← Quay lại trang sách

Chương 64 Bắc Dương và Hikari lang thang

Đây là mệnh lệnh của Tần Bắc Dương, cũng là cơ hội sống sót duy nhất của bọn họTrái tim của yêu quái chảy máu màu xanh nhạt, dần dần ngập căn phòng. Gương mặt bà già lại trẻ trung, mái tóc đen nhánh phủ trên tatami, tản ra như cây anh túc đen thẫm. Những dây leo đang trói Tần Bắc Dương và Hikari cũng tự động rơi ra. Yêu quái chín trăm năm cuối cùng cũng trở lại thanh xuân – thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi, cười nhẹ nhàng tươi đẹp, đôi mắt lung linh ngóng trông từ thời Tần hơn hai nghìn năm trước, một trong ba nghìn đồng nam đồng nữ của Từ Phúc, kinh diễm không thể tả, khiến người ta nghẹn ngào. Hikari nhìn bà ta, dường như cũng đang nhìn chính mình những năm sau này. Thảo nào người có ý chí kiên định như đại nhân Abe no Seimei cũng không thể tiêu diệt con yêu nghìn năm này. Bọn họ yêu nhau đấy! Nhưng Onmyoji là người, người thì phải chết. Yêu quái thì lại già rất chậm, già đến còng gập người lại, bỏ qua thanh xuân mà già đi, chỉ vì một người mà trông mộ qua chín trăm năm đằng đẵng. Đây là sống không bằng chết. “Giải thoát cho bà ấy thôi!” Tần Bắc Dương ra lệnh. Cửu Sắc phun quả cầu lửa lưu ly đốt cháy yêu quái xinh đẹp thành tro bụi. Cậu biết, bà ta sẽ không oán cậu. Tay trái nắm Hikari, tay phải nắm Cửu Sắc, Tần Bắc Dương lao ra khỏi Viện bảo tàng Yêu quái. Từ biệt Kappa, Ubume, Daitengu, Tamamo-no-Mae, Shuten-dōji. Tuyết. Lại rơi. Đi qua mộ Abe no Seimei, cậu lại chắp tay vái lạy, Cửu Sắc trở thành con chó to. Trong chín trăm năm, vị Onmyoji vĩ đại đã cho phép Viện bảo tàng Yêu quái vẫn mở phía sau mình, có lẽ là điều một người dù không yêu vẫn còn chút tình nghĩa có thể làm! “Mong có trái tim một người, chung thủy đến đầu bạc răng long” Tần Bắc Dương đọc thơ Trác Văn Quân bằng tiếng Hán, đưa tiễn Abe no Seimei dưới lòng đất và đồng nữ nghìn tuổi. Hikari kéo áo cậu, “Anh nói tiếng Trung hay thật đấy! Thế mà em nghe không hiểu. Anh nói gì thế?” “Sau này anh từ từ dạy em! Em còn nhỏ mà sao biết bài hát từ thời Heian thế? Lần nào cũng là bài hát về cái chết này?” Hikari cúi đầu ủ ê, “Bởi vì đó là bài hát đưa tiễn người ra đi rất đau buồn, em sợ mình sẽ bị yêu quái thịt mất” “Không đâu, anh và Cửu Sắc sẽ bảo vệ em” Hikari ngồi xổm xuống nhìn thẳng vào đôi mắt lưu ly xanh biếc của Cửu Sắc, “Ta nói này, Cửu Sắc ơi, ngươi là thứ gì thế? Vừa rồi yêu quái bà già nói nó là… thú trấn mộ?” Tần Bắc Dương đành bịa chuyện Cửu Sắc là một loại chó thần ở Trung Quốc, có thể nhiều ngày không ăn, chỉ hít sương sớm lấy sức. “Anh định lừa trẻ con chắc?!” Hikari cười ha hả, quên luôn mình là trẻ con. Cô bé mở túi tiền bên người. Vẫn còn tập tiền mặt dày. Thời đó đồng yên có giá trị cao, Tần Bắc Dương nhắc nhở, “Nhiều tiền thế đừng để người khác thấy! Em chỉ là trẻ con, nguy hiểm lắm!” Đến phố mua sắm ở Kyoto, Hikari chọn bộ quần áo thủy thủ cộc tay trắng, váy đen ngắn, nhìn như đồng phục học sinh mùa hè. Tần Bắc Dương nói cô bé sẽ bị lạnh nên cô bé mua thêm áo choàng da dê, nhìn chẳng ra làm sao. Cô bé này lớn lên ở kỹ viện, cũng chẳng lạ gì. Ở quán mỳ Kyoto, Hikari ợ một cái hỏi, “Anh à, anh tên gì?” “Tần Bắc Dương” Cậu nhúng nước viết tên mình bằng đầu ngón tay. “Tần trong Tần Thủy Hoàng, Bắc trong phương Bắc, Dương trong đại dương – anh có tên thật êm tai” “Chữ nghĩa không tệ nhỉ” Cô bé mỉm cười xinh đẹp, “Anh ơi, đi tàu hỏa được không?” “Em muốn đi đâu?” “Không biết nữa” Tần Bắc Dương thầm kêu trong lòng: oan gia! Cậu dẫn cô bé và Cửu Sắc đi mua hai vé đi Himeji. Trên tàu, cô bé tựa đầu lên vai cậu ngủ ngon lành, chìm vào đêm tuyết tối mịt… Vào ngày 3 tháng Giêng, đi qua Osaka và Kobe, đến bờ biển Seto ở Himeji. Hikari kéo Tần Bắc Dương đến thẳng thành Himeji. Thành trì nguy nga với bức tường trắng và vô số mái phi điểu (1), được mệnh danh “Hakuro-jō”. (2) Theo truyền thuyết, Miyamoto Musashi thời niên thiếu từng bị giam ở tenshukaku (3) của thành Himeji. Ông bế quan tu lyện ba năm, đọc hết các tài liệu của Trung Hoa và Nhật Bản, sống một đời võ sĩ vĩ đại. Tần Bắc Dương nhìn đỉnh Tenshukaku, nhớ lại hồi bé bị giữ trong địa cung của Hoàng đế Quang Tự, chỉ có thể xem tư liệu văn chương toàn thiên hạ dưới ánh nến, có trải nghiệm tương tự với Miyamoto Musashi. Người ta một đời võ sĩ, còn mình là gì? Bọn họ ngồi tàu hỏa đi tuyến San’yō (4) về phía Tây, Hikari mua quần áo mới, đến quán ăn có rượu ngon nhất. Đến Shimonoseki, bọn họ ăn cá nóc trên tầng quán Shunbanrō, thưởng thức cảnh đẹp vô cùng của eo biển Kanmon. Tần Bắc Dương cố sống cố chết ăn xong món cá nóc mới biết nơi đây là nơi ký Hiệp ước Mã Quan (5), lập tức nôn thốc nôn tháo. Bọn họ vượt biển đến Kyuushu, đi qua khu nhà máy Yawata xây dựng từ tiền đền bù chiến tranh Giáp Ngọ, đến Hakata-ku thời xưa ở Fukuoka, Hikari sờ túi, “Em hết tiền rồi” “Anh đã bảo em phải tiêu tiết kiệm mà?” “Thế anh đánh em đi!” Cô bé giơ mặt ra để cậu đánh. Tần Bắc Dương chán ghét dẫn Cửu Sắc bỏ đi. “Ơ? Chờ em với?” “Mười năm trước anh từng cứu một cô bé, cô ấy cũng gọi anh là anh trai. Thế nhưng cô ấy vẫn lừa dối anh, phản bội anh. Em cũng như thế?” Tần Bắc Dương ôm Cửu Sắc, thầm nghĩ trên đời chẳng có bạn đồng hành nào đáng tin cậy hơn Cửu Sắc. “Không đâu, em thề” “Em đang nói dối! Nhà em không mở kỹ viện, hoàn cảnh nhà em không hề đơn giản” “Xin lỗi anh, em lừa anh” “Anh đúng là ngu, toàn bị con gái lừa! Em nói câu đầu đã là giả, bảo anh cõng em xuống núi cũng là giả, gặp cảnh sát bỏ trốn cũng là giả!” Cô bé tỏ vẻ tủi thân, “Nhưng cảnh sát tới bắt em thật mà. Bị họ bắt được thì đen lắm” “Cha em là ai?” “Em không muốn nói” “Anh đi đây, em tự lo đi,” Tần Bắc Dương đi chưa được mấy bước, Hikari đã khóc lóc sụt sùi, run rẩy kéo cậu. Cậu lại chẳng đành bỏ đi, quay đầu lau nước mũi cho cô bé, “Em muốn anh đi không?” “Ôi!” Cô bé nói không phải thế rồi bước đến bờ biển Fukuoka. Mùa đông Takashi, bờ cát đầy cây tùng, cạnh tường thành cổ là “mộ Mông Cổ”, chiến trường nơi quân Mông Cổ nhà Nguyên tấn công Nhật Bản. Đường chân trời bao la, nhìn không thấy bờ biển phía bên kia. Kyushu là cực Tây của Nhật Bản, chẳng lẽ giờ vượt biển đến Triều Tiên hay Trung Quốc? “Em muốn đến Beikoku!” Cô bé tùy hứng nói. Tần Bắc Dương cười ha hả. Người Nhật gọi nước Mỹ là “Beikoku”, nước Đức là “Doitsu”, Nga là “Roshia”… Hai người chuyển về hướng Nam, đi qua Nagasaki, Kumamoto đến Kagoshima, đến nơi ở trước đây của Saigō Takamori (6) rồi đi tàu thủy về hướng Đông. Bọn họ đi vòng qua phía Tây Nhật Bản trên biển. Tháng Hai đầu xuân, họ dừng chân ở Wakayama, thăm bán đảo Kii, ghé núi Kōya. Đến Nara, hai người một thú tận mắt thấy tượng sơn mài của hòa thượng Giám Chân tại chùa Tōshōdai; sau đó đến chùa Tōdai – ngôi chùa xây dựng từ gỗ lớn nhất thế giới, hiện thờ tượng Phật đúc đồng Roshana (7). Một đàn hươu sao chạy qua, vòng quanh Hikari. Cô bé thậm chí có thể gọi được tên của vài con. Cửu Sắc thích hươu nai, vươn đầu đến trước mũi hươu sao. Thú trấn mộ và hươu sao vừa thân thiện lại vừa lạ lẫm, có lẽ do kỳ lân có nét giống hươu nai. Hoàng hôn dần buông, họ đến phía Nam Nara, núi Yoshino nổi tiếng với anh đào nở mùa xuân. Tần Bắc Dương nhìn một nắm đất đắp cao, thật giống mộ hoang phương Bắc Trung Quốc, quy mô rất lớn, bốn phía được phủ đất sét. Mộ cổ Yoshino tiếng tăm lừng lẫy. Các thời Yayoi, Kofun (8), Asuka lần lượt tương ứng với thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Vương quyền Yamato thống nhất quần đảo Nhật Bản (9), tỉnh Nara là nước Yamato cổ, nơi Thiên hoàng Jimmu (10) đăng cơ, cội nguồn của dân tộc Yamato. Chưa rõ chủ nhân ngôi mộ cổ ở núi Yoshino. Có điều thành phố Sakai, tỉnh Osaka đang bảo tồn mộ của Thiên hoàng Nintoku, nghe nói là lăng mộ có diện tích lớn nhất thế giới, lớn hơn cả lăng mộ của Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc. Tần Bắc Dương nghe được giọng hát của nhiều người đàn ông, xa xa là các samurai Nhật được vũ trang đầy đủ, họ hát… “Gió Kỳ Sơn quét sạch hương thu nồng đượm Mây bay mờ mịt Ngũ Trượng Nguyên Màn sương mù dày hé lộ mây uốn lượn Chỉ cỏ khô là vỗ béo ngựa Cờ Thục ủ rũ Tiếng trống nhỏ nhoi Thương thay Thừa tướng đang bệnh nặng Nước sông Vị Hà sâu thăm thẳm Vô tình róc rách vọng tiếng thu Gió đêm quan ải nức nở khóc Hồng nhạn lạc lối đêm âm u Quân lệnh oai nghiêm như sương gió Dán trên tường phía ngoài doanh trại Thương thay Thừa tướng đang bệnh nặng…” “Sao rơi gió thu ở Ngũ Trượng Nguyên” của Bansui Doi. Tần Bắc Dương vừa học xong năm ba Đại học ở Kyoto, cũng học xong bài hát này theo các học trưởng. Bản trường ca phổ nhạc từ cổ huấn của thơ Hán, xoay quanh năm Gia Cát Lượng bị bệnh mất ở Ngũ Trượng Nguyên, Mai Hoa Gian Trúc xen kẽ ba lần đến mời, hỏa thiêu Xích Bích, ủy thác Bạch Đế, bảy lần bắt Mạnh Hoạch. Chẳng biết đầu chập mạch ở đâu mà Tần Bắc Dương lại cũng cất tiếng hát: “Ô hô thu Lệ (11) Ngũ Trượng Nguyên Nửa đêm cuồng phong khóc lối lạnh Thanh Hán sông ngân, sao đêm vời vợi Mênh mông huyền bí một màu thôi Khi trời đất mờ sáng, lòng chợt hoài cảm vô ngần, nghĩ về “vô tận” ngay trước mắt (…) Rồng ẩn chốn nhà tranh, bay lượn khắp bốn bể Rằng nghìn năm nữa, còn ai hiển hách như Gia Cát Lượng!” “Tần Bắc Dương?” Có người gọi tên cậu bằng tiếng Trung. Nhìn kỹ trong ánh hoàng hôn, hóa ra đó là mặt Tề Viễn Sơn. Nhưng điều khiến người ta ngạc nhiên hơn nữa là Tề Viễn Sơn lại đang đội mũ kê-pi đỏ vàng, đeo súng trường Shiki 38, mặc quân phục khaki của Nhật Bản. ______________ Chú thích: (1) Mái phi điểu: Mái nhà cong với tượng chim trang trí. (2) Thành cò trắng. (3) Tenshukaku (thiên thủ các) là từ tiếng Nhật để chỉ kiến trúc trong lâu đài Nhật. Nó là tòa tháp cao nhất trong thành. (4) Là tuyến tàu hỏa chạy dọc Kobe-Himeji. (5) Hiệp ước Mã Quan còn gọi là Hiệp ước Shimonoseki, được ký giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản ngày 17/4/1895. Hiệp ước này chấm dứt chiến tranh Giáp Ngọ, Trung Quốc phải cắt Đài Loan, Bành Hồ, bán đảo Liêu Đông cho đế quốc Nhật Bản. (6) Một trong những samurai có ảnh hưởng nhất trong lịch sử. (7) Còn gọi là “Đại Phật của vùng Nara”. Tōdai là một ngồi chùa có rất nhiều kiến trúc độc đáo. (8) Nguyên tác: Cổ Phần thời đại. Kofun = Cổ Phần. Kofun có nghĩa là mộ cổ trong tiếng Nhật. (9) Vương quyền Yamato là tổ chức chính trị, quyền lực chính trị được hình thành trên cơ sở liên minh giữa một số thị tộc có thế lực, đã nắm ngôi vua ở Yamato trong thời kỳ Kofun bắt đầu từ thế kỷ 3. (10) Thiên hoàng Jimmu là vị thiên hoàng đầu tiên của nước Nhật. (11) Lệ là Bỉ Kỳ Lệ trên sông Kỳ.