← Quay lại trang sách

Chương 4 Cướp băng tuyết

Bắc Kinh! Bắc Kinh!Tháng 12, Giang Nam lạnh xuyên cốt tủy. Bầu trời cao, mây nhạt, nhạn Siberia từ phương Bắc bay về phương Nam. Tề Viễn Sơn xuống ngựa đứng lên gò cao, giơ súng trường ngắm bắn, vậy mà bắn hạ một con thiên nga trắng to. “Rồng Bắc Dương” Vương Sỹ Trân coi là điềm lành, hạ lệnh đại quân dựng trại đóng quân, nấu nồi canh thiên nga chia nhau ăn. Nghe nói khi thiên nga nhừ trong nồi, khóe mắt chảy ra nước mắt công chúa. Mọi người đùa giỡn thú trấn mộ Cóc Vàng, trêu rằng con cóc này muốn ăn thịt thiên nga, đáng tiếc bị chết không phải lúc. Có người ném cho Cửu Sắc một miếng thịt ngỗng, nhưng con “chó to” này ghét bỏ né tránh. Mọi người chỉ biết nó đi theo Tần Bắc Dương, là giống lai giữa chó ngao Tây Tạng và chó chăn cừu Đức. Còn thứ đánh bại thú trấn mộ bảy đầu mười sừng và Cóc Vàng, nghe đồn là vũ khí bí mật mà quân đội Tô giới Anh đóng tại Thượng Hải cho quân phiệt Trực hệ mượn, đánh xong trận liền mang về châu Âu đánh tiếp người Đức – tất cả đều là thuật che mắt mà Tần Bắc Dương tạo ra. Cánh đồng Giang Nam, Cửu Sắc khi thì trầm lắng đau buồn tựa như thần thú thánh hiền, khi thì vui sướng hoạt bát như mèo con chó con mới lớn. Tần Bắc Dương nhìn đôi mắt lưu ly của nó, nghĩ đến sừng hươu giấu trong bộ lông màu đỏ, buột miệng thốt “Kinh thi – Lộc minh”: “Con hươu nọ oang oang tiếng nói, ăn cỏ bình đồng nội xanh tươi. Ta nay khách tốt lắm người, đánh đàn thổi sáo vui chơi tưng bừng. Kèn sáo thổi vang lừng rộn rịp, rổ lụa hàng bưng kíp tặng trao. Những ai yêu mến ta đâu, chỉ cho ta biết nẻo nào thênh thang.” (1) Cửu Sắc chắc chắn nghe hiểu, trí lực của nó không thua kém loài người, có lẽ vì ăn linh thạch của thú trấn mộ ác long trên núi Đạt Ma chăng? Từ Thượng Hải đến Bắc Kinh, đi rồi lại ngừng. Đội xe bệnh viện dã chiến không ngừng có người bị thương nặng kêu rên chết đi. Mỗi lần như vậy, Tần Bắc Dương đều sẽ làm bạn với thương binh đến thời khắc cuối cùng, tự tay đào phần mộ, điêu khắc bia mộ, chôn tại chỗ – đây là nghề cũ của cậu. Sau đó, Cửu Sắc sẽ kêu rên giống tiếng hươu, âm thanh văng vẳng lan xa giữa mùa đông, người nghe đều lộ vẻ xúc động. Đi tới bến phà Nam Kinh, Thủ tướng Quốc vụ kiêm Tư lệnh lục quân Vương Sỹ Trân phát biểu với các tướng sĩ sư đoàn thứ sáu quân Bắc Dương rằng, quân Bắc Dương từ trước đến nay có lịch sử luyện binh quang vinh, tái tạo Trung Hoa hùng mạnh, quả thực xứng đáng sánh vai Dương gia quân, Nhạc gia quân, Hàn gia quân, Thích gia quân. Tần Bắc Dương thầm coi thường, nhóm binh lính thương tích đầy người này khi nào có công lao sự nghiệp vĩ đại như bậc cha chú? Đoàn người cuồn cuộn ngược Trường Giang về phương Bắc. Tề Viễn Sơn mặc đồng phục sĩ quan Bắc Dương, ở trong quân đội cũ của cha, có thể nói áo gấm về làng. Nhớ lại nửa năm trước, vì tránh loạn Trương Huân phục hồi nhà Thanh, cậu và Tần Bắc Dương chạy trối chết về phương Nam, thần hồn nát thần tính, trông gà hóa cuốc, sau đó xảy ra bao nhiêu sự việc ly kỳ. Cậu ngồi bên mạn thuyền gõ nhịp hát vang, lại có khí thế Nam Tống phạt Bắc thu hồi giang sơn, hoàn toàn quên đội quân này xuôi Nam chịu chết vô nghĩa, lại bị giao dịch dơ bẩn chạy về phía Bắc. Qua Phổ Khẩu, đại quân men Tân Phổ lên Bắc. Có lúc ngồi xe lửa, có lúc gian nan đi bộ, đi ba ngày bốn đêm. Ngồi trên toa xe lửa kín mít, Tần Bắc Dương nghe tiếng đường ray, thả hồn nghĩ về Âu Dương Anna, nghĩ về mục tiêu lên phía Bắc lần này, cũng là mối bận tâm nhất của Cửu Sắc – quan tài tiểu Hoàng tử triều Đường. Đoàn tàu hơi nước quân dụng mười tám toa tiến vào căn cứ Nam Uyển hôm đó, tuyết bay li ti dày đặc. Có ba nhánh đường sắt xâm nhập Nam Uyển, tiện cho chính phủ Bắc Dương vận chuyển quân đội, hướng Đông đến quan ngoại Phụng Thiên, phía Đông Nam đến Đường Cô Thiên Tân, Tây Nam là cầu Lư Câu đến Hán Khẩu. Đúng 20 năm sau, biến cố cầu Lư Câu 77, Nam Uyển lại bùng nổ huyết chiến Trung Nhật, tạm gác lại không bàn sâu. Tần Bắc Dương ở toa xe cuối cùng, dìu nhóm thương binh xuống, một lần nữa đặt chân lên đất Bắc Kinh. Cậu nhìn thấy không trung màu xám chì, ống khói xưởng quân giới chen chúc, phi cơ hàng hiệu cưỡng chế cất cánh giữa màn tuyết, lộn nhào bay qua tầng trời thấp. Sư đoàn thứ sáu Bắc Dương tiếp quản cả Nam Uyển, nhưng phát hiện khắp nơi đầy vết đạn, trên tường còn có vài vệt máu… Tiến sĩ dự cảm bất ổn, thở hồng hộc xông vào xưởng quân giới, bỗng thấy trống không, chỉ còn phế liệu và rác thải bừa bãi. Chính phủ Bắc Dương bỏ số tiền lớn mua thiết bị máy móc từ các cường quốc Anh, Đức, Áo, các loại vũ khí từ pháo cỡ lớn cho đến đạn súng trường, giờ đây đều không cánh mà bay! Tiến sĩ Karl Hofertein chán nản quỳ xuống đất, quản đốc ở lại giữ xưởng quân giới khóc lóc kể lể: “Tiến sĩ, rạng sáng nay có kẻ cướp bóc xưởng ta, lão Tần mới về từ Thượng Hải và thú trấn mộ của chúng ta đều bị chuyển lên quan ngoại.” “Ông nói cái gì? Cha tôi – Tần Hải Quan, ông ấy về rồi?” Tần Bắc Dương tóm cổ áo đối phương, quản đốc hoảng sợ gật đầu: “Phải, ông ấy vừa về hôm qua!” Hóa ra, cuộc chiến mấy hôm trước ở cửa Ngô Tùng, trước khi kho đạn dược trong pháo đài nổ tung mười phút, Tần Hải Quan và thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu được rút lui lên tàu chiến neo ở sông Hoàng Phố. Tướng quân Tiểu Từ gọi điện báo từ Thiên Tân tới, ra lệnh phải bảo vệ thú trấn mộ an toàn, không thể rơi vào tay Trực quân. Hôm qua, lão Tần ngồi tàu chiến xuống Thiên Tân, lại lên tàu quân dụng trở lại căn cứ Nam Uyển. Thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu cũng bị tháo dỡ đưa vào kho hàng xưởng quân giới. Đến nửa đêm, xưởng quân giới Nam Uyển vang tiếng xe nổ và tiếng còi hơi, sau đó là tiếng pháo quyết liệt. Nhánh đường sắt lên quan ngoại xuất hiện một chiếc xe lửa dài. Khác với xe vận tải và xe quân sự, trên đoàn tàu này đặt đại pháo và súng máy, còn có đại bác xoay ba trăm sáu mươi độ, giống như pháo đài di động liên tục, không ngừng bắn đạn. Vệ binh trong căn cứ trốn sau công sự, chiếu đèn pha nổ súng chống trả, nhưng căn bản vô tác dụng, hóa ra đụng vào đoàn tàu thiết giáp lừng danh. Một toán lính xuống tàu, đội mũ da lông, chân đi ủng to, mặc bộ đồ sĩ quan lông chồn che phủ toàn thân, đánh nhau như không cần mạng, được đoàn tàu thiết giáp yểm trợ, chỉ trong giây lát đã công chiếm căn cứ Nam Uyển. Bởi vì bộ đội chủ lực xuôi Nam, canh giữ căn cứ trống không, đành dựng thẳng cờ đầu hàng. Tất cả nhà xưởng bị cướp sạch không còn, binh lính mặc áo lông đều nói tiếng ngoài quan ngoại, đá văng kho hàng cuối cùng. Một nhóm áo lông đến rồi, mặc quân trang Nga Hoàng, đầu đội mũ Cossack, đều là lính đánh thuê Nga Trắng. Dẫn đầu là tướng quân Nga Trắng, phát hiện ra thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu ngay từ cái nhìn đầu tiên. Thú trấn mộ vẫn ngủ say, người Nga Trắng tặc lưỡi thán phục, thành kính vỗ về mười cái sừng, bảy cái đầu và cả lưỡi dao sắc bén, rất nhiều người quỳ xuống ra dấu chữ thập, cầu nguyện bằng tiếng Nga. Có người tuyên đọc khẩu lệnh của Trương đại soái Phụng Thiên, tuyên bố trưng dụng vật tư xưởng quân giới Nam Uyển, trong danh sách bao gồm vũ khí bí mật của chính phủ Bắc Dương: thú trấn mộ Thập Giác Thất Đầu và thợ cơ khí đứng đầu xưởng Tần Hải Quan. Trước khi bình minh lên, lão Tần và Thập Giác Thất Đầu bị nhét vào đoàn tàu thiết giáp, rời căn cứ Nam Uyển đi về hướng Đông… Mười tiếng sau, Tần Bắc Dương bước vào xưởng quân giới Nam Uyển, hai cha con một lần nữa lướt qua nhau. _______ Chú thích: (1) Trích Kinh thi – Lộc minh, bản dịch của Tạ Quang Phát (thivien)