phương ngã rạp ra đất, khiến mấy người xung quanh cũng đổ theo, bụi bặm mù mịt. Tất cả là người chết! Không sai, mắt ai nấy đều đen kịt, hình như phủ lớp thủy ngân? Tần Bắc Dương đến gần một quan văn chợt cảm thấy đau đầu kinh khủng khiếp. Thủy ngân có độc, chỉ bay hơi trong không khí cũng có thể khiến người ta tử vong! Tần Bắc Dương vội vàng lùi về phía sau, cởi áo khoác tè vào, che miệng và mũi như mặt nạ phòng độc. Ngửi mùi nước tiểu khai mù của mình, cậu ước gì Cửu Sắc lại đây. Thú trấn mộ nhỏ này không có sống chết như loài người! Đếm sơ qua thì trước mắt có khoảng năm trăm người xếp hàng chỉnh tề thành đội quân hoàn chỉnh. Có 100 người mặc khôi giáp, còn lại là triều phục đời Minh, trước ngực có bổ tử (3) đẹp đẽ sáng sủa. Quan văn thêu hình chim muông: nhất phẩm tiên hạc, nhị phẩm cẩm kê, tam phẩm khổng tước, tứ phẩm vân nhạn, ngũ phẩm bạch nhàn, lục phẩm lộ tư, thất phẩm khê xích, bát phẩm hoàng li, cửu phẩm am thuần; quan võ thêu hoa văn thú: nhất phẩm nhị phẩm sư tử, tam phẩm lão hổ, tứ phẩm báo tử, ngũ phẩm hùng, lục phẩm thất phẩm giai bưu, bát phẩm tê ngưu, cửu phẩm hải mã. (4) Quan võ từ nhất phẩm đến cửu phẩm: 1, 2 sư tử, 3 hổ, 4 báo, 5 gấu, 6, 7 cầy gấm, 8 tê giác, 9 cá ngựa. Bổ tử là chế độ triều Minh, triều Thanh tiếp tục sử dụng. Cả triều văn võ, mặt người dạ thú! Tần Bắc Dương thấy rất nhiều tiên hạc và sư tử, chứng tỏ toàn quan nhất phẩm nhị phẩm, địa vị cao quyền hành nhiều. Có thể dùng đại thần tuẫn táng đương nhiên cũng chỉ có Hoàng đế. Ngoài Hoàng lăng Phượng Dương, Minh lăng Nam Kinh, Thập Tam lăng Xương Bình Bắc Kinh, Minh Hiến lăng ngoài Hồ Bắc, nơi nào thiên hạ còn có lăng vua Minh? Tập tục cho người tuẫn táng đã bị hủy bỏ từ lời Khổng Tử “người khởi xướng không có suy nghĩ”. Triều Minh cho phi tử tuẫn táng theo đã là dã man lắm rồi, sau này cũng bị Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn phế bỏ. Chủ nhân ngôi mộ này là ai? Bỗng nhiên sau lưng Tần Bắc Dương vang lên tiếng bước chân gấp gáp hỗn loạn… “Tần Bắc Dương!” Đó chẳng phải… chẳng phải là giọng Tề Viễn Sơn sao! ____________ Chú thích: (1) Sơn văn giáp: loại khôi giáp điển hình của Trung Quốc xuất hiện ở đời Đường. Các mảnh giáp làm từ kim loại hợp lại thành giống chữ “山”. Hộ tâm kích: miếng đồng đặt ở ngực và lưng áo giáp để tránh bị tên bắn vào tim. (2) Khôi: còn gọi là khải, mũ đội đầu khi chiến đấu. (3) Bổ tử là miếng vải dệt được đắp lên lưng và ngực của áo quan lại, thể hiện đẳng cấp quan lại. Trước kia cũng có nhiều quy tắc phân cấp quan lại dựa trên triều phục, nhưng phải đến đời Minh thì bổ tử mới có ý nghĩa nghiêm ngặt. (4) Quan văn từ nhất phẩm đến cửu phẩm: 1 chim hạc, 2 trĩ vàng, 3 chim công, 4 ngỗng trời, 5 gà lôi trắng, 6 cò trắng, 7 uyên ương, 8 vàng anh, 9 chim cút.