← Quay lại trang sách

Chương 49-1 Thảm sát ở Tokyo (1)

Hoàng hôn ngày động đất KantoNgười Nhật Bản nói hoàng hôn là “thời khắc gặp ma”, âm dương luân phiên, yêu ma quỷ quái ẩn hiện, người độc hành trên đường sẽ bị mê hoặc mà lạc lối, thậm chí hồn xiêu phách lạc. Lúc đó ánh sáng ảm đạm, nếu ngược chiều ánh sáng mà tới, mọi người đều không thấy rõ mặt nhau, hễ gặp thoáng qua liền sẽ hỏi một câu: Bạn là ai? (誰 そ 彼), bởi vậy “hoàng hôn” trong tiếng Nhậtm mới là (たそがれ). “Em là ai?” Tần Bắc Dương không nhìn rõ gương mặt Hikari, cô tới từ hướng mặt trời lặn, ánh sáng như phết lên một lớp dầu hoàng kim trên làn da cô. “Em là Hikari.” Cô bé 16 tuổi đón ánh nắng chiều, đón đôi mắt anh trả lời. Cửu Sắc lông bờm dài màu đỏ, nghển cổ kêu tiếng ô ô, vỏ ngoài và da của nó toàn bụi cặn, và cả máu tươi và nội tạng khi cứu người. Tần Bắc Dương, Hikari và Haneda Taiki đi qua đường phố Tokyo bốc cháy hừng hực, dựa vào thần lực của thú trấn mộ nhỏ Cửu Sắc, một đường cứu giúp người nguy hiểm dưới đống đổ nát. Nhưng bọn họ không phải bác sĩ cũng không có thuốc, cứu người ra chỉ có thể đặt ở ven đường, tiếp tục lục soát một căn nhà đổ nát khác. Có vài người may mắn sống sót, có vài người sẽ bị tàn tật cả đời, còn có một số người không thể sống qua đêm đầu tiên sau động đất. Đêm tối buông xuống, trăng sáng treo cao. Bọn họ bước tới một nơi đất trống khổng lồ, xung quanh đều là người Nhật Bản ngủ ngoài trời, áo rách quần manh, kêu rên khắp nơi, bụng đói kêu vang. Có người bắt đầu săn giết chó hoang mèo hoang, săn ếch và cá trong hồ nước, mọi người xếp hàng dài mấy km chỉ vì chờ một nắm cơm cứu tế mỗi người một ngày. Tần Bắc Dương không muốn gây thêm phiền phức cho họ, anh tìm được một chỗ bằng phẳng, Cửu Sắc thì giữ vai trò chó săn, bắt giết mấy con quạ đen và hạc bị thương trong động đất – người Nhật coi nó là “báo”. Haneda Taiki nhóm lửa từ mấy tấm ván rách nát, nhanh chóng ngấu nghiến đồ ăn hoang dã. Hikari không thèm ăn, chỉ cắn mấy miếng liền đưa thịt quạ cho nạn dân phụ cận, kết quả vài trăm người vây lấy cô, suýt thì cũng coi cô là đồ ăn, vẫn là Tần Bắc Dương dùng vũ lực cứu cô ra. Cửu Sắc thì chán ghét thịt, giây lát không thấy tung tích đâu. Tần Bắc Dương cau mày hỏi: “Nó đói rồi!” Haneda Taiki lo lắng hỏi: “Nó muốn ăn người chết ư?” “Không, nó còn ăn thứ đáng sợ hơn cả thi thể.” Cách 1km, trên đài cao lấn biển ở vịnh Tokyo có một nhà máy dầu mỏ rất lớn, động đất biến mọi thứ thành tro bụi, xăng dầu rỉ ra và phế liệu độc cháy hừng hực, khói đen ngút trời che khuất ánh trăng. Cửu Sắc xông vào nơi đổ nát, giống Thao Thiết rơi vào phòng bếp, ngấu nghiến rác độc hại. Cái miệng to nuốt chửng mấy chục tấn phế liệu, lại bài tiết ra từ hậu môn, nhưng giữ lại bộ phận độc nhất ở trong cơ thể. Tần Bắc Dương từ xa nhìn thú trấn mộ nhỏ điên cuồng, nó đang thoả mãn dục vọng của những miếng linh thạch trong cơ thể, mới biến thành con quái vật như vậy. “Anh trai, anh không thấy rất đáng sợ ư?” Hikari thổi khí như lan bên tai anh: “Bốn năm trước, lúc chúng ta và Cửu Sắc phiêu bạt, nó không phải như thế!” “Người sẽ thay đổi, thú trấn mộ cũng thế!” Tần Bắc Dương nhìn địa ngục A Tì sau trận trộng đất, nhìn vịnh Tokyo bùng cháy lửa lớn: “Đây là thời đại long trời lở đất, hết thảy đều sẽ thay đổi!” Những thứ đồ đáng ghét như linh thạch mang chất phóng xạ này, có lẽ 100 năm sau, quốc gia này còn sẽ sinh ra ô nhiễm phóng xạ còn nghiêm trọng hơn… Lưới điện đã bị gián đoạn, lửa lớn suốt đêm lại chiếu sáng không trung như ban ngày, rực cháy lên tâm linh 200000 người Tokyo còn may mắn tồn tại. Cửu Sắc trở về, cả người dính đầy độc tố hoá học, nó thức thời không dám lại gần chủ nhân, lăn lộn tắm trong nước, cố gắng loại bỏ mùi tanh khí độc. Hikari phát hiện một chiếc máy đĩa hát từ đống đổ nát, hoá ra nơi này từng là quán bar. Máy đĩa hát mắc kẹt dưới gầm cầu thang, gần như không bị hư hại, bên trong có một chiếc đĩa nhạc “Le nozze di Figaro” (The Marriage of Figaro). “Mozart!” Dù sao cũng là công chúa nhà quý tộc, Hikari từng học âm nhạc cổ điển, rất thích bộ ca kịch do Mozart sáng tác này. Tần Bắc Dương nhỏ giọng hỏi: “Em thích ư?” “Phải, đáng tiếc không có điện, không thể nghe được.” “Đưa đây cho anh!” Anh dắt Cửu Sắc đi đống đổ nát tìm tòi, tìm được một ít đồ điện phế liệu, có ắc quy, máy biến áp, mạch chỉnh lưu và dây điện. Tần Bắc Dương lăn lộn hai tiếng, lợi dụng tri thức học được từ trường cao đẳng Kyoto số 3, thay đổi điện một chiều trong ắc quy thành điện xoay chiều, vì thế làm cho đĩa nhạc máy hát chuyển động… Le nozze di Figaro. Đêm đầu tiên sau trận động đất Quan Đông, lửa ngút trời vịnh Tokyo, trong nơi tị nạn, như kì tích mà nghe thấy tiếng hát người Ý vang lên. Bắt đầu từ Figaro ngâm “Non piu andrai” (No more will you go), sau đó đến người hầu nam Cherubino than ngâm “Voi che sapete che cosa è amor” (You who know what love is), tiếp đến là Rosina hát “Dove sono i bei momenti” (Where are they, the beautiful moments)… Tần Bắc Dương lại cải tạo rất nhiều loa, treo lên đầu những cây trụ kẹt trong đống đổ nát thê lương, điều âm lượng tới cao nhất lên trời, bảo đảm tiếng hát có thể vang rất xa. Anh nằm nghiêng trên chiếc sô pha rách nát, hai chân đặt lên lưng Cửu Sắc. Thú trấn mộ nhỏ nằm ngoan, làm cái đệm phong cách nhất cho chủ nhân, Hikari cũng kéo một chiếc sô pha đỏ lại gần, song song nằm cạnh Tần Bắc Dương. Tạm thời quên mất địa ngục động đất, nhàn nhã hai tay nâng gáy, nhắm mắt hưởng thụ khúc nhạc Mozart. Haneda Taiki gặm thịt quạ đen trên đống lửa, hừ theo vở diễn của Rosina và Susanna. Bài hát có tên gọi “Gió nhẹ hây hẩy thời gian”. Nhóm nạn dân khóc lóc trải qua đêm dài sau động đất, ngẩng đầu lên nhìn loa lớn, bỗng nhiên dị thường yên tĩnh. Cả Tokyo chỉ còn tiếng đùng vang ngọn lửa, và tiếng hai người phụ nữ Ý cùng ca hát, dường như còn say mê lòng người hơn khúc nhạc an hồn (Requiem). Tần Bắc Dương có thể nghe hiểu tiếng Nhật, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Anh kiểu Nhật và một chút tiếng Pháp, chỉ có tiếng Ý là dốt đặc cán mai. Anh không biết hai người phụ nữ Ý vang vọng Tokyo đêm nay rốt cuộc đang hát cái gì? Anh chỉ biết là tiếng hát tuyệt vời khó tả, xông thẳng lên trời sao đầy vong hồn, có lẽ vọng tới trung tâm vũ trụ… Anh thiếp đi. Hikari nhảy xuống sô pha, đắp cho anh tấm thảm lông, hôn lên gương mặt đầy râu của anh. Bình minh, ắc quy hết, “Le nozze di Figaro” kết thúc, người cũng phân tán.