Chương 14 Đại tôn giả Liên minh thợ thủ công
Tần Bắc Dương dọn ra một khoảng trống, phát hiện cánh cửa sắt đóng chặt. Khóa đồng đã bị ăn mòn, giăng đầy mạng nhện, đã rất nhiều năm rồi không có ai động đến. Cậu dùng thanh Đường đao chặt đứt chiếc khóa đồng rồi chui vào mật thất bên trong cửa. Mùi thối rữa trong không gian kín mấy trăm năm ập tới. Tần Bắc Dương đốt tấm vải rách làm đuốc, chiếu sáng các kẽ hở giữa những tảng đá trong căn mật thất, ở một góc khuất cậu phát hiện một hàng kí tự kì lạ:“ANAΓKH” Có thể là kí tự Hy Lạp? Hàng chữ nà được người ta khắc lên, là một người thợ thủ công Tần Bắc Dương hết sức nhạy cảm với thứ này. Trong mật thất có hai bộ hài cốt, một bộ là của nữ, xương nhỏ, trên xương sọ có hai hốc mắt sâu. Một bộ là của một người đàn ông, xương sống xiêu vẹo, đầu lâu rơi xuống bả vai, độ dài xương hai chân không bằng nhau, giống như một người gù vậy. Trong thư viện của trường Đại học số ba Kyoto, Tần Bắc Dương đã từng mượn đọc bản tiếng Nhật của cuốn “Nhà thờ Đức Bà Paris”, đây không phải là anh gù kéo chuông Quasimodo sao? Cô gái mà anh ta đến chết vẫn ôm chặt chắc chắn là nàng Esmeralda xinh đẹp! Bọn họ vẫn còn đang ở trạng thái năm trăm năm trước, cậu nhẹ nhàng chạm vào hai bộ hài cốt, chúng lập tức biến thành tro bụi, tan thành mây khói… Sâu trong mật thất vẫn còn một cánh cửa sắt, Tần Bắc Dương nhìn thấy một cỗ quan tài đá bên trong, rất nhiều giáo đường châu Âu nằm sát cạnh khu mộ, các vị vua chúa quan lại đều sẽ đem quan tài của mình đặt bên trong giáo đường. Nhưng hình dáng chiếc quan tài này lại mang phong cách Trung Quốc, nó không phải là hình chữ nhật theo tiêu chuẩn mà là hình thang như chiếc thuyền gỗ vậy. Tần Bắc Dương đốt đuốc lên, chỉ thấy dưới chiếc cửa sắt có một chiếc bia đá, bên trên chi chít chữ. Cậu thổi hết đám bụi không biết đã bám mấy trăm năm, rồi lại lấy nước bọt để lau, cuối cùng phát hiện ra mình có thể hiểu được những chữ này – đó là tiếng Hán! Thật không thể tưởng tượng nổi, vì sao trong tòa tháp của Nhà thờ Đức Bà Paris, bên cạnh hài cốt của anh gù kéo chuông Quasimodo và nàng Esmeralda lại xuất hiện một tấm bia đá có chữ Hán chứ? Ánh lửa loáng thoáng chiếu rọi lên chữ mở đầu, là một dòng chữ viết theo thể Nhan rất khỏe khoắn: “Mộ chí của Tần Tấn – Đại tôn giả Liên minh thợ thủ công” Liên minh thợ thủ công? Đại tôn giả? Tần Tấn? Tay phải của Tần Bắc Dương bắt đầu run lên, dường như cậu đã chạm đến lịch sử của sáu trăm bốn mươi năm trước! Cha đã từng nói: Cuối những năm Nam Tống, tổ tiên nhà họ Tần định cư tại Cổ Long Tương Dương, có hai anh em cùng giữ cuốn “Tần thị mộ tượng giám” – người anh là Tần Tấn, người em là Tần Sở. “Tần tấn chi hảo, nay Tần mai Sở”, hai cái tên này thật sự khiến người ta có ấn tượng sâu sắc. Bản chính có ghi chép bí mật thú trấn mộ trong cuốn “Tần thị mộ tượng giám” đang ở trên người của tổ tiên Tần Tấn. Cậu lo lắng đọc từng chữ trên bia đá, đáng tiếc là rất nhiều chữ đã bị mờ nhìn không rõ, chỉ có thể đọc được ý nghĩa đại khái: Tần Tấn, người Nam Tống, nguyên niên Bảo Khánh, sinh ra tại phủ Tương Dương đường Kinh Tây Nam. Nhà họ Tần là gia tộc đời đời làm thợ thủ công, từ nhỏ đã theo cha học “Mộ tượng chi đạo”, giỏi chế tạo “thần thú trấn mộ”. Khi Mông Cổ xâm lược phía Nam của Đại Tống, Tần Tấn bị bắt ở Tương Dương, bởi vì nắm tuyệt kĩ thợ thủ công nên bị bắt đến Mạc Bắc xa ngoài vạn dặm, nơi triều đình của vua Hãn tại đất nước Mông Cổ – Karakorum. Không lâu sau, Mông Cổ xuất chinh lần thứ ba về phía Tây, cháu trai của Thành Cát Tư Hãn, con thứ sáu của Đà Lôi, em trai của Mông Kha và Đại Hãn Hốt Tất Liệt – Húc Liệt Ngột xuất chinh Tây Vực. Tần Tấn không may bị sắp xếp vào đoàn Hán quân Mông Cổ, phục vụ dưới trướng của đại tướng người Hán là Quách Khản. Đại quân vượt qua khu vực sông Trung Á, xâm lược nước Mộc Lạt Di của Ba Tư – nơi có Hội thích khách Assassin tiếng tăm lừng lẫy. Quách Khản đã tiêu diệt năm mươi nghìn đại quân Assassin, đánh chiếm hơn một trăm tòa thành rồi thẳng tiến đến hoa viên Thiên quốc trên núi cao. Núi này địa hình hiểm trở, một người chống giữ, muôn người không phá nổi, có dùng đại bác tấn công cũng vô ích. Đại quân Mông Cổ chỉ giỏi cưỡi ngựa tập kích bất ngờ chứ không quen tác chiến trên đồi núi, chiến cục rơi vào bế tắc. Húc Liệt Ngột ra lệnh cho đội quân người Hán chế tạo máy móc công trình, nhiệm vụ này đương nhiên được giao cho Tần Tấn. Trong một tháng ngắn ngủi, ông đã chế tạo ra mười hai loại máy móc công trình khác nhau, đa phần đều bắt nguồn từ cuốn “Mặc Kinh” thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, ví dụ như chiến xa công thành, nỏ công thành, máy bắn đá loại lớn vv. Tần Tấn lại chế tạo hơn một trăm chiếc diều gỗ, chính là động cơ bay được chế tạo bằng gỗ đầu tiên, có thể lợi dụng sức gió để bay lượn, giống như tàu lượn của thế kỷ hai mươi, mỗi chiếc diều gỗ có thể chở được hơn mười lính. Quách Khản đã chiêu mộ được hai nghìn binh sĩ người Hán giỏi leo núi chiến đấu, để họ lái diều gỗ bay lên đỉnh núi, cưỡi gió tập kích vườn hoa thiên quốc của Assassin. Hai trăm năm nay, không ai có thể đánh hạ được tòa thành trên núi này từ dưới mặt đất, vậy mà cuối cùng nó đã bị “đội quân diều gỗtừ trên trời rơi xuống”do Tần Tấn chế tạo đánh chiếm, “vườn hoa thiên quốc” đầy những tác phẩm tinh xảo nhưng vô dụng đã bị cho một mồi lửa, bị tàn phá hoàn toàn thành một khu hoang phế. Hội thích khách Assassin “người già trong núi” đã bị tiêu diệt hoàn toàn, Tần Tấn đã lập công hiển hách. Năm sau đó, đội quân người Hán của Quách Khản tiến đến lưu vực Lưỡng Hà, đánh hạ “thành Báo Đạt” – chính là Bagdad ngày nay, tiêu diệt nước Abbas áo đen đã từng hưng thịnh một thời, sánh ngang với triều Đường. Quách Khản lại phụng mệnh tấn công quốc gia Thập tự quân ở bờ đông của Địa Trung Hải, trên bia đá viết là “Phú Lãng”, có lẽ là dịch âm của “Francia”, gây thiệt hại nghiêm trọng cho quốc gia Jerusalem, quốc gia Antioch và Bá quốc Tripoli, cuối cùng người ngựa kiệt sức, thế suy sức yếu tại Palestine, bại trận một cách đáng tiếc trước người Mamluk của Ai Cập. Tần Tấn đi theo đại quân Mông Cổ và tham gia tất cả những chiến dịch kể trên, kĩ thuật thợ thủ công của ông đã phát huy được tác dụng vô cùng quan trọng. Vậy nhưng vào lúc này, phương đông lại truyền tin tới, Đại hãn Mông Kha tiến quân về phía nam chinh phạt triều Tống, bị rơi vào cảnh khốn cùng tại thành Điếu Ngư, rất cần chi viện của đội quân chinh phạt phía tây của Mông Cổ. Quách Khản phụng mệnh dẫn quân về phía đông, Tần Tấn vốn là người Tống, ông không nhẫn tâm nhìn thấy những máy móc do mình chế tạo ra lại xâm lược tổ quốc của mình, vậy nên đành chọn làm một kẻ đào ngũ, một mình trốn khỏi doanh trại. Tần Tấn tháo chạy đến Constantinopolis của Đế quốc Đông La Mã rồi ngồi thuyền buồm của người Venice vượt qua Địa Trung Hải đến Ý. Ông đã du lịch qua các vùng của châu Âu ngay vào thời kỳ hưng thịnh trước khi Cái Chết Đen (1) ập đến, lại đúng vào thời kỳ Trung Cổ mông muội, khắp nơi đều rầm rộ xây dựng nhà thờ. Tần Tấn được cơ hội thi triển tay nghề, nhờ đó đã trở thành thợ thủ công vĩ đại nhất châu Âu, ngoài kĩ thuật “thần thú trấn mộ” ra thì ông đã truyền tay nghề lại cho mười hai vị đồ đệ. Năm Công Nguyên 1279, thợ thủ công của toàn châu Âu mở đại hội tại tòa tháp của Nhà thờ Đức Bà Paris, chính thức thành lập Liên minh thợ thủ công. Tần Tấn trở thành Đại tôn giả đời thứ nhất, còn mười hai vị đồ đệ của ông trở thành mười hai “người gác cửa”. Trên mộ chí có khắc ba tôn chỉ lớn của Liên minh thợ thủ công: Kiêm ái, Phi công, Cứu thủ (2). Năm Công Nguyên 1919, trong căn mật thất trên tòa tháp của Nhà thờ Đức Bà Paris, Tần Bắc Dương đang nhìn chằm chằm vào sáu chữ Hán này – đây không phải chủ trương của Mặc Tử thời Xuân Thu Chiến Quốc sao? Liên minh thợ thủ công trải rộng khắp châu Âu và đã trở thành trụ cột vững chãi của văn minh. Đại tôn giả Tần Tấn đã phái một người Venice tên là Marco Polo làm đặc sứ đi sứ triều Nguyên, hy vọng có thể liên hệ được với gia tộc nhà họ Tần ở Trung Quốc. Chỉ tiếc là vị Marco Polo có tiếng tăm lừng lẫy đời sau này còn chưa kịp trở lại châu Âu thì Tần Tấn đã qua đời. Dòng chữ cuối cùng trên bia đã ghi lại cái chết của vị Đại tôn giả đời thứ nhất của Liên minh thợ thủ công. Năm Công Nguyên 1290, để báo thù cho giáo phái thích khách Assassin, Liên minh thích khách đã được thành lập lại, bọn chúng đã phái người đến Paris để ám sát Đại tôn giả. “Người gác cửa” đã dùng bảo kiếm và nỏ giết chết thích khách ngay tại chỗ. Tần Tấn bị trọng thương, trước khi chết ông đã viết bài mộ chí này cho mình rồi dặn dò các đồ đệ khắc những chữ Hán này lên bia đá. Trong mộ chí dặn dò đừng cử hành bất kì tang lễ nào, cứ trực tiếp đặt quan tài đá vào trong mật thất trên tòa tháp của Nhà thờ Đức Bà Paris. Tần Tấn ra lệnh cho các đồ đệ không để lại bất cứ một tiểu sử nào về Đại tôn giả đời thứ nhất, ông hi vọng có thể lặng lẽ ẩn mình trong mộ – trạng thái bình thường của người thợ thủ công chính là không để lại danh tính, chỉ cần để lại tác phẩm vĩ đại là được. Cũng giống như cách ngôn mà Tần Tấn đã đặt cho Liên minh thợ thủ công: “Người thợ thủ công sẽ chết, nhưng tác phẩm thì còn mãi”. Xem xong cả bài mộ chí, Tần Bắc Dương quay lại đối diện với cỗ quan tài đá, đối diện với tổ tiên của gia tộc thợ mộ nhà họ Tần, cậu lại quỳ lạy một lần nữa, trong lòng cảm thấy vô cùng kính nể. Đây chính là cuộc đời vĩ đại nhưng lại rất ít người biết đến của vị Đại tôn giả đời thứ nhất của Liên minh thợ thủ công! Nhà thờ Đức Bà Paris chính là nơi hành hương và thánh điện đầu tiên của Liên minh thợ thủ công. Vị Đại tôn giả đời đầu tiên của Liên minh thợ thủ công không ngờ lại chết bởi sự phục thù của Liên minh thích khách? Chẳng trách trong lịch sử nhân loại, hai tổ chức bí mật này được coi như hai kẻ thù truyền kiếp và đã đấu đá lẫn nhau hơn sáu trăm năm. Tần Bắc Dương lại nhớ đến một chuyện – tại tòa Thánh điện dưới lòng đất khu Harlem, Manhattan của New York, tại Đại hội Liên minh thợ thủ công thế giới, khi cậu nói ra họ của mình và gia tộc thợ mộ, tất cả mọi người tại đó lập tức xôn xao – dễ thấy rằng họ của cậu có ý nghĩa rất quan trọng với Liên minh thợ thủ công. Đúng, còn cái đêm tại thánh điện Bắc Mỹ, khi người gác cửa Schmidt kiểm tra lưng cậu, nhìn thấy vết bớt màu đỏ hình sừng hươu của cậu, sắc mặt đã lộ vẻ bất thường. Rất dễ nhận thấy vị Đại tôn giả đời đầu tiên của Liên minh thợ thủ công – một thành viên của gia tộc thợ mộ họ Tần – cũng có vết bớt tương tự. Bí mật này đã lưu truyền hơn sáu trăm năm trong tầng lớp cấp cao của Liên minh thợ thủ công, cũng là chứng cứ quan trọng để xác nhận thân phận của Tần Bắc Dương. Là một thành viên của gia tộc thợ mộ, vì sao Đại tôn giả Tần Tấn lại có tuổi thọ sáu lăm tuổi? Bởi vì khi còn trẻ ông đã bị bắt đến Mông Cổ, sau đó lại vượt biển đến châu Âu, định cư tại Nhà thờ Đức Bà Paris và không còn chế tạo thú trấn mộ nữa, cũng không tiếp xúc với những viên linh thạch gây tổn hao sinh mệnh nữa, vì vậy nên đã thoát được lời nguyền đoản mệnh ma quái của gia tộc thợ mộ, sống đến hơn năm mươi tuổi mới bị ám sát. Nghĩ đến vấn đề chết sớm hay sống lâu, Tần Bắc Dương tự nhiên nghĩ tới tiểu thú trấn mộ Cửu Sắc. Cậu ôm Cửu Sắc đang bị thương vào, vuốt ve chiếc bờm màu đỏ của con thú trấn mộ, cả hai ôm nhau chìm vào giấc ngủ trong căn mật thất trên gác chuông, ngay trước mộ của Đại tôn giả đời đầu tiên của Liên minh thợ thủ công. Thiên Sứ Bốn Cánh ngồi bên ngoài canh gác cho họ. Nằm trên tro cốt của Quasimodo và thiếu nữ Digan, Tần Bắc Dương chìm vào giấc ngủ say… Cậu mơ quay trở lại địa cung ngôi mộ lớn triều Đường trên Bạch Lộc Nguyên, nhìn thấy tiểu Hoàng tử mười lăm tuổi – Chung Nam Quận vương Lý Long Kỳ nằm sâu trong cỗ quan tài nghìn năm. Vừa tỉnh giấc, Tần Bắc Dương đã mơ màng mở mắt ra. Bên ngoài vang lên thứ âm thanh kì quái nào đó khiến cậu phải bước ra khỏi mật thất, đến bên mép của tòa tháp Nhà thờ Đức Bà, bầu trời đêm của Paris vẫn chưa chuyển về sáng, nhưng dường như có gì đó không đúng. Những bức tượng đá quái thú nhỏ xếp hàng dọc ở bức tường ngoài đều đã biến mất! Cậu to gan vươn nửa người trên ra ngoài, suýt nữa thì bị gió cuốn xuống sông Seine. Bầu trời bên trên Nhà thờ Đức Bà Paris có hơn chục đốm đen nhỏ đang lượn vòng, giống như bản phóng to của những con dơi, bản thu nhỏ của Thiên Sứ Bốn Cánh. Một con trong số đó lướt qua trước mắt cậu, quả nhiên chính là con quái thú chống cằm suy nghĩ, đôi cánh của nó vẫy vùng một cách vui vẻ, nó còn quay đầu trợn mắt nhìn Tần Bắc Dương. Đám quái thú đá đều sống lại rồi! Lẽ nào mỗi đêm chúng đều bay ra khỏi tòa tháp của Nhà thờ Đức Bà rồi chao liệng lung tung trên bầu trời Paris sao? Hoặc cũng có thể do thú trấn mộ đã đến, phát sinh ra một loại cảm ứng thần bí nào đó? Cảnh tượng này một lần nữa lại chứng minh phán đoán của Tần Bắc Dương: Phàm là những cổ vật được tạo hình người hoặc hình động vật đều sẽ sản sinh ra một thứ tương tự như linh hồn, sẽ rục rịch rộn ràng vào lúc đêm khuya thanh vắng không người, giống như chuyện đã xảy ra tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan. Chính là những con quái thú nhỏ có linh lực này đã thu hút Thiên Sứ Bốn Cánh bay đến Nhà thờ Đức Bà Paris lánh nạn, chứ không phải câu chuyện của Quasimodo và thiếu nữ Digan. Tần Bắc Dương giơ cánh tay ra, một con quái thú nhỏ đang bay đậu ngay lên khuỷu tay cậu, giống như người thợ săn và con chim săn mồi vậy. Khi mặt trời của Paris mọc lên, tất cả tinh linh yêu ma đã quay lại tòa tháp Nhà thờ Đức Bà, biến lại thành những bức tượng đá đã đông đặc hàng trăm năm… _____________ Chú thích: (1) Cái Chết Đen là tên một đại dịch bệnh dịch hạch chết chóc nhất trong lịch sử nhân loại, xảy ra ở châu Á và châu Âu trong thế kỷ XIV. (2) Kiêm ái là yêu thương tất cả mọi người. Phi công là phản đối các cuộc chiến tranh với mục đích xâm lược. Cứu thủ là tăng cường phòng thủ để tự cứu mình.