Chương 1-2 Công chúa Vĩnh Thái 2
Bích họa trở về hình dáng cũ. Thì ra tất cả là ảo cảnh. Đám “thợ khoét đất” nhao nhao tát nhau, tự trách vì sao lại để thủ thuật này che mắt? Quái vật nửa người nửa chim trước mặt cũng bị bọn họ coi là ảo giác nên cứ thế nghênh ngang tiến tới, chẳng ngờ va vào vú của nóDung nhan thiếu nữ trở nên hung ác không gì sánh bằng, như ác ma thi biến. Nhóm trộm mộ sợ đến hồn phi phách tán, chỉ hiểu được có lẽ đây không phải ảo giác mà là quái vật trong mộ cổ thực sự. Có lẽ là… thú trấn mộ? Nó vươn hai tay mảnh mai tóm lại cổ một tên trộm, siết lại, tiếng xương cổ răng rắc vang lên. Cái cổ rũ xuống, tên trộm mộ chết ngay lập tức. Giữa âm thanh kêu gào thảm thiết, đám trộm mộ dùng xẻng và gậy gộc tấn công thú trấn mộ nhưng vô ích. Quái vật nửa người nửa chim như mình đồng da sắt, không hề bị thương, chỉ hời hợt giơ tay cũng đập vỡ đầu vài người. Trong thoáng chốc, mặt đất loang đầy máu tươi, xác người, chân tay văng tung tóe. Còn lại một kẻ trộm mộ cuối cùng. Ông già râu bạc này còn từng đào nhiều mộ hơn số bánh bao đã ăn. Ông móc ra một súng tam nhãn từ tay áo – đây là loại hỏa khí kỵ binh phía bắc được lưu truyền xuống từ cuối đời Minh, hiện giờ dân nông thôn thường dùng để đốt pháo đuổi ma quỷ. Lão trộm mộ cầm chuôi gỗ, nòng súng đã được nạp đạn – đầy bi thép và cát sắt nghiền nát. Lão đánh kíp nổ, bi thép bắn ra, như súng máy Gatling nguyên thủy. Ba tiếng nổ, không khí ngập tràn mùi thuốc súng… Đêm ba mươi, cuối cùng cũng có pháo mừng năm mới. Quái vật nửa người nửa chim có ba vết lõm trên người. Nó nhìn vết thương của mình, tức giận gào rú. Tiếng hét chói tai suýt làm Tần Bắc Dương thủng màng nhĩ. Súng cũ của Trung Quốc có một nhược điểm là nạp đạn chậm, lão trộm mộ luống cuống chĩa súng tam nhãn mới được nhét hỏa dược và cát sắt vào, chưa kịp châm lửa đã bị quái vật bẻ gãy cổ. Tên trộm mộ kinh nghiệm phong phú hoàn toàn chết hẳn. Sau đó quái vật thấy Tần Bắc Dương. Nó lại phát ra âm thanh rít gào đe dọa, vươn hai tay móng sắc bén, dự định xuyên thủng cổ anh. Sừng hươu của Cửu Sắc nhanh chóng dài ra, cản trở nó, kim loại va vào nhau tóe lửa. Thú trấn mộ ấu kỳ lân phun cầu lửa lưu ly, bắn mạnh như đạn, lao thẳng vào bụng nó. Tần Bắc Dương nhìn thấy không nỡ, tựa như đạn bắng trúng thai nhi trong bụng. Không, nó là thú trấn mộ, sao có thể có thai thú trấn mộ khác được? Quái vật điên cuồng bay lượn, hai cánh vẫy vùng. Người trong bích họa ở địa cung lộ ra vẻ thương xót cho nó. Nó cũng không thể nào hiểu được vì sao trong ngôi mộ này, nó lại gặp một con thú trấn mộ ngoại lai. Ở thế kỷ 20, trước khi mộ cổ Trung Quốc bị nền văn minh xâm lấn, thiên địch duy nhất của thú trấn mộ vẫn là thú trấn mộ. Cửu Sắc không hề lưu tình đâm nó bằng sừng hươu, nó cứ bay lượn trên không trung như người chim, lại vừa giống dơi, vừa giống bướm. Nó có thể làm những động tác với độ khó cao, thậm chí né tránh cầu lửa lưu ly, khiến người ta liên tưởng tới thú trấn mộ Thiên Sứ Bốn Cánh. Nó còn không bỏ qua cơ hội công kích Cửu Sắc, dùng rìa cánh sắc bén như dao để bóc vảy đồng của thú trấn mộ ấu kỳ lân. Thú cùng thú quyết chiến. Tần Bắc Dương dò xét, bắt đúng thời cơ, cầm Đường đao nhảy lên, xuất tuyệt học “Ngũ cầm hí” – trong đó có “Điểu hí” bắt chước động tác loài chim, mềm mại phiêu dật, như chim diều vỗ cánh trên điện thờ, vượt qua phòng tuyến của người chim mà cắt được một cánh của nó. Tiếng thiếu nữ kêu thê lương thảm thiết vang vọng toàn bộ địa cung, như vừa bị chặt tay. Nó rơi xuống sàn gạch mộ thất, giãy dụa né tránh sừng hươu và cầu lửa của Cửu Sắc, nhanh chóng lui vào hậu thất. Tần Bắc Dương thở hổn hển ngồi xuống đất, tay vẫn cầm Đường đao – mũi đao nóng hổi. Anh xoa chiếc cánh bị chặt đứt, mặt ngoài toàn lông chim, bên trong là khung xương bằng sắt thép, hình như là trống rỗng nên không nặng, không khó bay lên. Cửu Sắc không muốn bỏ qua, sợ nó có khả năng tự trị thương của thú trấn mộ, bỏ qua cơ hội sẽ gặp nguy hiểm. Khi nó định chạy vào hậu thất, Tần Bắc Dương gọi lại, “Chờ chút!” Tần Bắc Dương phát hiện ra mộ chí. Thể chữ lệ được điêu khắc trên bia đá hình vuông, mở đầu bằng hai hàng chữ lớn: Đại Đường Vĩnh Thái công chúa khắc mộ chí Thái thường Thiếu khanh kiêm Tu Quốc sử thần tử Ngạn Bá Phụng sắc soạn. Công chúa Vĩnh Thái? Anh bỏ qua mấy câu phồn văn rườm rà, xem luôn thân phận của chủ mộ… “Công chúa húy là Tiên Huệ, tự Nhùng Huy, huyền tôn của Hoàng đế Cao Tổ Thần Nghiêu, tằng tôn của Hoàng đế Quá Tông Văn Võ Thánh, tôn của Thiên Hoàng Đại đế Cao Tông, con gái thứ bảy của Hoàng thượng. Công chúa Vĩnh Thái, Lý Tiên Huệ, cũng là tôn nữ của Đường Cao Tông Lý Trị và Nữ hoàng Võ Tắc Thiên. “Hoàng thượng” trong mộ chí chính là Đường Trung Tông Lý Hiển, nổi tiếng vì là con đẻ của Hoàng hậu. Quan hệ của vị công chúa này, cũng như tiểu Hoàng tử triều Đường trong ngôi mộ ở Bạch Lộc Nguyên – Quận vương Chung Nam Lý Long Kỳ là anh chị em họ ngoại, con cháu của Võ Tắc Thiên. Khi 15 tuổi, Công chúa Vĩnh Thái được gả cho Võ Diên Cơ là con của Võ Thừa Tự. Võ Thừa Tự là cháu trai Võ Tắc Thiên, công chúa và phò mã là anh em họ nội xa. Lúc này, Võ Tắc Thiên sủng hạnh Trương Dịch Chi đẹp trai có tiếng, anh em của Trương Xương Tông, quyền khuynh triều đình và dân gian, dâm loạn kỷ cương. Con trưởng của Trung Tông là Lý Trọng Nhuận, phò mã của Công chúa Vĩnh Thái là Võ Diên Cơ lén lút chửi thầm sau lưng, ai ngờ chuyện riêng này lại bị mật thám báo lên, báo cáo cho anh em Trương Dịch Chi, truyền đến tai Nữ hoàng. Bà cụ tuổi già sắc yếu nhưng lại đam mê trai đẹp vô cùng hoàn toàn bỏ qua tình cảm của con cháu, dẫn cháu trai Lý Trọng Nhuận, cháu gái là Công chúa Vĩnh Thái, cháu rể là Võ Diên Cơ vào cung, đánh trượng mà chết! “Tân Đường thư” (1) nói Công chúa Vĩnh Thái và phò mã bị bà mình là Võ Tắc Thiên cho treo cổ, “Cựu Đường thư” ghi chép còn ác hơn, nói Nữ hoàng giao ba đứa cháu cho cha họ là Lý Hiển xử lý. Lý Hiển từng làm Hoàng đế Đại Đường, run sợ trước dâm uy của mẹ, thế cũng siết chết con trai, con gái và con rể để bảo đảm tính mạng cho bản thân! Có điều mộ chí ở đây thì viết vậy… “Tự giao tang hùng ngạc, loan sầu cô ảnh, hòe hỏa vị di, bách chu không phiếm, châu thai hủy nguyệt, oán thập lý chi vô hương; quỳnh ngạc điêu xuân, phẫn song đồng chi bí dược. Nữ nga trì khúc, thừa bích yên nhi hốt khứ; lộng ngọc tiêu thanh, nhập thải vân nhi bất phản. Ô hô ai tai! Dĩ đại túc nguyên niên cửu nguyệt tứ nhật hoăng, xuân thu thập hữu thất” (Dịch nghĩa: Do giao long bỏ mình dưới lưỡi kiếm lớn, chim loan buồn sống cô độc, lửa hòe chưa đổi thay, thuyền gỗ bách trống rỗng, châu thai hủy tháng, hương thơm không có trong mười dặm ai oán; đài hoa ngọc quỳnh héo úa, thuốc bí ẩn của cặp song sinh. Người phụ nữ thổi khúc nhạc sáo, cưỡi khói biếc mà đi; tiếng tiêu ngọc vang vào mây không lời hồi đáp. Ô hô ai tai! Chết vào ngày 4 tháng 9 năm Đại Túc chết, 17 cái xuân xanh) Đại khái nói là phò mã bị giết trước, Công chúa Vĩnh Thái kinh sợ, bi thương gần chết nên sinh non, chết vì băng huyết ở tuổi 17 xuân xanh! Vài năm sau, trong chính biến Thần Long, Trung Tông Lý Hiển về vị trí cũ, anh em Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông bị xử tử. Lý Trọng Nhuận chết oan năm đó được truy phong “Thái tử Ý Đức”, Lý Tiên Huệ được truy phong “Công chúa Vĩnh Thái,” lễ tang sau khi chết làm rất lớn, trở thành vị công chúa đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc có ngôi mộ làm thêm, mang quy cách “lăng” như của đế vương. Nói chính xác thì đây không phải mộ Công chúa Vĩnh Thái, đây là Lăng của Công chúa Vĩnh Thái. Nàng là chị họ ngoại của tiểu Hoàng tử triều Đường Lý Long Kỳ, tuổi tác tương đương – nàng chính là tiểu tỷ tỷ đời trước sao? Tâm tình Tần Bắc Dương phức tạp, cứ lần mò bước vào hậu thất, tựa như đi về nhà mình. Bên trong có rất nhiều anh trai, chị gái, chị dâu, anh rể, chú bác, cậu, còn có cha và mẹ… Hậu thất địa cung… Cầu lửa lưu ly của Cửu Sắc soi sáng đỉnh của mộ thất. Tần Bắc Dương dụi mắt, kinh ngạc khi thấy bầu trời đầy tinh tú. Chẳng lẽ địa cung mở được một thiên tỉnh sâu không cần che đậy? ________ Chú thích: (1) Tân Đường thư (là một sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc (Nhị thập tứ sử) do Âu Dương Tu thời Bắc Tống chủ biên cùng Tống Kỳ, Phạm Trấn, Lữ Hạ Khanh tham gia vào việc viết và biên soạn vào năm Khánh Lịch thứ 4 (năm 1044), đến tháng 7 năm Chí Hòa nguyên niên (năm 1054) thì hoàn thành. Tên gốc ban đầu là Đường thư, người đời sau để phân biệt với Cựu Đường thư của Lưu Hu nhà Hậu Tấn thời Ngũ đại thập quốc nên đổi tên bộ chính sử thành Tân Đường thư. Tổng cộng có 225 quyển, bao gồm Bản kỷ 10 quyển, Chí 50 quyển, Biểu 15 quyển, Liệt truyện 150 quyển, sách ghi chép lịch sử hưng thịnh và suy vong của nhà Đường bắt đầu từ khi Đường Cao Tổ kiến quốc năm 618 đến khi Đường Ai Đế bị Chu Ôn phế truất năm 907.