← Quay lại trang sách

Chương 3 Thú và thú

Năm Trung Hoa Dân quốc thứ sáu, Âm lịch năm Đinh Tỵ, Dương lịch ngày 7 tháng 12 năm 1917, hoàng hônĐại chiến thế giới lần thứ nhất, ngày cuối cùng trong chiến dịch Cambrai, quân Anh có ba trăm chiếc xe tăng, như mãnh thú sắt thép đeo xích tiến lên. Lịch sử loài người lần đầu có tác chiến bằng xe tăng quy mô lớn, sau khi phá tan chiến hào quân Đức và dây thép gai, rút lui vì bão tuyết và hỏa lực tập kích mãnh liệt, máu tươi thấm đẫm đất Pháp. Cùng ngày, đầu kia đại lục Âu Á, tám tiếng sau mặt trời lặn về phía Tây, nơi canh giữ vạn dặm Trường Giang, cửa Ngô Tùng đồng dạng bao phủ trong khói lửa khói súng. Hai mãnh thú sắt thép đến từ lăng mộ dưới đất, từ biển rộng lạnh băng tiến tới, mài đao soàn soạt về hướng thân thể máu thịt của binh lính phe đối diện. Bình thản ung dung, Cóc Vàng va thân thể vào tường thành, tựa như mặt đất chấn động, khối gạch liên tiếp rơi xuống vỡ tan. Thú trấn mộ bảy đầu mười sừng cũng lấy sừng nhọn chọc phá tường thành, đến tận khi tường thành sụp đổ mấy chục mét, lỗ thủng to tướng. Bất kể Sơn Hải Kinh hay Tây Du Ký, hoặc Phong thần diễn nghĩa, trí tưởng tượng của người Trung Hoa chưa từng đạt tới trình độ này – nó có thân hình khổng lồ như tê giác, bốn cái chân báo săn, bảy đầu dã thú, mỗi đầu đều là loại thú khác nhau, có là mãnh hổ, có là cá sấu, có là lang sói, có là linh ngưu, ba đầu có cặp sừng, bốn đầu có một sừng, tổng cộng vừa vặn mười sừng. Mỗi sừng treo một mũ miện vàng, phảng phất là vị quân vương Trung Hoa đăng quang. Trên đầu thú còn khắc chữ viết khó lòng hiểu nổi. Tần Bắc Dương chưa từng thấy thứ như thế này, nhưng cậu ngửi được mùi thú trấn mộ, giống như ác long núi Đạt Ma, nhanh chóng đặt tên cho con quái vật này: Thập Giác Thất Đầu. Bảy đầu thú há miệng lộ ra bảy cỗ súng máy, điên cuồng bắn phá tường thành. Tần Bắc Dương và Tề Viễn Sơn nằm sấp sau bao cát, trên lỗ châu mai treo đầy thi thể không hoàn chỉnh. Lính mới ôm đầu chạy trốn, lại bị quân trên xử bắn. Vô số binh lính Hoàn hệ tiếp tục hát vang khúc quân ca, giống như bị anh hùng thời Tam Quốc nhập hồn, xung phong tiến về thành Bảo Sơn. Sư đoàn thứ sáu sắp bị diệt toàn quân tới nơi, “Rồng Bắc Dương” đã mất đại thế, nửa đời chinh chiến, một đời anh danh sắp bị hủy hoại trong sớm chiều. Thủ tướng Quốc vụ kiêm Tư lệnh lục quân ngẩng mặt thở dài: “Tiểu Từ ơi Tiểu Từ, cậu lấy yêu ma quỷ quái đi tiên phong, còn gọi gì là quân nhân Bắc Dương?” Tất cả mọi người ôm đầu chạy trốn, chỉ còn lại Tần Bắc Dương mười bảy tuổi một mình đứng trên thành trì đổ nát, dựa vào cờ năm màu Bắc Dương lỗ chỗ vết đạn, phía trước là thi thể chất đống như kim tự tháp. Một thoáng tàn dương cuối cùng còn hiện ánh vàng đỏ. Cách khói súng và thi thể, Tần Bắc Dương nhìn thấy sau lưng Cóc Vàng và Thập Giác Thất Đầu là người đàn ông mặc đồ thợ thủ công, lưng đeo thanh đao dài, gào thét lớn tiếng, ra dấu tay kỳ quặc. Không nói cũng biết, người này đang điều khiển hai con thú trấn mộ giết chóc. Người đàn ông tóc bạc đầy đầu, trán hằn nếp nhăn, khoảng tầm sáu, bảy mươi tuổi. Chỉ có Tần Bắc Dương biết, ông ấy không già như vậy, chỉ vì tiếp xúc với quá nhiều thú trấn mộ nên mới bị bào mòn sinh lực. Ông ấy tên là Tần Hải Quan, thợ thủ công Hoàng gia nhà Thanh, truyền nhân tộc xây mộ, người chế tạo thú trấn mộ, thợ cơ khí đứng đầu xưởng quân giới Nam Uyển, cũng là cha đẻ của Tần Bắc Dương. “Cha!” Chàng trai trẻ gào khản cổ, hét lên với người đàn ông đứng sau hai con thú trấn mộ. Theo ánh tà dương, Tần Hải Quan dõi mắt nhìn tường thành đằng xa, bên cờ năm màu bị tàn phá, người cuối cùng thủ thành lại là cậu con trai ngày nhớ đêm mong. Cha con thất lạc nửa năm lại trùng phùng trên chiến trường ngập xác người, còn mỗi người thuộc về phe đối địch. Thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu quay cái đầu gấu đen lại, ngắm chuẩn cờ năm màu bùng cháy, khai hỏa súng máy Gatling trong miệng. “Dừng…” Lão Tần điên cuồng ra lệnh thú trấn mộ ngừng bắn, nhưng sao chổi một khi lao vào mặt trăng làm sao có thể dừng lại. Mười mấy phát đạn kim loại hình nón bùng cháy lao về phía đôi mắt Tần Bắc Dương. Thời gian chậm lại một trăm lần, chàng trai mười bảy tuổi chớp qua mắt vài bức tranh đen trắng, vẽ ra địa hình núi sông đồng bằng Giang Nam và cửa khẩu Trường Giang, bố cục tấn công phòng thủ pháo đài Ngô Tùng và huyện Bảo Sơn, cũng vẽ ra thú trấn mộ Cóc Vàng và thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu từ mặt phẳng, mặt bên đến mặt cắt là các loại đồ thị. Vô số đường dệt ô vuông, thần chết cưỡi trên làn đạn, cười ác độc tạt vào mặt cậu. Hãy để đạn bay thêm một lát… Bóng đêm giáng lâm Trung Hoa. Một con thú là cóc vàng, một con thú khác có bảy đầu mười sừng, mười sừng đội mũ miện, bảy cái đầu với danh hiệu khinh nhờn. Thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu ngoác cái miệng gấu đen rộng lớn, phun ra ngọn lửa súng máy Gatling. Đạn Nhật Bản liên tiếp xoay tròn từ nòng súng nóng bỏng, bay múa hân hoan. Chúng như các câu chuyện thích khách sao chổi quét qua ánh trăng, ánh sáng trắng phủ qua mặt trời, diều hâu tấn công cung điện, lưỡi đao giấu trong miệng(1), bắn về phía tường thành đổ sụp, về phía chàng trai trẻ cuối cùng bảo vệ cờ năm màu Bắc Dương. Tần Bắc Dương. Khoảng cách chuỗi đạn cách cậu còn khoảng 066m, lông mi thần chết và mùi vị hôi thối đều đã có thể cảm nhận thấy rõ ràng. Một con thú, một con thú ánh vàng với đôi sường hươu trắng như tuyết, lông bờm màu đỏ, vảy bằng đồng, như mũi tên Phi tướng quân(2) bắn ra, lao vội tới trước mặt chàng trai, chặn mấy chục viên đạn giúp chủ nhân. Bên tai vang lên tiếng kim loại va chạm, Tần Bắc Dương bất giác nhoài xuống. Một bộ vuốt lông xù giẫm lên đầu vai cậu. Lần đầu nhìn thấy Cửu Sắc từ góc độ này – thú trấn mộ ấu kỳ lân, ngang nhiên lẫm liệt, một bên thân thể lằn vết đạn bốc khói. Hai con thú trấn mộ đối diện đã công phá xong thành trì, quân tinh nhuệ sư đoàn thứ tư Hoàn hệ hát vang “Chiến tướng Tam Quốc dũng mãnh, dẫn đầu là Triệu Tử Long” xông vào huyện Bảo Sơn, định tiêu diệt sạch sư đoàn thứ sáu Trực hệ. Trời, tối mịt, không có chút ánh trăng. Ấu thú Cửu Sắc chưa trưởng thành với hình thể bé nhỏ đối mặt với hai con thú trấn mộ xa lạ to lớn, tựa như David quyết đấu với Goliath. Nhưng nó vẫn nhe răng nhếch miệng, không chút sợ hãi. Tần Bắc Dương nhổm người dậy, vỗ lưng Cửu Sắc. Sừng hươu trên đỉnh đầu của Cửu Sắc bắt đầu sinh trưởng, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra những nhánh cây sắc nhọn vô tận, tựa như mấy chục thanh đao kiếm lạnh lẽo lấp lánh, có Oa đao Nhật Bản, có đoản kiếm của lực sĩ Malaysia, đao cong Damascus và cả thanh Hoàn thủ đao thời Đường, đủ để chống lại bảy đầu mười sừng. Một quả cầu lửa màu lưu ly dâng lên từ miệng Cửu Sắc. Quả cầu lửa xoay quanh chiến trường, như ma trơi giữa hài cốt người chết. Binh lính song phương chấm dứt chém giết, nhấp nhổm theo dõi ngọn lửa như đến từ địa ngục. Tần Bắc Dương một lần nữa vỗ vào người Cửu Sắc, hơi thở cuồn cuộn không ngừng rót vào cơ thể ấu thú. Quả cầu lửa bùng nổ, biến thành quả cầu vàng rực lửa bùng cháy. Một tiếng nổ vang, ngọn lửa như mũi tên nhọn, như nỏ cứng mười hai thạch, vạn tên bắn ra… Người điều khiển Cóc Vàng và Thập Giác Thất Đầu – Tần Hải Quan cảm tạ ông trời cứu vớt con trai, cũng trợn mắt há mồm nhìn trên tường thành, Tần Bắc Dương mười bảy tuổi mặc quân phục Bắc Dương điều khiển thú trấn mộ ấu kỳ lân. Lão Tần ra lệnh cho hai con thú trấn mộ rút lui, nhưng không kịp với nỏ cứng mũi tên lửa hừng hực của Cửu Sắc. Vỏ ngoài sắt thép của thú trấn mộ Cóc Vàng nháy mắt thủng lỗ chỗ, lắc lư đôi lần toát lên ngọn lửa vàng, như con cóc bị đá ném trúng, sụp đổ ầm ầm trên tường thành. Bóng chiều mênh mang, thú trấn mộ cuối cùng biến thành vũ khí giết người trên chiến trường. Có điều, Cóc Vàng đã xong đời, còn Thập Giác Thất Đầu thì sao? Thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu mất khống chế, giận dữ ngước bảy đầu lên, đồng loạt mở bảy súng máy, điên cuồng nổ súng về phía Cửu Sắc, làn đạn rợp đất trời, mức hủy diệt ngang với biển động sóng gào. Tần Bắc Dương can đảm cưỡi lên lưng Cửu Sắc, thú trấn mộ như con hươu bay qua khe núi, bật lên nhảy xuống tường thành, tránh làn mưa đạn. “Không được giết nó!” Tần Hải Quan nóng lòng như lửa đốt, bỏ thanh đao xuống, ném vào đống thi thể. Ông toan chỉ huy Thập Giác Thất Đầu đầu hàng thì bị mấy sĩ quan Hoàn hệ bắt lấy, trói gô đưa về pháo đài Ngô Tùng. Thập Giác Thất Đầu cũng rút lui theo chủ nhân, quân Hoàn hệ vô cùng dao động, mỗi binh lính đều không muốn trở thành tế phẩm cho quái thú. Bấy giờ, Tề Viễn Sơn một lần nữa bò lên đầu tường, giơ lên thanh súng trường, ngắm chuẩn tướng quân mặc áo khoác phe địch. Siết cò, tức khắc vỡ đầu. Cậu ta hào hứng vung tay hô to, vẫy cờ năm màu được Tần Bắc Dương bảo vệ, cổ động các tướng sĩ phản công. Sư đoàn thứ sáu vốn binh bại như núi lở tập hợp lại, lữ trưởng và đoàn trưởng thay đổi phương hướng, lao qua lỗ hổng tường thành. “Rồng Bắc Dương” Vương Sỹ Trân trốn sau công sự, nhìn trận chiến đấu chưa từng thấy. Ông còn tưởng rằng trên chiến trường phương Tây, vũ khí xe tăng kiểu mới mà người Anh xung phong điều khiển chính là thứ này. Tần Bắc Dương ra lệnh Cửu Sức thu hồi quả cầu lửa. Sứ mệnh của thú trấn mộ là bảo vệ chủ nhân ngôi mộ, không phải giết chóc tranh đấu trong cuộc sống. Tề Viễn Sơn vẫy cờ năm màu, quả thật là võ tướng thiên bẩm. Cậu dẫn theo binh lính cũ sư đoàn thứ sáu hồi cha cậu còn sống dũng mãnh lao ra tường thành, giết quân địch gào khóc thảm thiết, cũng không còn nghe thấy tiếng quân ca nữa. Ngọn lửa thiêu đỏ cuộc đại chiến giữa bầu trời đêm, biến đổi bất ngờ, rung động tâm can, đến đây thắng lợi đã định. Trên tường thành Bảo Sơn, Cửu Sắc thu hồi sừng hươu trắng như tuyết, một lần nữa mọc lông trắng, hóa thân thành chú chó to chưa trưởng thành. Tần Bắc Dương ôm thú trấn mộ nhỏ của mình, dúi đầu hôn lông bờm màu đỏ, yêu thương vuốt ve vết đạn trên thân nó. Ấu thú này lại lần nữa xả thân cứu mạng chủ nhân. “Sao mày tìm thấy tao vậy? Nhóm Anna ở đâu?” Mặc dù Cửu Sắc không nói nhưng Tần Bắc Dương cũng đoán được – nó ở trên thuyền tận mắt thấy chủ nhân và Tề Viễn Sơn rơi xuống Trường Giang, chật vật bò lên bờ sông Bảo Sơn, lại bị quân Bắc Dương màu lam bắt đi. Thuyền đánh cá an toàn cập bờ, Cửu Sắc sốt ruột cứu chủ bèn tách khỏi nhóm Âu Dương Anna và Diệp Khắc Nan, lần theo xác chết trên chiến trường tìm được thành Bảo Sơn. Nếu Cửu Sắc tới trễ một giây, e rằng Tần Bắc Dương sẽ bị thú trấn mộ bảy đầu mười sừng bắn thành cái sàng. Bóng đêm mịt mùng, cậu dắt Cửu Sắc lên chiến trường, nhìn Cóc Vàng bị đập nát kèm vô số vết thương. Đại quân Trực hệ bước qua, thừa thắng xông lên, bao vây tấn công pháo đài Ngô Tùng, bên tai toàn là tiếng lửa đạn ù ù. Lửa hoang vẫn bùng cháy trên thân thể người chết, biến vùng đồng bằng hoang vu thành nơi hỏa táng và nghĩa địa rộng lớn. Tần Bắc Dương mặc áo khoác quân phục bước thấp bước cao, dặn dò Cửu Sắc phải đặc biệt cẩn thận, tránh giẫm vào những người trọng thương kéo dài hơi tàn. Không ít người bắt lấy đùi cậu, chờ mong được một nhát vào ngực kết thúc đau khổ. Rảo bước, căn bản khó lòng tránh thoát người chết và những đoạn chân tay đứt lìa, Tần Bắc Dương thoạt đầu muốn nôn nửa, nhưng không nhịn được muốn rơi nước mắt. Rất nhiều người chỉ nhìn mặt khoảng mười bảy, mười tám tuổi, bạn cùng lứa tuổi, vậy mà lại làm ma uổng mạng vì dã tâm quân phiệt. Đột nhiên, trong đống thi thể dưới chân, cậu giẫm phải một thứ cứng rắn. Cửu Sắc dùng miệng ngậm ra cho chủ nhân, hóa ra là một thanh đao dài có vỏ. Chiến trường giết chóc, mặt trăng xuất hiện. Tần Bắc Dương nhận ra đây là thanh đao mà cha cậu đeo, cuối cùng bị bỏ lại trên chiến trường. Cậu cầm chuôi đao bằng da có sợi dây đỏ quấn quanh, rút ra thanh đao dài hơn ba thước, ánh trăng chiếu lên đao, sáng lóa suýt mù mắt, ngay cả Cửu Sắc cũng sợ hãi lùi lại vài bước. Khác với bội đao thời nhà Thanh, cũng không giống dao găm kiểu Tây, càng không giống đao võ sĩ Nhật Bản. Thanh đao này chế tạo theo kiểu Bách luyện cương (3), thân đao thẳng, hẹp dài, hiển hiện cương trực công chính. Chuôi đao có thêm một vòng tròn bằng sắt, mang phong cách Hoàn thủ đao triều Hán cổ. Sống lưng dày, khiến cho đao nặng, thử vung một cái, khá tốn sức. May mà chuôi đao dài, cậu đổi hai tay nắm đao, vung ra vài tia sáng ẩn tiếng kim loại. Cậu bỏ thanh đao vào vỏ trông tầm thường, buộc vào sau lưng như Tần Hải Quan, giống đao khách thời cổ. Bỗng nhiên, pháo đài Ngô Tùng vang lên một tiếng nổ. Kho đạn dược nổ tung, ngọn lửa tuôn hừng hực lên cao không, chiếu sáng nửa đêm như ban ngày. Tần Bắc Dương chạy về phía pháo đài, lo lắng cho an nguy của cha mình. Cửu Sắc theo sát chủ nhân, bước qua chiến trường đầy máu tươi. Tiếng nổ dần ngưng, ánh lửa khiến ánh trăng tối màu. Trên pháo đài Ngô Tùng có rất nhiều người đàn ông đang hoan hô, phất một mặt cờ năm màu bị đốt lỗ chỗ tung bay, chính là lá cờ mà Tần Bắc Dương bảo vệ trước đó. Vẫy cờ năm màu, chiến sĩ đầu tiên đánh hạ pháo đào lại là Tề Viễn Sơn mười bảy tuổi. Chiến dịch này, “Rồng Bắc Dương” giành thắng lợi. Nhưng trên mảnh đất này, chiến tranh kéo dài hơn 30 năm mới bắt đầu mở màn. Chỉ có Tần Bắc Dương không tham gia chúc tụng người thắng. Cậu ôm Cửu Sắc, quỳ xuống hàng ngàn hàng vạn thi thể, bất kể địch ta. Nội chiến hoang đường thế này, nào có người thắng. Bỗng nhiên, nhớ tới “Binh xa hành” của Đỗ Phủ – “Ở miền Thanh Hải thấy gì sao? Xương trắng xưa giờ có nhặt đâu. Ma mới oán than, ma cũ khóc. Mưa rơi, trời ám tiếng rầu rầu!” Trước bình minh, sương lạnh buốt, tro tàn chưa tắt. Trên chiến trường xuất hiện một người đàn ông, ông bỏ mũ năm màu sao vàng xuống, lộ ra tro bụi. Tần Bắc Dương nhìn thấy người đàn ông phong vân để râu và quân hàm đính ba ngôi sao vàng. Thủ tướng Quốc vụ kiêm Tư lệnh lục quân chính phủ Bắc Dương, “Rồng Bắc Dương” Vương Sỹ Trân lẻ loi một mình, ông vỗ vai Tần Bắc Dương, ngồi xổm nhìn chăm chú Cửu Sắc, trông con mắt màu lưu li than thở: “Đây là hỏa kỳ lân đây mà!” Đêm, trăng non như móc câu. Tinh mơ hôm sau, không trung giăng mưa bụi lạnh như băng, cửa khẩu Trường Giang chìm vào sương khói mênh mang. Tần Bắc Dương mặc quân trang Bắc Dương màu lam, bước vào pháo đài Ngô Tùng hoang tàn. Sư đoàn thứ sáu quân Trực thắng lợi đang dọn dẹp chiến trường, đào ra vô số xác chết bốc cháy từ đống gạch ngói vụn. Tù binh duy nhất sống sót lại là người nước ngoài – cố vấn xưởng quân giới Nam Uyển, Tiến sĩ Karl Hofertein. Quân y kiểm tra cho ông ta, chỉ bị chấn thương sọ não rất nhỏ. Tối qua, đạn pháo của quân Trực như mưa to nện lên đỉnh đầu pháo đài, Tiến sĩ phán đoán tình thế không ổn, ẩn nấp vào sâu trong động tị nạn, nín thở dưới nước mới không bị bay lên trời cao cùng kho đạn dược. Khi ông ta bị quân Trực hệ bắt làm tù binh, yêu cầu được nhìn thấy đích danh Tần Bắc Dương, nếu không sẽ không tiết lộ tình báo dù chỉ một chữ. Thế là Tần Bắc Dương đến rồi. Trong doanh trướng ngoài cửa Ngô Tùng, lều tù binh đầy rẫy thương binh, trên một chiếc giường tạm hôi hám cáu bẩn, một người nước ngoài hơn bốn mươi tuổi – dáng cao gầy, đầu quấn băng vải, mái tóc nâu rối bị cháy một ít, đôi mắt màu xanh sẫm ngơ ngác vô thần, chiếc kính mắt dày hằn toàn vết nứt nằm đó. Tiến sĩ Karl Hofertein. Ông ta liếc vỏ đao sau lưng Tần Bắc Dương, giãy dụa bò lên, nói ra câu tiếng Trung: “Đây là cái gì?” “Thanh đao cha tôi để lại.” Tần Bắc Dương cởi đao xuống, đưa cho tiến sĩ xem: “Ông biết Tần Hải Quan?” Tiến sĩ đẩy kính từ mũi lên mắt, chăm chú đánh giá gương mặt cậu, nhanh chóng khôi phục thần trí: “Tôi là cố vấn xưởng quân giới, cha cậu là thợ cơ khí đứng đầu, chúng tôi là đồng nghiệp. Tôi có thể nhìn cổ cậu không?” Tần Bắc Dương sửng sốt, người nước ngoài này lạ ghê? Cậu vẫn cởi áo khoác, lộ ra bớt ở gáy là hai vết sừng hươu màu đỏ. “Quả nhiên là con trai lão Tần!” “Cha tôi còn sống không?” Tiến sĩ Karl Hofertein ấn huyệt Thái dương: “Để tôi nhớ lại xem… Trước khi pháo đài thất thủ, cha cậu và thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu bị chuyển lên tàu chiến cửa Ngô Tùng, bây giờ chắc đang ở trên biển.” “Thập Giác Thất Đầu?” Tần Bắc Dương tưởng tượng ra hình ảnh quái vật thời tiền sử: “Ai đưa cha tôi đi? Ai đưa các người và thú trấn mộ đến đây?” “Tiểu Từ.” “Tiểu Từ là ai?” “Đại quân phiệt, ông ấy phái chúng tôi chỉ huy hai con thú trấn mộ, ngồi tàu chiến xuôi Nam, đến đây trợ giúp canh giữ pháo đài Ngô Tùng.” Tần Bắc Dương không nắm rõ quân phiệt Bắc Dương: “Nhưng tôi nhìn thấy Cóc Vàng, nó không còn là thú trấn mộ nữa, nó đã hoàn toàn biến đổi!” “Là tôi và cha cậu cùng cải tiến thú trấn mộ, lắp thêm máy móc động cơ diesel, và cả súng máy Gatling.” “Không thể nào! Thú trấn mộ chỉ có thể dùng để bảo vệ chủ nhân ngôi mộ, không thể giết người trên chiến trường! Cha tôi già rồi hồ đồ ư?” “Ông ấy có lý do riêng.” Tiến sĩ Karl Hofertein chỉ vào thanh đao trong tay Tần Bắc Dương: “Tần, thanh đao này là quà cha cậu chuẩn bị cho cậu, dùng để phòng thân thời loạn thế.” “Thảo nào ông ấy vừa nhìn thấy tôi liền chủ động bỏ đao xuống.” Tần Bắc Dương nắm vòng tròn chuôi đao, dường như vẫn sót lại hơi ấm của cha: “Đây là thanh Hoàn thủ đao làm theo kiểu hoành đao thời Đường, tại sao cha lại có thanh đao này?” Tiến sĩ dần hồi phục, lắp bắp dùng tiếng Hán giải thích cuộc mạo hiểm hai tháng trước – chính phủ Bắc Dương sai ông ta và Tần Hải Quan đi đào mộ, tìm thú trấn mộ dưới đất. Bọn họ ở phụ cận tỉnh Trực Lệ núi Thái Hành phát hiện một ngôi mộ lớn triều Đường, đào được rất nhiều văn vật quan trọng, bao gồm thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu. “Rốt cuộc chủ nhân ngôi mộ là người thế nào mà có thú trấn mộ lợi hại thế?” “An Lộc Sơn.” “Các ông đào mộ An Lộc Sơn ư?” Tiến sĩ vuốt cặn râu, nói: “Trong ngôi mộ lớn đó, lão Tần tìm được thanh bảo đao thời Đường này.” “Hóa ra là thanh đao chôn theo An Lộc Sơn!” Tần Bắc Dương rút thanh Hoàn thủ đao khỏi vỏ, ánh sáng lạnh lấp loáng, mặt đao như gương, lộ ra hoa văn mây rồng, tất nhiên cũng có tinh khí thấm đẫm hồn phách cổ nhân. Không hiểu thanh Đường đao này đã chém bao nhiêu đầu người tại loạn An Sử? Giết chết bao nhiêu danh thần lương tướng? Chiều hôm đó, xác thú trấn mộ Cóc Vàng cũng bị đưa đến pháo đài Ngô Tùng. Tiến sĩ Karl Hofertein xem xét tỉ mỉ thú trấn mộ, tổn hại tương đối nghiêm trọng, giống như một người bị đánh gãy hết xương, nội tạng vỡ nát. Tiến sĩ đau lòng, e rằng khó sửa chữa. Tần Bắc Dương thầm nhủ – Viên Thế Khải và An Lộc Sơn đều kiêu hùng một đời, thú trấn mộ của họ đương nhiên lợi hại. Nhưng Cóc Vàng dù sao là do cha con họ Tần làm ra. Thập Giác Thất Đầu của An Lộc Sơn lại thật sự là quái vật khát máu, như cách ông ta phá hoại Trung Nguyên thê thảm. Nhìn biểu hiện trên chiến trường của thú trấn mộ đã chứng minh sở thích hành hạ đến chết của nó, hễ chỗ nó chạm đến là tứ chi tàn khuyết. Lần này để Thập Giác Thất Đầu chạy trốn, tương lai ắt là họa lớn. Thập Giác Thất Đầu đang ở đâu? Bệnh viện dã chiến ở pháo đài Ngô Tùng, Tiến sĩ Karl Hofertein vẫn nhớ mãi không quên thú cưng to lớn của mình, cũng chính là thú trấn mộ. Niệm tình ông ta từng là cộng sự của cha, Tần Bắc Dương thật sự tán gẫu với ông ta, thậm chí nói vài câu tiếng Đức, là kiến thức học được từ trước năm chín tuổi, vẫn nhớ mãi không quên. Ngồi trên đùi Cóc Vàng bị gãy, loay hoay lưỡi bay mất lò xo co dãn, Tiến sĩ Karl Hofertein châm một điếu thuốc, nhìn Tần Bắc Dương: “Tại sao cậu biết tiếng mẹ đẻ của tôi là tiếng Đức?” “Karl Hofertein chẳng phải là cái tên tiếng Đức tiêu chuẩn còn gì?” “JA.” Ông ta nói “phải” bằng tiếng Đức, lại lắc đầu: “Nhưng tôi không phải người Đức, tôi sinh ra tại khu người Đức ở Thụy Sĩ, từng sống ở rất nhiều nơi trên thế giới. Tôi thường xuyên không biết bản thân thuộc quốc gia nào? Tôi sống ở Trung Quốc 10 năm, có lúc tôi thậm chí cảm thấy mình là người Trung Quốc!” Những lời này làm lòng Tần Bắc Dương nảy sinh cảm giác thân thiết, liền hỏi bằng tiếng Đức: “Tiến sĩ, ông có thể giải thích thú trấn mộ từ góc độ khoa học không?” “Khoa học mà tôi tin tưởng là ma pháp, thuật luyện kim và khoa học hơi nước, không được giới khoa học chủ lưu của châu Âu tiếp nhận. Chính vì thế tôi mới say mê thú trấn mộ.” Tiến sĩ bóp tắt đầu lọc, vuốt đôi mắt thú trấn mộ Cóc Vàng: “Tôi tin tưởng, trong thân thể thú trấn mộ cất giấu sức mạnh thay đổi thế giới.” Nghe đến đây, Tần Bắc Dương lại cảm thấy máu trong cơ thể sôi sục lên. Đi ra pháo đài, các binh sĩ thu dọn chiến trường, vận chuyển di hài người chết trận. Thời tiết rét lạnh, mưa đông tưới lên máu tươi, chậm rãi hoà tan bộ phận cơ thể người. Cửu Sắc núp bên chân Tần Bắc Dương, nhìn thấy vô số hồn phách khóc lóc bay lên trời… Thiên Tân gửi tin tức, Đốc quân mười ba tỉnh họp bàn, Trực hệ Hoàn hệ nắm tay giảng hòa, Thượng Hải trả về Đốc quân Chiết Giang. Vương Sỹ Trân sắp thành lại bại. Hơn mười ngàn binh lính chôn thây cửa Ngô Tùng, chết hoàn toàn vô nghĩa, tuyệt đối không đáng. Sáng sớm, đại quân xuất phát về Bắc, đội quân nhạc diễn tấu quốc ca Trung Hoa Dân quốc. “Rồng Bắc Dương” hạ lệnh bắn mười hai phát pháo vang, tế bái vong hồn. Tề Viễn Sơn cưỡi ngựa trắng dẫn đầu, uy phong lẫm liệt hỗ trợ Thủ tướng Quốc vụ kiêm Tư lệnh Lục quân. Giữa đội ngũ có chiếc xe ngựa chứa thú trấn mộ tách thành nhiều mảnh, Tiến sĩ Karl Hofertein tinh thần sa sút ngồi phía trên. Tần Bắc Dương cuốc bộ cuối cùng đội ngũ, lưng đeo Đường đao cha tặng, áp tải đội xe chất đầy thương binh hấp hối. Cửu Sắc không ngừng ngoái lại nhìn về phía Thượng Hải… Một đôi mắt lưu ly từ sau lưng chăm chú nhìn cậu và nó. Trên đồng ruộng là vô số nghĩa địa chôn binh lính, song song đứng bốn nam nữ: Âu Dương Anna, A U, Diệp Khắc Nan, Haneda Taiki, xa xa đưa tiễn Tần Bắc Dương, Tề Viễn Sơn và Cửu Sắc. Anna và Cửu Sắc có đôi mắt cùng màu, thỉnh thoảng cô đối diện với ấu thú, cũng không phân biệt nổi đối phương. Gió mùa đông âm thầm thổi tới làm hoa lau rơi như bông tuyết, thổi rơi nước mắt thiếu nữ, tí tách, ngâm ướt chiếc nhẫn ngọc trên ngón tay bên trái. A U đưa cho cô một chiếc khăn tay. Âu Dương Anna mười bảy tuổi, không biết dựa vào đâu, chỉ có thể ôm cô bé mười bốn tuổi bật khóc… Diệp Khắc Nan chạm vào chiếc vỏ da trong tay áo, cất giấu hung khí án diệt môn Thiên Tân Tô giới tám năm về trước, con dao ngà voi khảm trai, in họa tiết sao chổi đụng trăng. Cách đó một cây số, bên dòng Trường Giang, lau sậy khô vàng vô tận, che giấu gương mặt ba gã đàn ông. Bọn họ đều còn trẻ. Kẻ đầu tiên bên má phải có vết sẹo như con rết, kẻ thứ hai cánh tay bị thương đeo băng vải, kẻ thứ ba đeo mặt nạ quỷ. Trong tay áo mỗi kẻ đều giấu một thanh dao găm ngà voi. Ba thích khách đồng loạt dõi mắt nhìn Tần Bắc Dương và Cửu Sắc đi xa. Tối qua, bọn họ điều khiển tàu thủy nhà Haneda, bí mật đổ bộ lên duyên hải Xuyên Sa, cưỡi ngựa cả đêm phi hơn mười dặm, vượt qua sông Hoàng Phố vào cửa Ngô Tùng. Khóm lau sậy thêm gã thứ tư, một ông già hơn năm mươi tuổi, mép để chòm râu đen nhánh, ánh mắt như chim ưng nhìn đại quân Bắc tiến. Thích khách già nói với thích khách trẻ có sẹo: “A Hải, có tin tức mới không?” “A U nói, quan tài tiểu Hoàng tử ở Bắc Kinh.” Bắc Kinh! Bắc Kinh! _________ Chú thích: (1) Lần lượt là dấu hiệu trước khi bốn thích khách nổi tiếng lịch sử thực hiện ám sát: Chuyên Chư ám sát Ngô Vương Liêu, Nhiếp Chính ám sát Hàn Khôi, Yếu Li ám sát Khánh Kị, Kinh Kha ám sát Tần Vương. (2) Phi tướng quân: Biệt danh của Lý Quảng, võ tướng thời nhà Hán, nổi tiếng với biệt tài cưỡi ngựa bắn cung. (3) Phương thức mài đao bằng cách đun nóng, rèn, lặp đi lặp lại vô số lần.