← Quay lại trang sách

Chương 2 Cha và con

Cửa Ngô Tùng, chân tường thành Bảo SơnVương Sỹ Trân ôm cánh tay Tề Viễn Sơn, liên tục thở dài: “Năm Canh Tý, quân Bắc Dương đóng quân ở Sơn Đông. Bác dẫn một nhánh quân yểm trợ bị mấy vạn thổ phỉ bao vây, nguy nan sớm tối, may có cha cháu cứu bác, còn bị thương nữa. Bác và cha cháu đều là đồng hương huyện Chính Định, Trực Lệ, từ đó kết nghĩa anh em.” “Đó là năm cháu sinh ra, cha cháu cũng từng nhắc tới với cháu.” “Cháu à, cháu từ nhỏ tai thính mắt tinh, giỏi nghe gió biết âm, bắn bia bách phát bách trúng.” Tề Viễn Sơn gật gù liên tục, vui mừng hớn hở: “Bác, năm Tân Hợi, tiệc mừng thọ Viên Thế Khải, cháu đọc thuộc lòng sách yếu lĩnh lục quân Bắc Dương. Ông ta còn từng khen cháu trò giỏi hơn thầy, chắc chắn tranh giành Trung Nguyên, lên ngôi thiên hạ, khai cương thác thổ Trung Hoa!” “Năm đó, bác thân là Đại thần lục quân, cùng thần phục triều đình nhà Thanh với cha cháu. Ông ấy bị Viên Thế Khải ám sát, bác cũng giải ngũ về quê, không thể giúp mẹ con cháu, thật xấu hổ. Bác cũng từng dò tìm cháu, lại nghe nói cháu đi lính đoàn công binh, năm ngoái toàn quân lên núi Thái Hành bị tiêu diệt, cho rằng cháu không còn sống nữa.” “Bác, cháu giờ là người thường rồi, gần đây thường gặp rủi ro, không ngờ còn bị coi là gian tế.” Vương Sĩ Trân gọi thẩm phán quân sự tới, quất cho một trận roi ngựa, nghiêm cấm không được xử quyết cẩu thả bất cứ ai, bất kể là gian tế hay lính đào ngũ. Nhìn thấy Tề Viễn Sơn ướt đẫm, run rẩy trong gió mùa đông, Vương Sỹ Trân bèn khoác cho cậu áo khoác Bắc Dương ấm áp. Mũ in sao vàng cờ năm màu, quân hàm Thiếu úy lục quân, nghiễm nhiên là nhân vật phong lưu. “Từ xưa tới nay anh hùng xuất thiếu niên! Sư đoàn lục quân thứ sáu này vốn toàn người cũ do cha cháu thống lĩnh, sĩ quan đều là đồng hương Trực Lệ ta. Viễn Sơn, bác ra lệnh cho cháu đảm nhiệm chức thư ký riêng.” Thủ tướng Quốc vụ Vương Sỹ Trân vuốt chòm râu, làm Tần Bắc Dương nhớ tới điệu bộ của Âu Dương Tư Thông, chỉ có điều người này lai lịch càng cao, nắm giữ thiên binh vạn mã và vô vàn tính mạng nhân dân. Có người đưa cho Tần Bắc Dương một bộ quân trang. Cậu đang định từ chối, đỉnh đầu chợt vang lên tiếng nổ. Vô số đạn pháo nện xuống tường thành Bảo Sơn, nổ ong cả tai, tàn chi và đầu người bay tung tóe, đội hành hình chết mất một nửa. Tần Bắc Dương nằm sấp trong đống người chết, hỏi: “Viễn Sơn, ai đang nã pháo vào quân Bắc Dương?” “Cũng là quân Bắc Dương!” “Mẹ nó, loạn thế!” Trong tiếng lửa đạn ù ù, Tề Viễn Sơn gân cổ giảng giải hệ thống quân Bắc Dương rắc rối phức tạp. Rồng Bắc Dương Vương Sỹ Trân, Hổ Bắc Dương Đoạn Kỳ Thụy, Chó Bắc Dương Phùng Quốc Chương được người đời xưng là “Bắc Dương tam kiệt”. Viên Thế Khải từng đánh giá Vương Sỹ Trân “là nhân tài quân sự đệ nhất Bắc Dương”, đáng tiếc năm Tân Hợi lại thần phục triều đình nhà Thanh, giải ngũ lui khỏi chính trường. Hổ và Chó trong tam kiệt giờ đây đã là những nhân vật rung chuyển đất trời. Đoạn Kỳ Thụy là thủ lĩnh Hoàn hệ, Phùng Quốc Chương là thủ lĩnh Trực hệ. Vương Sỹ Trân dù được bổ nhiệm làm Thủ tướng Quốc vụ kiêm Tư lệnh lục quân, nhưng không có địa bàn, không có quân đội, còn không được tính làm chư hầu một phương. Pháo xạ duy trì mãnh liệt khoảng mười phút, đột nhiên, chiến trường cửa Ngô Tùng trở nên tĩnh lặng dị thường. Tần Bắc Dương thay áo khoác quân phục, trèo lên tường thành với Tề Viễn Sơn. Phía ngoài huyện Bảo Sơn, sư đoàn lục quân thứ sáu Trực hệ Bắc Dương đang co lại chiến tuyến, đào hào cố thủ. Pháo đài Ngô Tùng cách một dặm, có thể trông thấy rõ cờ năm màu của đối phương. Pháo đài Ngô Tùng gồm vài tòa pháo đài bền lâu tạo thành, giống như con thú lớn ẩn núp, những khẩu pháo Krupp san sát cạnh nhau. Đúng 20 năm sau, Hội chiến Tùng Hỗ, ở tòa pháo đài và huyện thành sau lưng này, quân đội Trung Hoa sẽ trải qua trận chiến đấu vô cùng gian khổ bi thảm, gần như bị lửa đạn quân Nhật san thành đất bằng. Đồng bằng Giang Nam tháng Mười hai, khói súng ngập tràn, xác chất như núi. Cửa sông Trường Giang sóng dờn mênh mông, nghe đâu đây phong thanh nhịp trống. Tần Bắc Dương nghe thấy vô số tiếng đàn ông, kèm theo tiếng kèn Clarinet và kèn Cor, rền vang đột kích… Không nghe rõ lời ca của quân địch, nhưng nhận ra được tên các vị anh hùng Tam Quốc như “Triệu Tử Long”, “Trương Dực Đức”, “Vũ Hầu Khổng Minh”. Tề Viễn Sơn hoang mang, chẳng lẽ đối phương muốn mượn gió Đông hỏa thiêu Xích Bích? Đại chiến sắp tới, đồng hoang giữa pháo đài Ngô Tùng và thành Bảo Sơn, không thấy một quân một tốt của bên địch, dường như chỉ có ngàn vạn vong hồn lẩn khuất trong gió. Chi sĩ Yến Triệu(1) khảng khái bi ca, thừa dịp gió bắc bao vây đại quân “Rồng Bắc Dương”, tựa như Cai Hạ(2) bốn bề thọ địch. Chiến tướng Tam Quốc dũng mãnh, dẫn đầu là Triệu Tử Long, trước sườn núi Trường Bản tỏ rõ vẻ anh hùng, đánh lui ngàn viên tướng, giết triệu binh, bảo vệ A Đẩu được an toàn. Còn cả Trương Dực Đức(3), đợi trước cầu Đương Dương, đao kiếm vung lên, cầu thủng vài lỗ, nước sông chảy ngược, dọa lùi triệu binh Tào doanh… “Quân ca của sư đoàn lục quân thứ tư Bắc Dương! Hầu như quân Bắc Dương ai cũng đều biết hát. Bọn họ là tinh nhuệ Hoàn hệ, hàng năm đóng ở khu vực Tùng Hỗ. Triệu Tử Long là đồng hương Chính Định, Trực Lệ với tôi, cũng là anh hùng mà toàn quân Bắc Dương đều kính trọng.” Tề Viễn Sơn còn chưa dứt lời, đằng trước chiến hào hiện ra hàng vạn người đội mũ kepi màu lam, hát vang “Chọn sương mượn gió đông, liên hoàn diệu kế, lửa bay khắp chốn, hỏa hoa tung trời, nước sông nhiễm máu đỏ, chết cháy doanh Tào…”, cầm theo súng trường Hán Dương và lưỡi lê lao vào huyện Bảo Sơn. Vương Sỹ Trân không thể không trốn xuống dưới lỗ châu mai, lớn giọng quở trách tham mưu: “Chẳng phải nói sắp đánh hạ pháo đài Ngô Tùng ư?” Tham mưu tái mặt: “Vừa nhận được thám báo, hạm đội Hoàn hệ đã phá tan quân phong tỏa cửa khẩu Trường Giang, vận chuyển viện binh từ phía Bắc.” Mặc dù súng máy và đại pháo của quân đoàn thứ sáu cùng nổ vang nhưng đã bị khí thế của phe địch áp đảo hoàn toàn. Phe địch hát vang quân ca, sĩ khí ngút trời, nháy mắt lọt vào phòng tuyến đầu tiên, vô số tướng sĩ quân Trực bị giết ngay tại chỗ. Vương Sĩ Trân nhận ra manh mối, vê râu: “Viện binh của Tiểu Từ quả nhiên lợi hại!” Phòng tuyến thứ hai cũng là phòng tuyến cuối cùng, chính là tường thành Bảo Sơn. Tất cả binh lính trèo lên tường thành, phóng giáo phóng hỏa, tạm thời hạn chế quân địch phản công. Quân kỳ năm màu sau lưng bùng cháy, trong trận tuyến quân phiệt Hoàn hệ bỗng xuất hiện hai thứ kì quái. Đầu tiên là con cóc to lớn, toàn thân vàng chói lóa, lưng lốm đốm, đôi mắt to nổi bật, bốn cái chân ngắn to, có thể nhảy cao vài trượng. Vương Sỹ Trân và binh lính hài hước nhìn con quái vật, có người móc đồng tiền Viên đại đầu ra so sánh, đôi bên giống nhau như đúc. Tần Bắc Dương nằm sấp trên tường thành, lập tức nhận ra: “Cóc Vàng!” Đó chẳng phải thú trấn mộ Cóc Vàng mà cậu tạo dựng cho Viên Thế Khải ở núi Thái Hành đấy sao? Khi con cóc lại gần tường thành, vai nó đột nhiên mở ra, một chiếc súng máy Gatling tức khắc nã đạn lên tường thành. Thoáng chốc, mấy chục binh lính trúng đạn rơi xuống, giữa không gian chỉ có tiếng quái vật gào thét. Quân phòng thủ nổ súng chống trả, nhưng Cóc Vàng được nâng cao khả năng phòng thủ, dường như biến thành chiếc xe tăng thiết giáp, mưa bom bão đạn đánh lên nó như gãi ngứa. Con cóc đại khai sát giới, trong miệng nó bay ra lưỡi sắt lò xo, giống như cái kéo lần lượt cắt bỏ đầu người, đều là quân Trực bị vứt bỏ ngoài tường thành. Nhìn trong ngoài tường thành lăn đầy đầu người và máu tươi, sĩ khí quân phòng thủ gần như sụp đổ. Con quái vật đầu tiên bắt đầu tấn công tường thành, con thứ hai lại nối gót mà lên… __________ Chú thích: (1) Vùng đất Yến Triệu (Hà Bắc) nổi tiếng có nhiều chi sĩ khẳng khái bi tráng. (2) Cai Hạ: Nơi Hạng Vũ bị vây và thất bại. (3) Trương Dực Đức tức Trương Phi, cùng với Triệu Tử Long đều là chiến tướng dưới trướng Lưu Bị.