Chương 6 Lũng Tây đường
Nội thành Bắc Kinh có chín cổng: Triêu Dương môn, Sùng Văn môn, Chính Dương môn, Tuyên Võ môn, Phụ Thành môn, Đức Thắng môn, An Định môn, Đông Trực môn, Tây Trực môn. Đức Thắng môn ở Tây Bắc, thuộc chòm Huyền Vũ, chủ chính binh. Vĩnh Lạc Đại đế thân chinh Mạc Bắc, Khang Hy Đại đế bình định Cát Nhĩ Đan đều khởi hành từ Đức Thắng môn, sau đó khải hoàn hồi triều qua An Định môn, ám chỉ việc mở cờ là thắng, thái bình an yênTrong Đức Thắng môn là đường cái, có đôi sư tử đá đối diện nhau trấn cổng lớn, trên tấm biển là ba chữ vàng – Lũng Tây đường. Thương gia đồ cổ họ Lý tên Bác Thông, thấy người sang bắt quàng làm họ, tự xưng là đời sau của Hoàng thất Lý Đường, lấy Lũng Tây Thành Kỷ làm quận vọng (1). Cửa đại trạch có bức bình phong viết bốn chữ “Kim Thạch thế gia”, phòng khách treo tranh Lưu Dung và Kỷ Hiểu Lam, bày đồ nội thất gỗ sưa triều Minh, tứ tất bình (2) mạ vàng lấy từ Vương phủ Cung đình triều Thanh, sứ Thanh Hoa năm Tuyên Đức nhà Minh. Hai bên sương phòng có thương khố (3): phía Tây đặt các vật lớn như đỉnh đồng An Dương vừa đào lên, tượng Phật từ hang đá Vân Cương tỉnh Đại Đồng; phía Đông để các vật nhỏ, từ lọ thuốc hít của Càn Long đến món cao cổ ngọc (4), từ ngà voi chạm trổ ngự dụng đến đồng ngũ thù (5) thời Tây Hán. Khi mới vào đây, những món đồ này hầu hết đều trông bẩn thỉu dập vỡ, phải sửa chữa kĩ càng mới bán được, giá cả tăng gấp mấy lần. Tần Bắc Dương thay đồ thợ thủ công, giấu Đường đao trong miếu thổ địa đầm Tích Thủy, đổi tên thành Lý Long Đễ – chỉ khác Quận vương Chung Nam cháu Võ Tắc Thiên Lý Long Kỳ một chữ. Theo quy tắc trước đây, quản gia cho cậu một món đồ gốm của đại sư Trình Môn, đơn giản để kiểm tra tay nghề. Trình Môn có ba kiệt tác thi thư và hội họa, sau khi ông về cõi tiên thì giá cả chúng đều tăng vọt. Bình sứ sơn nông (6) này là tác phẩm thời niên thiếu của ông, tên “Ngô đồng giải nhiệt”, vẽ một ông cụ cầm quạt hương bồ ngồi dưới bóng cây hóng mát. Tiếc là chiếc bình bị va đập, nứt thành một đường dài, chỉ còn là phế phẩm. Mấy năm trước, khi còn ở thôn Lạc Đà – Kinh Giao, Tần Bắc Dương đã học cách sửa đồ gốm sứ với cha mình, tục gọi là “tiểu lô tượng”. Cậu quẩy quang gánh, một đầu gánh lò nung, đầu còn lại là công cụ và tài liệu, cứ thế đi khắp hang cùng ngõ hẻm mà rao “Sửa chậu, sửa bát đây…” Cậu lấy dây buộc chặt món đồ sứ, đục lỗ hai bên, giữ chặt ống khoan, kéo thành đường cong nhỏ, đóng đinh vào lỗ, gõ cho chắc sau đó bôi bột gạo nếp và keo xương lên. Đinh lún xuống nhưng không xuyên vào trong lòng món đồ, nhìn trong lòng không thấy vết đinh, rất cẩn thận. Thời ở Di Hòa viên, lão Tần học được của ông thợ thủ công phủ Nội vụ. Theo tư liệu nghiên cứu của Lũng Tây đường, sửa đồ gốm sứ phải dùng đinh đồng. Tần Bắc Dương sửa món đồ rất đẹp, cả đinh cũng được trang trí. Tựa như có người cố tình làm vỡ ấm tử sa, mời thợ thủ công đến sửa sang tô điểm, giống kiểu vá bộ đồ tây bị rách vậy, thật đặc sắc. Chiếc bình sứ hoa văn sơn nông này của Trình Môn được sửa xong có giá thị trường ít nhất phải năm trăm đồng đại dương, cao hơn giá mua vào không chỉ mười lần! Hôm đó, chủ nhân Lũng Tây đường triệu kiến Tần Bắc Dương. “Lý Long Đễ? Tên cũng không tệ, cũng tương đương với tên Đường Minh Hoàng Lý Long Cơ” Lý Bác Thông đã hơn năm mươi tuổi, đội mũ quả dưa khảm phỉ thúy, khoác áo tơ lụa. Là kẻ già dặn, ông ta rất chú ý đến Cửu Sắc sau lưng Tần Bắc Dương, “Con chó to này lạ lắm” “Con chó này và tôi sống nương tựa lẫn nhau, xin phép được mang theo. Nó còn có thể trông nhà cho quý phủ” Cửu Sắc nghe chủ nhân nói, lập tức tỏ vẻ khí phách hiên ngang oai vệ, nhìn qua còn tưởng con chó ngao bách chiến bách thắng, ai nấy đều phải lùi lại. Lý Bác Thông nghĩ tòa nhà này nhiều đồ cổ thu hút bọn giặc cướp, thế là sai thêm Tần Bắc Dương làm việc dẫn chó hàng đêm đi tuần tra. Tần Bắc Dương dùng tên giả Lý Long Đễ ở Lũng Tây đường, sống chung với các thợ thủ công khác trong sương phòng. Cửu Sắc không thể vào phòng, đóng vai chó giữ nhà ở trong ổ chó. Chó lão đại không vui nhưng đành phải chấp nhận. Đại trạch này vốn của một nhà quyền cao chức trọng người Mãn Thanh, tiền hậu tam tiến, sân sau mới sửa vài nhà kho. Tầng hầm có hàng giả do thợ thủ công chế tạo. Bảy tám chiếc gương Bác Cục to đùng làm nhái mới toanh, đồ liệm thời Tây Hán, đồ đồng thời Tống, chén ngọc Càn Long… Từ xưa đến nay, Trung Quốc có truyền thống làm đồ giả. Mấy bức tranh nhái thời Tống Nguyên sản xuất dưới triều Minh giờ cũng thành báu vật. Chẳng trách Lũng Tây đường vàng vào như nước, không chừng hơn nửa số hàng giả lưu thông qua các xưởng ngọc lưu ly đều bắt nguồn từ đây. Không biết quan tài tiểu Hoàng tử được giấu ở đâu? Tần Bắc Dương và các thợ mộc uống rượu trò chuyện, biết được rằng hai tháng trước, một “kiện hàng lớn” được chuyển đến từ Thiểm Tây, nhìn như cung điện cho người chết – quan tài của Hoàng đế. Nhưng đêm khuya thanh vắng, chẳng ai nhìn rõ xem quan tài được giấu chỗ nào? Cậu quan sát Cửu Sắc cả ngày lẫn đêm, phát hiện ra con thú trấn mộ này cũng không phấn khích. Nếu quan tài tiểu Hoàng tử triều Đường thực sự ở Lũng Tây đường hẻo lánh này, có phải đào sâu ba thước Cửu Sắc cũng làm. Chẳng nhẽ đã bị chuyển đi rồi? Một ngày nọ, Lý Bác Thông sai cậu sửa một loạt món đồ cổ mới nhập, là mô hình kiến trúc nhà cửa, “năng dạng” của “Dạng Thức Lôi” của kiến trúc sư Hoàng gia triều Thanh. Đây như đất nước của người tí hon: Viên Minh viên, Di Hòa viên, Bắc Hải, Trung Nam Hải, Tử Cấm Thành, Đông lăng Tây lăng, tất cả nằm gọn trong một tấc vuông. Tần Bắc Dương xem mà choáng váng. Đại điện bị liên quân Anh – Pháp thiêu hủy, các cảnh “Thượng Hạ Thiên Quang”, “Hỉ Vũ Sơn Phòng”, “Yên Vũ Lâu Đẳng” (7)… khởi tử hoàn sinh, phượng Hoàng niết bàn trong chính mô hình “năng dạng” này. Mở nóc nhà mô hình ra là thấy bên trong cung điện, dầm nhà và lớp sơn bên trong hiên, sống động hệt như tuyệt kĩ “vẽ bên trong lọ thuốc hít” (8). Bảo đỉnh và điện Lăng Ân ở Tây lăng đưa cậu trở về thời thơ ấu, núi Vĩnh Ninh và sông Dịch uốn quanh, ngàn vạn mẫu rừng tùng bách gào thét theo đợt gió… Nhớ năm đó, gia tộc “Dạng Thức Lôi” vẽ giấy trước sau đó chế tạo mô hình nhỏ. Sau khi Hoàng đế ngự lãm, phê chuẩn mới động thổ xây dựng. Năng dạng được làm từ giấy nguyên thư, giấy Cao Li, gỗ hồng tùng (9), dùng keo nước làm chất kết dính. Năng dạng nằm trong thương khố đã trăm năm, hỏng hóc ít nhiều. Dùng phương pháp “khôi tác” để sửa nóc nhà, lấy bùn vàng đắp khuôn, dán giấy Cao Li bằng keo, thêm hai lớp giấy gai, tiếp đó là hai lớp giấy bản bôi keo nước, hơ khô. Xuyên suốt triều Thanh cũ, nhắc đến xây dựng lăng mộ không thể thiếu ba gia tộc lớn: con cháu Lý Thuần Phong – phong thủy phân kim điểm huyệt, gia tộc “Dạng Thức Lôi” thiết kế kiến trúc, còn có họ Tần làm nghề thợ thủ công – chế tạo thú trấn mộ. Nghe đồn nhà họ Lý đã tuyệt tự, tuyệt học “thôi bối đồ” bị thất truyền. Kỹ thuật “dạng thức lôi” của kiến trúc sư Hoàng gia không được truyền ra ngoài. Thấy được phòng “năng dạng” này thật quá vui. Tần Bắc Dương mở to mắt, cố gắng ghi nhớ dạng thức của kiến trúc này, từ trong ra ngoài: một dầm một trụ, một cửa sổ một cây, như đang quay phim chụp ảnh. Trong tâm trí, cậu phác họa các bản vẽ với nhiều kích thước khác nhau, xây dựng từ Tam Đại Điện Cố Cung, đình đài lầu các trong ba vườn Viên Minh, Địa An Môn và Cổ Lâu, cả cấu tạo và hình dáng lăng mộ ở Đông lăng Tây lăng. Sau đó, cậu gần như thức trắng bảy ngày bảy đêm để sửa chữa căn phòng “năng dạng” này. Không biết là có nắm được tuyệt học “Dạng Thức Lôi” không, nhưng khi dựng lại mô hình nhỏ này, cậu đã học được hơn phân nửa. Tần Bắc Dương lại bỏ ra bảy ngày bảy đêm để dựng lại mô hình Tử Cấm Thành và Viên Minh Viên theo đúng nguyên mẫu. Tự học Dạng Thức Lôi, không biết có làm được không? Vậy thì tuyệt học của Lý Thuần Phong là gì? Tết Âm lịch Mậu Ngọ đến thật nhanh. Tần Bắc Dương nằm vùng ở Lũng Tây đường qua năm dân quốc thứ sáu đầy sóng to gió lớn, lịch Tây 1917, bước vào năm dân quốc thứ bảy tuyệt vời, lịch Tây 1918. Tiểu niên (10), Bắc Kinh hai mươi ba tháng Chạp, Lũng Tây đường nhận một đợt hàng mới. Tần Bắc Dương và tiểu nhị cùng nhau vận chuyển. Dù ngày đông rét nhưng hàng nhiều, người đồ mổ hôi đầm đìa. Cậu cởi áo khoác bông, chỉ mặc một cái áo cộc tay. Đường chủ Lý Bác Thông đang chỉ huy vận chuyển tự dưng thấy viên huyết ngọc ấm Hòa Điền trên ngực Tần Bắc Dương, lập tức gọi cậu vào phòng Thương gia đồ cổ đốt đèn, lấy kính lúp soi kĩ càng, vỗ án thắc mắc, “Hóa ra là hàng thật! Ngươi lấy nó ở đâu?” Tần Bắc Dương cảm thấy hối hận, đáng ra phải giấu dây ngọc này cho kĩ, sao lại để Lý Bác Thông nhìn thấy? “Thưa chưởng quỹ, đây là món đồ gia truyền, tôi vừa ra đời đã được đeo nó” Tất cả bảo bối ra vào Lũng Tây đường, kể cả hàng giả và phế phẩm, Lý Bác Thông đều nhớ rõ, hoàn toàn không có viên huyết ngọc ấm Hòa Điền nào thế này, ít nhất cũng không phải do anh bạn nhỏ “Lý Long Đễ” lấy trộm ở quý phủ. “Ngươi là hậu duệ nhà thợ thủ công mà nhỉ? Sao lại có món đồ gia truyền này?” “Chuyện này… thật ngại quá. Người ta nói không vạch áo cho người xem lưng, ngài muốn nghe thì tôi cũng đành…” Tần Bắc Dương không thể làm lộ ra ngôi mộ triều Đường ở Bạch Lộc Nguyên, bèn bịa chuyện, “Hồi ông tôi còn trẻ đã làm người ở tại Vương phủ trong Bắc Kinh, có tư tình với Trắc phúc tấn của Thân vương. Vị trắc phúc tấn mắc bệnh nặng, hồng nhan bạc mệnh, trước khi chết đã lén lút tặng viên huyết ngọc này cho ông” Tuy cậu là một kẻ suy nghĩ cố chấp khó thay đổi nhưng lại giỏi tưởng tượng từ bé, còn thích xem tiểu thuyết nghe bình thoại, bịa chuyện xưa hết sức chân thật. Lý Bác Thông nửa tin nửa ngờ, “May mà Đại Thanh đã mất, không thì chuyện trộm cắp xấu xa này truyền ra, cả nhà ngươi không thể thoát tội mất đầu! Ngươi có biết lai lịch viên huyết ngọc này không?” Đối với câu hỏi của chủ nhân Lũng Tây đường, Tần Bắc Dương chỉ đành giả ngu, “Ông nội tôi không nói nhiều. Chưởng quỹ, ngài là người am hiểu đồ cổ, có thể chỉ điểm cho tôi được không?” Lý Bác Thông là kẻ sĩ hão, cười phá lên rồi huênh hoang đứng dậy, “Biết ngọc thấm không?” “Có biết qua qua…” “Là viên ngọc thấm màu, vừa như tơ tằm vừa giống sợi bông. Màu vàng là do đất, màu trắng là do nước, màu xanh lá là do đồng, màu đen do thủy ngân, màu tía là màu máu! Màu tía còn gọi là huyết cổ, phần nhiều là đồ chôn theo cổ mộ, ngọc ở xác người, dịch màu, thuốc màu, vôi, sơn đỏ, đồ gỗ, đất đai, lâu ngày biến thành màu đỏ. Đỏ của táo hay vết bớt thẫm cũng phải hơn bảy trăm năm” Tần Bắc Dương biết khơi gợi hứng thú của Lý Bác Thông, thức thời hỏi tiếp, “Theo ngài thì viên ngọc này của tôi đã bao nhiêu năm rồi?” “Viên huyết ngọc này không bình thường, theo ta cũng phải ngàn năm! Huyết thấm trong này cũng không dính tạp chất, chỉ là máu đồng tử” “Máu đồng tử?” Cha cậu từng nói, có những thầy phong thủy hoặc đạo sĩ thích dùng máu đồng tử để trừ tà tránh nạn. Đồng tử chưa tiết dương tinh, có thể nói là thuần dương chí cương. Nông thôn còn lưu truyền rằng nếu tìm được tám đồng tử nam chôn theo quan tài thì là may mắn nhất. Trong phúc chốc, Tần Bắc Dương nghĩ đến gương mặt mình, không, là gương mặt tiểu Hoàng tử thời Đường đã khuất. “Lý Long Đễ, ta muốn mua viên ngọc này, ngươi ra giá đi?” Lời này của chủ nhân Lũng Tây đường làm Tần Bắc Dương bất ngờ. Đầu cậu lạnh toát, cố suy nghĩ, “Chưởng quỹ, đây là đồ gia truyền từ nhỏ, không thể bán cho người khác. Tôi còn muốn đặt nó dưới quan tài của ông mình” “Hừ! Phung phí của trời! Cho thể diện mà cũng không lấy!” Lý Bác Thông vỗ bàn ầm một tiếng khiến Tần Bắc Dương liên tưởng đến Âu Dương Tư Thông tại “Núi Đạt Ma trên biển”. “Xin hãy thứ lỗi tôi không thể tuân lời!” “500 đồng bạc được không? Nếu ngươi đồng ý, ta sẽ bảo phòng thu chi lấy tiền, tay giao tiền tay giao hàng. Ngươi có thể mua một tứ hợp viện trong thành Bắc Kinh!” “Chưởng quỹ…” Tần Bắc Dương thầm nghĩ không thể tiếp tục chờ ở đây nữa rồi, phải chuẩn bị chạy trốn kẻo Lý Bác Thông không mua được lại ra tay cứng rắn cướp đoạt. Đám người này coi trời bằng vung. Đột nhiên bên ngoài có tiếng thông báo khách quí đến thăm. Lý Bác Thông tái mặt, “Lý Long Đễ, sáng mai hãy trả lời! Tự lo cho tốt!” Tần Bắc Dương che viên huyết ngọc ấm Hòa Điền trên ngực, khúm núm lui ra ngoài, đúng lúc liếc thấy vị khách đến. Người này nhìn quen quen: đàn ông trung niên bốn mươi tuổi, khoác áo trường sam, kiểu cách của quý tộc lụn bại trong Kinh thành. Tần Bắc Dương nhận ra gương mặt này. Hai năm trước, Nguyên đán năm Dân quốc thứ năm, lúc Viên Thế Khải vừa xưng đế, có người tới thôn Lạc Đà ở Kinh Giao, kéo theo một xe quan tài, nói dối là con Thượng thư, thuê cha con nhà họ Tần tìm kiếm huyệt mộ quanh vùng chùa Bích Vân ở Hương Sơn. Đêm tuyết Hương Sơn, hai tên thích khách lao ra khỏi quan tài, suýt thì giết chết Tần Bắc Dương. Cũng chính gương mặt này, lúc đó chuồn mất, giờ lại xuất hiện ở Lũng Tây đường, chắc chắn có vấn đề! “Khách quý” tới chơi nói rằng gia cảnh sa sút, phải bán bảo bối gia truyền để lấy tiền mặt. Hắn mở một rương gỗ, lộ ra bức tượng Phật bằng gỗ điêu khắc lộng lẫy. “Món đồ đẹp đẽ, pháp tướng trang nghiêm, liệu có phải bảo vật nhà Liêu? Nhìn giống thật quá” Lý Bác Thông có mắt phân biệt thật giả rất chuẩn. Khách đến gật đầu, “Lão gia Lý lợi hại! Cha tôi nói vẻ ngoài của bức tượng Phật này được điêu khắc dựa trên nguyên mẫu Thái hậu Tiêu Yến Yến của nước Liêu” Lý Bác Thông không nhịn được mà chạm lên môi tượng Phật, nhận ra ba ngón tay được sửa lại. Ông ta rất thích bảo vật, mua luôn với giá nghìn đồng đại dương. Tần Bắc Dương không thể đánh rắn động cỏ, càng không thể để đối phương phát hiện ra mặt mình, trốn ra phòng sau quan sát. Bức tượng khắc gỗ thời Liêu này chính là đồ cổ bị trộm từ “Núi Đạt Ma trên biển” hai tháng trước, vốn là đồ Âu Dương Tư Thông cất giữ. Ba ngón tay kia là tự tay cậu sửa. Kẻ này vật này chắc chắn có liên quan đến thích khách, e là lại đến vì quan tài của tiểu Hoàng tử triều Đường? Vị khách không mời mà đến nhận nghìn đồng đại dương rồi rời đi. Tần Bắc Dương lặng lẽ đi theo, muốn quan sát xem hắn ở đâu? Hoặc có thể tranh thủ cơ hội, bí mật bắt hắn thẩm vấn. Chẳng ngờ, vào trong động tử chỗ Đức Thắng Môn, một chiếc ô tô nhỏ chạy như bay đâm thẳng vào kẻ đó. Máu bắn lên trời, dân buôn bán, người đi đường hét toáng lên vội vàng tránh đi. Chiếc xe gây chuyện cũng biến mất không tăm hơi. Rõ ràng là âm mưu giết người được ngụy trang thành việc đâm xe gây chuyện rồi bỏ trốn. Đường cái không một bóng người, chỉ chờ cảnh sát đến xử lý. Tần Bắc Dương ngồi xổm xuống, phát hiện ra đối phương còn thoi thóp. Câu ghé sát tai kẻ sắp chết, “Ai phái ngươi tới?” “Thái… Thái Bạch…” Chưa nói dứt câu, người nọ ho ra máu đen từ phổi, tắt thở. Tần Bắc Dương vuốt mắt người chết, nhìn về tòa lầu Đức Thắng Môn. Đêm nay chắc chắn sẽ có chuyện kinh khủng. Thái Bạch? ___________ Chú thích: (1) Quận vọng: “quận” + “danh gia vọng tộc”. Quận vọng là nơi danh môn vọng tộc sinh sống hoặc nguồn gốc của danh môn vọng tộc đó. (2) Tứ tất bình: là một phần đặc sắc và độc lập trong trường thiên “Địch Công án Đại Đường”. (3) Thương khố: kho hàng, nhà kho (4) Cao cổ ngọc: chủ yếu là ngọc do đế vương Hoàng gia hoặc quan lại, quý nhân dùng. Bắt đầu xuất hiện vào thời Tây Chu. (5) Đồng ngũ thù: đồng tiên cổ thời Tây Hán, nặng ngũ thù (khoảng 10-15gr), trên khắc hai chữ “ngũ thù”. (6) Sứ sơn nông: loại men mới được sáng tạo vào thời cuối nhà Thanh, kết hợp sứ và tranh, vốn là hai trong ba nàng thơ thư pháp, tranh, sách của Trung Quốc với kĩ thuật nung đặc biệt. (7) Tên các cảnh quan, kiến trúc cổ. (8) Lọ thuốc hít được vẽ bên trong là sản phẩm thủ công mĩ nghệ truyền thống đặc sắc của Trung Quốc với nhiều trường phái vẽ khác nhau. (9) Hồng tùng nay được biết đến với tên thông Triều Tiên. (10) Tiểu niên: năm tháng Chạp thiếu.