Chương 78 Ghi chép Thiên Sứ chìm tàu
Ba ngày sau, Tần Bắc Dương ôm bộ lông đỏ của Cửu Sắc, trèo lên mui tàu “Hồng y giáo chủ Richelieu”, đối mặt với hoàng hôn trên biển Bắc Đại Tây Dương rộng lớnCậu dám đánh cược ông chủ của chiếc tàu này là độc giả trung thành của “Ba chàng lính ngự lâm” và Alexandre Dumas. Theo lộ trình đã lên sắn, tàu sẽ cập cảng New York ít hôm, chở khách mới và giao bưu phẩm, rồi lại khởi động hành trình vượt biển Đại Tây Dương đến Pháp. Vùng biển này là nơi chôn vùi hơn một ngàn năm trăm di cốt người gặp nạn cùng con tàu Titanic. Ở mạn tàu phía sau cậu vừa tổ chức lễ hải táng. Lần này là một nhà năm người, lớn nhất là bốn mươi tuổi, nhỏ nhất mới bốn tuổi. Tất cả đều chết do cúm, được phủ vải trắng rồi ném xuống Đại Tây Dương. Từ khi rời khỏi biển Carribe, mỗi ngày có ít nhất mười lần hải táng, hơn một phần mười số hành khách đã chết, số còn lại đa phần đều ngã bệnh, kể cả bác sĩ. Ngoài cảng New York đầy những tàu bè đến từ khắp nơi trên thế giới, bên ngoài châu Âu tan hoang thì đây mới là trung tâm của thế giới. Những hành khách khỏe mạnh cùng nhìn về phía Long Island và bờ biển xanh rì của nước Anh mới như những hành khách còn sót lại của con tàu “The Mayflower” từ ba trăm năm trước. Một chiếc tàu kiểm dịch tới, những nhân viên kiểm dịch Mỹ lên tàu “Hồng y giáo chủ Richelieu”, nhìn lướt qua đám người mặt mũi tái nhợt, ho hắng liên tục. Nhân viên kiểm dịch ra lệnh tàu này phải treo cờ dịch bệnh, trước khi tình hình bệnh dịch được giải quyết không được vào cảng New York – có nghĩa là tự sinh tự diệt, cho đến khi toàn bộ người trên tàu chết hết. Thuyền trưởng chưa kịp biện minh, nhân viên kiểm dịch vội vàng rời đi. Nếu không có tàu cứu sinh qua thì chỉ có nhảy xuống biển thoát nạn. Trong không khí phảng phất mùi nước hoa của thần chết, Tần Bắc Dương dẫn Cửu Sắc tránh khỏi boong tàu, vừa hay đụng phải Tiền Khoa. Cảm tạ trời đất, hai người họ vẫn còn sống. Tuần trước, Tiền Khoa đến tìm thuyền trưởng nói rương gỗ trong khoang hàng của Pierre Gauguin là di vật đào trong cổ mộ ở Trung Quốc. Mà trong những món đồ cổ đó có lời nguyền, thậm chí là vi khuẩn bệnh từ mấy ngàn năm trước. Cách duy nhất để cứu tàu là sau khi cập cảng New York, lập tức dỡ rương xuống rồi đổi tàu khác chuyển về Trung Quốc. Cậu ta biết thuyền trưởng mê tín, vợ con đều chết trong tai nạn tàu Titanic, chắc chắn sẽ tin cách nói này. Tàu “Hồng y giáo chủ Richelieu” bị bao vây ba ngày ba đêm. Mỗi tiếng lại có người không ngừng bị ném xuống biển. Có người hôm trước vừa ném thi thể người khác xuống biển, ngày hôm sau đã táng thân dưới biển sâu, đến nỗi vải trắng để ném xuống biển đều dùng hết rồi. Tệ hại là thuyền trưởng cũng ốm rồi. Nhưng ông là đàn ông vùng Gascony khỏe mạnh, là đồng hương cũ của D’artagnan. Ông tức giận nhốt Pierre Gauguin vào phòng kín khoang dưới, dù cho thương buôn đồ cổ có kêu tên của Bộ trưởng Bộ Lục quân cũng vô dụng. Thuyền trưởng ra lệnh mở rương gỗ lớn để món đồ cổ bên trong. Vốn có ba tên lính gác vũ trang, một tên đã chết, một tên bệnh, tên còn lại là người da đen. Sau khi hắn nổ súng giết chết vài tàu viên thì đã bị người ta dùng rìu chém chết từ sau lưng. Trong khoang chở hàng đầy máu tươi, thuyền trưởng yếu ớt chống gậy, tự tay mở cánh cửa nhỏ của rương gỗ. Ông muốn tận mắt nhìn món báu vật lấy từ mộ cổ Trung Quốc, nguồn gốc của lời nguyền trên tàu, nghe nói tên là “Thú trấn mộ”, rốt cuộc thứ đó là thần thánh phương nào? Trong ánh đèn đuốc sáng trưng, thuyền trưởng nhìn thấy một thiên sứ có gương mặt quỷ. Hai đôi cánh được xếp gọn sau lưng, trước ngực có cơ bắp bằng sắt thép chằng chịt, cái đầu đầy nếp nhăn, móng vuốt và chân cường tráng, giống sinh vật tiền sử sống dậy từ trong bảo tàng tự nhiên. “Thiên… Thiên sứ bốn cánh?” Thuyền trưởng sống lênh đênh trên biển bốn mươi năm, đã từng đi qua tất cả các vùng biển trái đất, neo đậu ở hầu hết các cảng. Ông đã từng thấy tượng và di tích cổ đại tương tự như vật ở Cairo, Damascus thậm chí là Baghdad. Nhưng thiên sứ bốn cánh được tinh xảo tuyệt vời như vậy… ông nghi ngờ đây có phải thứ đồ được đào từ trong mộ cổ Trung Quốc không? Thiên Sứ Bốn Cánh chợt mở mắt. Đôi mắt của thú. Thú trấn mộ Thiên Sứ Bốn Cánh phát ra tiếng động của bánh răng ầm ầm trong cơ thể. Có vẻ như nó ngửi thấy hơi người là có thể kích hoạt trái tim đang ngủ say. Nó đói rồi? Bốn cánh sau lưng nó bắt đầu chầm chậm mở lớn, màng cánh như có vô số chiếc ô cùng mở, nhanh chóng chạm vào cạnh rương gỗ. Thiên Sứ cúi phần thân thú của nó xuống, đôi mắt đỏ lừ như hai đốm lửa nhìn chằm chằm vào mắt thuyền trưởng. Thuyền trưởng quỳ xuống, từ bỏ tất cả sự kháng cự, quỳ gối trước Thiên Sứ Bốn Cánh. Con người không thể giao chiến với thú. Dù là trên đất liền, biển hay trời, cuối cùng thì con người cũng trở thành nô bộc cho thú, thành vật hi sinh trên đàn tế. Thú trấn mộ Thiên Sứ Bốn Cánh coi rương gỗ chật hẹp như quan tài trong địa cung. Nó coi thuyền trưởng đang cúi đần thần phục nó như kẻ trộm mộ xông vào địa cung. Nó gầm lên, giương vuốt, xé nát cơ thể của thuyền trưởng. Máu tươi của thuyền trưởng mang theo vi khuẩn bệnh cúm Tây Ban Nha bắn lên mắt nó. Hai đôi cánh của nó mở to hết cỡ, phá tan rương gỗ, mảnh vụn và mạt gỗ bắn tứ tung trong khoang hàng. Nhóm tàu viên khỏe mạnh cuối cùng đeo khẩu trang, cầm rìu, sợ hãi nhìn thú trấn mộ giương cánh bay bên trong khói bụi. Thiên Sứ Bốn Cánh bay lơ lửng trên nóc khoang hàng, đôi cánh chuyển động không nhanh không chậm như quay về địa cung Cảnh Giáo triều Đường ở Phòng Sơn Bắc Kinh. Đôi cánh đưa thú trấn mộ ngạo nghễ nhìn thế giới u ám này từ trên xuống. Tàu viên bắt đầu sợ hãi tháo chạy, nhưng thú hai chân làm sao có thể chạy thoát khỏi thú bốn cánh? Dưới đôi cánh như gió lốc, nó như cỗ máu chiến đấu lao xuống, móng vuốt và cánh sắt nóng hổi nhanh chóng xé rách lưng của đám người. Đây là cách tàn sát của thú bốn cánh với thú hai chân. Như cách tàn sát trong văn tự đất sét của Babylon và cuốn sách Biển Chết của người Do Thái đã từng ghi lại, cũng chính là buổi diễn thử cuộc tàn sát quy mô lớn hơn lần tiếp theo trong thế kỷ 20… Thú trấn mộ bay ra khỏi khoang hàng, nó bay loạng quạng bên trong tàu. Đầu tiên nó bay tới phòng buồng đốt, đụng hỏng một chiếc máy hơi nước đã tắt, rồi lại lao ra phía sau tàu va hỏng bánh lái sau điều khiển phương hướng. Sau đó nó bay lên phía trước, phá tan phòng để neo. Con tàu mất động cơ và phương hướng, trở thành cái bè chết chóc trôi lưng lờ theo dòng Đại Tây Dương. Trên đường đi, nó tàn sát tất cả những người sống mà nó thấy, trong mắt nó tất cả đều là kẻ trộm mộ trong địa cung. Những người may mắn còn sống sót ở khoang dưới la hét thất thanh chạy lên boong tàu, Tần Bắc Dương cũng suýt mất đầu dưới đôi cánh sắt. Cậu nằm xuống đất trấn an Cửu Sắc, dù sao cũng đang ở trên tàu, lỡ mà rơi xuống biển thì hết cách luôn. Trong một cánh cửa buồng vang lên tiếng đập cửa dữ dội, Tần Bắc Dương rút Đường đao chặt đứt khóa ngoài cửa buồng, không ngờ đó chính là Pierre Gauguin. Tần Bắc Dương đè Gauguin lên tường chất vấn ông ta vì sao lại thả Thiên Sứ Bốn Cánh ra? Đột nhiên, con tàu vang lên tiếng va chạm dữ dội như trời long đất lở, Tần Bắc Dương và Gauguin cùng Cửu Sắc ngã nhào xuống đất. Họ chạy lên boong tàu mới phát hiện, trong đêm đen, tàu “Hồng y giáo chủ Richelieu” đã đâm phải một con tàu chở hàng cỡ lớn khác. Trong tàu đã bị hư hỏng nặng, bên ngoài cảng New York còn có không ít tàu kiểm dịch xếp hàng chờ, thêm trời tối nhìn không rõ. Cũng như tàu Titanic đâm phải núi băng, hai con tàu cỡ lớn va chạm nhau sẽ đem lại hậu quả chí mạng. Hành khách trên tàu “Hồng y giáo chủ Richelieu” tải trọng 11000 tấn nhanh chóng rơi xuống, chưa kịp thả thuyền cứu hộ, càng không có ban nhạc biểu diễn khúc nhạc cuối cùng. Boong tàu đã nghiêng một góc 45 độ, Tần Bắc Dương và Tiền Khoa bám vội vào lan can, nhiều người la hét thảm thiết trượt xuống biển Bắc Đại Tây Dương. Chỉ mấy phút sau, con tàu đối diện lật trước, nó chìm nghỉm trong tiếng nổ đinh tai nhức óc. Giữa boong tàu, Thiên Sứ Bốn Cánh phá kén bay ra. Nó quơ bốn cánh bay trên con tàu gặp nguy phía dưới. Cùng lúc đó, thú trấn mộ Cửu Sắc bắt đầu biến hình…