← Quay lại trang sách

Chương 13-2 Từ Bắc Bình tới Đông Lăng

AHải xốc mành chiếc xe ngựa thứ hai lên, lôi lão thái giám Hà Thường Tại xuống. Tên hoạn quan này đã hơn bảy mươi tuổi, mặt mày trắng bệch, nhìn như một bóng ma, trên mặt chằng chịt nếp nhăn, hàm răng trống trải. Bím tóc trắng phau dựng đứng sau đầu như một bà lão phương Bắc sắp rụng hết tóc. Lão đưa tay che đi ánh nắng chói chang, nhìn như một cương thi có cơ thể không được hoàn chỉnh, như thể sẽ hóa thành tro bụi dưới ánh mặt trời ngay tức khắc. Nhìn thấy Long Phượng Môn trước Đông Lăng, thấy từng ngôi đền đài lăng tẩm tường đỏ ngói vàng, lão lập tức hoảng hốt quỳ rạp xuống dập đầuTrung Sơn khinh bỉ đá vào mông lão một cái: “Chờ mở quan tài con mụ già ấy ra rồi hẵng dập đầu” Sau Long Phượng Môn là Hiếu lăng của Thuận Trị đế, Hoàng lăng đầu tiên từ khi Mãn Thanh nhập quan, cũng là tổ lăng khai sơn lập miếu của Đông Lăng. Hoàng đế Thuận Trị lên ngôi từ khi còn nhỏ, si mê Phật pháp. Trong ba nghi án lớn nhất đầu thời Thanh, có một cái là Thuận Trị đế lên núi Ngũ Đài xuất gia, dân gian đồn đại là vì Đổng Ngạc phi, lại nghe nhầm đồn sai thành Đổng Tiểu Uyển. Dân chúng đều cho rằng Hiếu lăng là một ngôi mộ rỗng, không mai táng hoàng đế, cũng không có vàng bạc châu báu, nhờ vậy mà tránh được kiếp nạn trộm mộ những năm Trung Hoa Dân Quốc. Hai ngày trước, lão thái giám Hà Thường Tại đã nói cho A Hải một bí mật… Thuận Trị đế và quan tài đều được hỏa táng tại điện Thọ Hoàng núi Cảnh, tuân theo tục lệ mai táng của người Mãn tại Quan ngoại. Ba hũ tro cốt của Thuận Trị đế, Hoàng hậu và Đổng Ngạc phi được an táng tại Hiếu lăng dưới khe núi Mã Lan – Tuân Hóa. Sau đó bậc con cháu như Khang Hi, Càn Long, Hàm Phong, Đồng Trị chỉ có thể yên nghỉ ở xung quanh nơi này. Qua cầu đá bảy vòm, binh lính dẫn bọn họ rẽ ngoặt sang hướng khác, đi qua tháp bia Thần Công Thánh Đức của hoàng đế Càn Long, tới thẳng Định lăng ở góc trong cùng phía Tây. Mười ba lăng mộ nhà Minh cũng có một tòa Định lăng, chủ nhân ngôi mộ là Hoàng đế Vạn Lịch, mấy chục năm sau cũng không tránh khỏi tai họa trộm mộ. Định lăng Triều Thanh là lăng mộ của Hoàng đế Hàm Phong. Thời gian Hàm Phong tại vị lắm tai nhiều nạn, Thái Bình Thiên Quốc chiếm cứ nửa giang sơn, liên quân Anh Pháp đánh tiến Bắc Kinh, đốt trụi Viên Minh Viên, buộc ông phải chạy tới sơn trang nghỉ mát Thừa Đức rồi qua đời tại đó. Theo ông chạy trốn có một vị Hoàng hậu và một vị phi tử, sau này đều được chôn ở bên cạnh lăng mộ của ông: một vị là Thái hậu Từ An Hữu Nỗ Lộc thị, một vị khác là Thái hậu Từ Hy Diệp Hách Na Lạp thị. Thái hậu Từ An mới là hoàng hậu chính danh của Hoàng đế Hàm Phong. Từ Hy chẳng qua chỉ là phi tử, nhưng bà là mẹ của Hoàng đế Đồng Trị, mẹ quý nhờ con mới có thể trở thành Thái hậu. Từ An và Từ Hy địa vị ngang nhau, cùng buông rèm chấp chính hai mươi năm… Giai đoạn đó Trung Quốc do hai người phụ nữ này cùng nhau nắm giữ. Chẳng qua Thái hậu Từ An tính tình ôn hòa, đã sớm yên nghỉ nơi chín suối, nhờ họa mà được phúc, tránh được sự nhòm ngó của đám trộm mộ. Quan quân cung kính nói với A Hải: “Quân trưởng đang chờ trong điện Long Ân tại lăng mộ của Thái hậu Từ An” Trung Sơn chợt thấy căng thẳng như sắp tiến vào Hồng Môn Yến. Sắc mặt A Hải vẫn không chút thay đổi, xuyên qua hai tấm bia cảnh báo xuống ngựa, đình bia Thần Đạo, cầu đá ba vòm và Long Ân Môn, đặt chân lên thềm đỏ Phượng ở trên Rồng ở dưới, vậy là tới Long Ân Điện. Tiểu Mộc bước đi dưới ánh nắng chói chang, mồ hôi ướt đẫm, vừa bước vào cung điện u ám, sự mát lạnh đột ngột khiến hắn ta nhịn không được mà hắt hơi một cái. Ngai vàng trong cung điện đã bị tháo dỡ, bình phong và bài vị đều không còn, nhưng lại được lắp đặt đường dây điện thoại, trên tường dán bản đồ quân sự, thực sự trở thành một Bộ Tư lệnh. Tướng quân ngồi ở chính giữa, mặc quân phục Quốc Dân Cách Mạng, tuổi chừng bốn mươi, tóc hói nửa đầu, mặt đầy vết rỗ, hẳn là do từng mắc bệnh đậu mùa, chính là loạn thế kiêu hùng – Tôn Điện Anh. Sau khi trốn khỏi núi Thái Bạch, A Hải đã kết giao với rất nhiều quân phiệt Bắc Dương, trong đó có vị tướng quân có biệt danh “Tôn Mặt Rỗ” này. Hai năm trước, Tôn Điện Anh thuộc dưới trướng Trương Tông Xương, ăn nhờ ở đậu, gian nan khốn khổ, được A Hải tài trợ kinh tế. Một vài đối thủ của Tôn Điện Anh cũng là do A Hải phải thích khách đi giải quyết. Thấy bạn cũ tới thăm, Tôn Điện Anh đứng dậy đón chào, tự tay kéo ghế bành mời khách quý ngồi xuống, lại sai lính cần vụ đi pha trà, cũng đối xử với Trung Sơn, Tiểu Mộc và lão thái giám như khách quý. A Hải ôm quyền: “Đại soái, A Hải đến chào hỏi ngài” “Nói gì khách sáo vậy! A Hải huynh đệ, lần này có chuyện gì tốt tìm ông anh già này vậy?” Tôn Điện Anh cười ha hả, A Hải nâng ông ta lên tới địa vị ngang hàng với Trương Đại soái, Ngô Đại soái, sao có thể không vui cho được? “Đại soái, ngài đóng quân tại Đông lăng Triều Thanh, Bộ Tư lệnh thiết lập tại điện Long Ân của Thái hậu Từ An, cách vách chính là lăng mộ của Thái hậu Từ Hy, lòng dạ Tư Mã Chiêu người qua đường đều hiểu!” “Ha ha ha… Đúng là A Hải hiểu tôi nhất!” Tôn Điện Anh tự Khôi Nguyên, từ nhỏ đã vung đao múa thương, rất có khí chất du hiệp: “Thật không dám giấu diếm, lão Tôn đây cũng là bị ép! Ai không muốn nở mày nở mặt quyết chiến thắng bại trên chiến trường? Ai không muốn đánh hạ thành thị phồn hoa đô hội như Bắc Kinh, Thiên Tân? Hiện giờ tình thế căng thẳng, sắp phải thay đổi triều đại. Một chư hầu nhỏ bé như tôi, nếu chọn sai chiến tuyến, theo nhầm bá chủ, chẳng phải sẽ mất đầu như chơi?” “Thật ra tôi cảm thấy Đại soái đầu quân cho Quốc Dân Cách Mạng là một nước đi không tồi” Mấy tháng trước, Tôn Điện Anh vẫn là Quân trưởng Quân đoàn 14 liên quân Trực Lỗ thuộc quân phiệt Bắc Dương, tháng trước lại thoắt cái biến thành Quân trưởng Quân đoàn 12 của quân Quốc Dân Cách Mạng, toàn bộ đều dựa vào hơn một vạn nhân mã dưới trướng. “Nhưng sớm muộn gì Thường Khải Thân cũng sẽ ra tay với tôi” Tôn Điện Anh đi đến cửa điện Long Ân, chỉ vào kiến trúc lăng viên nguy nga tráng lệ: “Nếu đã như vậy, không bằng đi trước hắn một bước! Không chừng lại đào ra được núi vàng núi bạc, cũng giúp tôi hóa giải mối nguy trước mắt!” “Tôn Đại soái, A Hải tới Đông Lăng lần này chính là để giúp ngài một tay!” “Tôi đang suy nghĩ nên xuống tay như thế nào đây?” “Thật ra tôi có chút kinh nghiệm về việc đào mộ” A Hải nhìn lên mái hiên trên tường cung và nói: “Trộm mộ không thể dùng vũ lực, tuy thuốc nổ có sức mạnh không gì cản nổi, nhưng nếu dùng không đúng cách sẽ khiến tất cả kho báu nổ thành bột phấn. Đào mộ phải làm theo đúng cách thức thì mới có thể bảo đảm bản thân và báu vật đều an toàn. Chuyện đầu tiên chúng ta phải làm là xác định đào lăng mộ nào trước? Đông lăng có năm lăng mộ Hoàng đế, vô số mộ của Hậu phi, vương công và Công chúa, cần phải giải quyết từng cái một” “Đương nhiên là lăng mộ của Thái hậu Từ Hy!” Vết sẹo trên mặt A Hải ánh lên lấp loáng: “Năm xưa, lăng mộ của Thái hậu Từ An và Thái hậu Từ Hy được khởi công xây dựng cùng một lúc, hai cái nối liền chặt chẽ, hình dạng và cấu tạo gần như hoàn toàn tương đồng, như chị em sinh đôi, thể hiện địa vị bình đẳng của hai vị nương nương cùng buông rèm chấp chính. Nhưng sau khi Thái hậu Từ An hạ táng, Thái hậu Từ Hy lại không cam lòng hưởng thụ đãi ngộ ngang hàng với “tỷ tỷ”, năm Quang Tự thứ 21, bà ta đã hạ lệnh dỡ bỏ xây lại tòa lăng mộ đã được xây dựng hai mươi hai năm của mình… bao gồm Phương Thành, Minh Lâu, Bảo Thành, điện Long Ân, điện thờ phụ và các lò đốt từ Đông sang Tây. Cho nên bề ngoài tuy nhìn có vẻ giống nhau nhưng trên thực tế lại khác biệt rất lớn” “Tôi chỉ biết có rất nhiều cách thức, không phải người trong nghề thì không làm được việc này” Tôn Điện Anh xuất thân từ vùng đồng cỏ Trung Nguyên, từng làm thổ phỉ, nhiều lần tiếp xúc với đám trộm mộ: “Tôn Mặt Rỗ tôi xin thề ngay tại đây, chỉ cần A Hải huynh đệ có thể giúp tôi mở lăng mộ của Thái hậu Từ Hy, tất cả bảo vật đào được đều sẽ chia cho cậu hai phần!” “Người trong nghề ở ngay tại đây!” A Hải vươn tay choàng lên vai Tiểu Mộc và lão thái giám: “Không có hai vị này thì ai cũng không mở được lăng mộ của Thái hậu Từ Hy”