Chương 5-2 Phía dưới giếng vàng (2)
Anh đáp lời giếng vàng, “Tôi là Tần Bắc Dương! Tôi đến từ địa cung! Tôi muốn đến địa cung!”Bỗng nhiên một luồng khí nóng ùa tới, như một đôi bàn tay vô hình nắm chặt vai anh, đè lên cái bớt hình sừng hươu đỏ, ném anh vào trong giếng vàng. “Anh!” A U thét lên kéo tay Tần Bắc Dương lại, nhưng Tần Bắc Dương nghiêng người ngã vào giếng vàng, còn cô chỉ nắm được cổ chân. Không ngờ Tần Bắc Dương rơi xuống rất mạnh, cứ như có lực hút dưới đó từ tâm trái đất, như vòng xoáy dưới biển khơi, khiến người ta không thể chống lại. A U cuối cùng cũng bị kéo vào giếng vàng. Nhìn Tần Bắc Dương và A U cùng rơi xuống, thú trấn mộ Cửu Sắc cũng nhảy xuống. Nó đã thề sẽ đồng sinh cộng tử cùng Tần Bắc Dương, hơn nữa nơi này chính là nhà cũ mình từng sống suốt 1200 năm cơ mà. Tần Bắc Dương, A U, Cửu Sắc. Bọn họ rơi tự do trong giếng vàng, tựa như cặp vợ chồng họ Tần rơi vào địa cung của ngôi mộ lớn Bạch Lộc Nguyên 21 năm trước. Bọn họ muốn đưa tay tìm vách tường nhưng chỉ hươ tay vào không trung. Dường như nơi đây không phải giếng, mà là vực sâu. Tần Bắc Dương thấy ánh sáng mờ mờ bên dưới, như đỉnh núi cao ở trường Thiên Quốc, biển mây bao la, hạc trắng vỗ cánh, vũ trụ mênh mông… gần ngay trước mắt… Anh đang bay. Anh biến thành chu hoàn (1) – một loại chim thần trong truyền thuyết phương Đông: mào lá liễu, mặt đỏ, mỏ dài mảnh, hai cánh dài trắng, cất cánh từ ngôi mộ cổ trên Bạch Lộc Nguyên, quay lưng về núi Chung Nam thần tiên sống, mặt hướng về long mạch Tần Xuyên trăm dặm. Còn có một con chu hoàn khác nhìn nhỏ hơn anh, hình như là chim mái, hót lảnh lót với cậu – A U! Hai con chu hoàn cùng cất cánh bay lượn trên trời tự do. Gió nâng cơ thể đầy lông vũ, bọn họ nhìn thấy một tòa thành vĩ đại. Đây không phải là thành Babylon trong Kinh Thánh, còn hơn cả thành Babylon. Anh nhìn tường thành nguy nga, mười hai cửa thành cao ngất ngưởng, sáu con đường lớn rộng rãi. Đường cái Chu Tước nằm trên trục nam bắc, nối liền với Thừa Thiên Môn (2) của Cung thành, Chu Tước Môn của Hoàng thành, Minh Đức Môn của Ngoại thành, chia tòa thành này thành hai phần đông tây. Có mười một đường cái theo hướng nam bắc, mười bốn đường theo hướng đông tây, một trăm lẻ tám phường, ba mươi sáu thiên cương, bảy mươi địa sát, là một bàn cờ to lớn ngay ngắn không gì sánh bằng. Tòa thành này có hàng trăm vạn sinh linh gấp đôi thành Trường An của người Hán, gấp rưỡi lần Kinh thành thời Minh – Thanh, gấp bảy lần quân lính Constantinople, gấp sáu lần đế quốc Ba Tư, năm lần thành La Mã cổ! Thành lớn nhất trong mấy nghìn năm văn minh lịch sử của nhân loại – thành Trường An đời Đường. Tần Bắc Dương và A U kề vai nhau bay lượn, nhìn chợ đông và chợ tây, thương nhân tập hợp, tiếng ồn ào huyên náo, tiếng đàn tỳ bà và đồ múa phấp phới, nhạc Quy Tư và Bồ Tát hòa cùng một màu, thương nhân đến từ các miền nam bắc, sư sãi đi về các miền đông tây, các thầy tu truyền Đại Tần Cảnh Giáo (3) từ Nhật Bản, nút thắt con đường tơ lụa. Trường An trẻ trung đầy sức sống! Chu hoàn tiếp tục bay, bay ra ngoài quách ngoài Trường An (4), Hoàng thành và Cung thành. Anh thấy cung Đại Minh là sao Bắc Cực, các nha thự quan lại của Hoàng thành là Tử Vi viên (5); ngoài quách là vành đai hướng bắc và ngân hà rực rỡ… Người thiết kế tòa thành này chính là Võ Văn Khải triều Tùy. Đại thành có sáu lớp đất xếp ngang, cực giống hào thứ sáu trong quẻ càn của Kinh Dịch. Càn thuần dương, xưng cửu, sáu miếng đất xếp từ bắc xuống nam là: sơ cửu, cửu nhị, cửu tam, cửu tứ, cửu ngũ, thượng cửu. Bốn phường phía nam của Hoàng thành mô phỏng bốn mùa; chín phường nam bắc, quy chế cửu quỳ của “Chu Lễ”; mười ba phường hai bên ngoài thành phía nam bắc là năm nhuận. Trường An triều Đường quả thật là kiệt tác kinh thiên động địa theo tư tưởng Chu Dịch. Đan Phượng Môn lấy đường nam bắc làm trục giữa, đi qua Chính điện, Tử thần điện Bồng lai điện, Hàm lương điện, Huyền vũ điện… Thành Trường An có đầu rồng trên núi, chính là tẩm điện và biệt điện của Thiên tử, cửa sau ở phía bắc, hồ Thái Dịch sương khói bảng lảng mênh mông. Trong vô vàng cung thất, chu hoàn bay vào một đại điện thơm mùi long tiên hương. Sau tầng tầng lớp lớp màn che, tiếng người phụ nữ thết chói tai vang lên. Tiếng đứa bé sơ sinh khóc nỉ non. Họ nhìn trong phòng. Một thiếu nữ vừa sinh con. Vẻ đẹp của nàng không ngôn ngữ nào tả xiết, dù nàng đau yếu sắp ngất đi nhưng vẫn cười, nước mắt chảy ôm đứa bé vừa chào đời. Là một bé trai! Khỏe mạnh xinh đẹp, sức sống tràn trề, tiếng khóc vang dội. Điều khiến hai chu hoàn khiếp sợ chính là đằng sau cổ đứa bé đó có một cái bớt hình sừng hươu đỏ chót. Trong ánh nến lấp lóa, mọi người cắt cuống rốn và tắm rửa cho em bé. Một đám người khác đến cung điện, tiền hô hậu ủng, rất khí phái. Người đi đầu là một vị phu nhân trung niên đội mão vua, mặc phục trang đẹp đẽ, thêu rồng bay phượng múa. Gương mặt người này xinh đẹp động lòng người, không người đàn ông nào không bị thu hút. Đôi mắt không giận mà uy, liếc qua nơi nào, nơi đó sơn băng địa liệt – cỏ cây tàn úa. Nữ hoàng Võ Tắc Thiên. Bà mừng rỡ ôm đứa bé, gỡ bỏ lớp mặt nạ tôn nghiêm của Hoàng đế, thơm lên trán đứa bé như một người bà bình thường. Nội xá Thượng Quan Uyển Nhi chuyên phụng Nữ hoàng đã chuẩn bị xong văn phòng tứ bảo. Nữ hoàng vui vẻ nhấc bút viết xuống ba chữ Khải lớn – Lý Long Kỳ. Chủ nhân ngôi mộ Bạch Lộc Nguyên, tiểu Hoàng tử triều Đường ra đời. Bỗng nhiên, Võ Tắc Thiên thấy hai con chu hoàn đậu trên bậu cửa sổ. Thượng Quan Uyển Nhi nói chu hoàn là chim thần, là điềm lành khi tiểu Hoàng tử ra đời. Nữ hoàng lại không nghĩ thế. Bà ta chỉ vào hóa thân chu hoàn của Tần Bắc Dương, “Con chim này nhìn thẳng vào hai mắt trẫm, đại bất kính, theo quy tắc thì phải chém!” Đám thị vệ rút đao, lấy lưới, nhảy ra định bắt đôi chu hoàn. Tần Bắc Dương và A U cất cánh, rời khỏi cung Đại Minh đao kiếm, là là trên mặt nước ao, bay khỏi thành Trường An. Bọn họ cùng bay, nhìn thấy Vị Thủy, nhìn thấy Hoàng Hà, nhìn thấy núi Thái Bạch nguy nga ở Tần Lĩnh, cuối cùng lại nhớ đến Bạch Lộc Nguyên. Bọn họ thấy một công trường rộng lớn vô tiền khoáng hậu, hàng triệu con người cặm cụi lao động như bầy kiến cần mẫn. Các nông phu bị chinh phạt nên phải đi lao dịch đang dùng các công cụ thủ công, vận chuyển hàng chục nghìn cân đá, các loại sắt thép và đồng xanh, còn có cả cây gỗ trinh nam được vận chuyển theo đường thủy từ Ba Sơn nước Thục. Trong công trường có rất nhiều lều trại, nhà kho, đương nhiên cũng có cả mộ của những người lao động mà chết. Ở trung tâm công trường là long mạch núi Chung Nam và Bạch Lộc Nguyên, có một cái giếng sâu xuất hiện. Cái giếng này như con mắt cả một vùng đất, như đôi mắt của A U, lặng lẽ nhìn lên bầu trời triều Đường. Trừ đôi mắt này, còn có một đôi mắt sắc bén khác trên gương mặt một người đàn ông trung niên. Người này mặc áo tay rộng, tay áo bay phấp phới, tiên phong đạo cốt tóc bạc phất phơ, vừa nhìn bầu trời, vừa nhìn A U và Tần Bắc Dương. Hai mắt người đó lóe sáng, đưa bàn tay có móng tay nhọn hoắt chỉ vào hai con chu hoàn, “Bắc Dương cũng đến!” Tần Bắc Dương và A U đang hóa thân làm chu hoàn, bay đến Bạch Lộc Nguyên 1200 năm trước, đôi cánh khống chế luồng không khí – đột nhiên cảm thấy bất an. Trong khoảnh khắc, dường như có luồng không khí nóng rực túm lấy cả hai người bọn họ. Hai con chu hoàn lao xuống mặt đất. Hàng trăm nghìn công nhân trên công trường hốt hoảng nhìn hai con chim to tướng lao xuống nhanh như chớp, nối đuôi nhau rơi thẳng vào giếng vàng của lăng mộ. Tần Bắc Dương rơi, A U rơi, lịch sử rơi… _________ Chú thích: (1) Chu hoàn: tương tự cò quăm mào. (2) Thừa Thiên Môn là Thiên An Môn hiện nay. (3) Đại Tần Cảnh Giáo: một chi phái Cơ đốc giáo truyền bá ở Trung Quốc vào thời Đường (4) Quách: lớp ngoài tường thành thời xưa (5) Tử Vi viên: là một trong tam viên, nhóm sao trong thiên văn cổ Trung Quốc, phân bố xung quanh cực bắc và nhóm sao Bắc Đẩu. Chúng được nhìn thấy quanh năm từ các vĩ độ trung bình của bán cầu Bắc.