Chương 15-2 Địa cung của Lão Phật Gia
Tôn Điện Anh triệu tập đội quân cảm tử. Nhóm đầu tiên do ba quan quân dẫn đầu, mang theo vài người thân tín, tổng cộng hai mươi người, tất cả đều là những kẻ sẵn sàng liều chết. Mỗi người đều đã ký giấy sinh tử, xong việc sẽ được thưởng một trăm đồng đại dương, nếu bất hạnh bỏ mạng thì sẽ trợ cấp cho người nhà. Ông ta cũng cảnh cáo từ trước, tất cả quan binh đều chỉ được mặc một áo một quần, ra vào đều phải soát người kiểm tra, kẻ nào cất giấu bảo vật đều giết chết không tha. Tôn Điện Anh còn chuẩn bị rượu tiễn đưa cho bọn họ, giống như rượu chém đầu trước lúc lên pháp trườngA Hải, Trung Sơn, Tiểu Mộc và Hà Thường Tại đi đầu đội ngũ. Tiến sâu vào địa cung thăm thẳm giống như từ mùa hè chui vào trời đông giá rét, ai nấy đều rùng mình một cái. Lão thái giám cứ đi vài bước sẽ dập đầu một cái, các binh sĩ đằng sau đều nhịn không được muốn đá vào mông lão một cái. Đèn dầu và đuốc soi sáng phía trước, một làn sương mù đen kịt bốc lên, lại giống như đầu ti của phụ nữ, từ từ quấn lên từ lòng bàn chân mỗi người, trườn dọc theo bắp chân rồi tiến vào cơ thể… Có người sợ tới mức vấp ngã, vô tình bóp cò khẩu súng trường trong tay, bắn trúng binh sĩ đằng trước. Ngọn đèn dầu thoáng lay động, có người tưởng gặp phải hồn ma, nhao nhao lấy súng ra bắn. A Hải và Trung Sơn vội vàng kéo Tiểu Mộc nằm xuống, lão thái giám chẳng được trò trống gì, chỉ có bản lĩnh sinh tồn là số một, đã bò vào góc tường từ lâu. Pha nổ súng này kéo dài vài phút, tiếng kêu thảm thiết không ngừng vang lên, cho đến khi A Hải quát lớn một tiếng: “Còn chưa tới địa cung đâu! Đừng tự tàn sát lẫn nhau nữa!” Tiếng súng dừng lại, mọi người nơm nớp lo sợ đứng dậy, lại dùng đèn dầu soi chiếu, thấy bảy tám thi thể nằm trên nền gạch, tất cả đều bị người mình bắn chết. Đám người này ngay cả cửa mộ cũng chưa chạm vào đã phải cõng thi thể huynh đệ nhà mình ra ngoài. Tôn Điện Anh lại giáng cho tên quan quân một cái bạt tai, lập tức bổ sung nhân lực, một lần nữa tiến vào con đường dẫn tới lăng mộ. Lần này mọi người đã rút kinh nghiệm, xem như trải qua một lần diễn tập, không còn trông gà hóa cuốc nữa. A Hải nói với bọn lính rằng Tiểu Mộc là cao thủ trộm mộ, dừng trông hắn da dẻ trắng trẻo mà lầm, hắn chính là thủ lĩnh thôn trộm mộ Lạc Dương – Hà Nam. Số mộ cổ mà Tiểu Mộc từng đào lên trong đời không được một ngàn cũng tới tám trăm, không phải vẫn sống sờ sờ đó sao? Nhìn xẻng Lạc Dương trong tay hắn đi, đây là binh khí độc nhất của hắn. Chỉ cần can đảm cẩn trọng, tổ tiên tích âm đức, cho dù là trộm mộ cũng có thể sống tới bảy tám chục tuổi. Huống chi chúng ta cũng không phải trộm mộ mà là cách mạng. Cây đuốc chiếu sáng cánh cửa đầu tiên của ngôi mộ. Trên cửa có phù điêu đẹp đẽ tinh xảo, như thú mà không phải thú, như Phật mà không phải Phật, được điêu khắc từ một khối đá cẩm thạch hoàn chỉnh. Trên cửa còn có mái hiên chạm trổ bằng đá nhưng thoạt nhìn cứ tưởng là một cung điện bằng gỗ, có lẽ đây là tác phẩm của cha Tần Bắc Dương. Lão thái giám Hà Thường Tại lại dập đầu theo thường lệ. Đám lính dùng sức đẩy cửa, nhưng vẫn không lay động được gì, có người giơ xẻng và búa lên lại bị A Hải ngăn cản, sợ làm vậy sẽ động tới cơ quan nào đó. “Tiểu Mộc, chỉ ngươi mới có thể mở cửa ngôi mộ” A Hải choàng lấy vai Tiểu Mộc, đẩy hắn tới trước cánh cửa. “Để tôi xem đã” Tuy Tiểu Mộc từng trộm vô số ngôi mộ, nhưng hắn đã quen đào những ngôi mộ có từ một nghìn đến hai nghìn năm trước, mới nhất cũng có một hai trăm năm, nhưng chưa bao giờ đào một ngôi mộ nào mới như vậy… Địa cung mới phong bế chưa tới hai mươi năm lại khiến hắn cảm thấy căng thẳng. Lấy công cụ ra khỏi túi trộm mộ, đó là một thanh sắt vừa dài vừa nhỏ, đẩy vào giữa khe hở của cánh cửa. Mặc kệ là từ hai nghìn năm trước hay là từ hai mươi năm trước, Đỉnh Môn Thạch được truyền lại từ thời Tần Thủy Hoàng chưa bao giờ thay đổi, phương pháp mở cửa của đám trộm mộ cho dù có thiên biến vạn hóa cũng không thoát li khỏi nguyên lý căn bản. Hai tay Tiểu Mộc run run thao tác, làm đi làm lại một hồi lâu, cuối cùng cũng mở được cửa mộ. Cửa mở rồi! Lại một làn khói mù lúc mờ lúc tỏ bốc lên, mọi người vội vàng bịt khẩu trang, mấy tên quan quân còn đeo cả mặt nạ phòng độc, nhìn giống ma hơn cả ma. Tiểu Mộc không cần mấy thứ này, hắn đã quen với không khí trong mộ cổ. Hà Thường Tại vốn đã giống một bóng ma, giờ lại nhìn chằm chằm vào sâu trong hầm mộ bằng đôi mắt đục ngầu, giống như chủ nhân xa xôi đang gọi nô tài. Sắc mặt Trung Sơn thoáng thay đổi, cậu ta và lão Kim từng xuống mồ bắt thú trấn mộ, nhưng dù sao vẫn còn trẻ tuổi, nhìn thấy cảnh tượng này cũng thấy hơi khiếp vía. Duy chỉ có A Hải vẫn lạnh nhạt dửng dưng, kéo lấy cánh tay Tiểu Mộc rồi cùng song song đi vào cửa mộ. Đường vào mộ không có bậc thang, chỉ có sườn dốc thoai thoải kéo xuống lòng đất. Các binh sĩ đằng sau nối đuôi nhau tiến vào, xếp hàng chỉnh tề ngay ngắn, không ai dám nổ súng khi chưa nhận được mệnh lệnh. Đội binh lính thứ hai cũng theo sát và đứng canh hai bên lối đi, còn có bốn khẩu súng máy đặt ngay lối vào. Tôn Điện Anh đã lên kế hoạch từ trước, nếu xác chết Thái hậu Từ Hy sống lại thì lập tức dùng súng máy bắn chết. Cửa mộ cẩm thạch thứ hai đã xuất hiện, hình dạng và cấu tạo tương tự như cánh cửa đầu tiên. Tiểu Mộc lại lấy pháp bảo nhà nghề ra, nhét vào khe hở giữa cánh cửa, đẩy Đỉnh Môn Thạch ra theo phương pháp y hệt lần trước. Khoảnh khắc cánh cửa mở ra, một cơn gió mang theo âm khí chợt lùa tới, Hà Thường Tại ôm lấy cổ họng nhắc nhở một câu: “Bên trong chính là tẩm cung của Lão Phật Gia” A Hải vội vàng ra lệnh cho mọi người nằm sấp xuống, giống như lúc thao luyện binh lính thường ngày, đám lính đồng loạt nằm xuống mặt đất. Tiểu Mộc cũng cuộn mình trong một góc cạnh cửa, nương theo ánh lửa quan sát xung quanh. Hắn từng trộm vô số ngôi mộ, luyện được thị lực vượt xa người thường, cho dù ở trong mộ cổ tối tăm, nhưng chỉ cần có một tia sáng le lói, hắn vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng. Trong địa cung của lăng mộ Thái hậu Từ Hy, khói đen dần dần tản đi. Tiểu Mộc nín thở, vác xẻng Lạc Dương, gần như bò sát trên nền gạch, miệng ngậm một chiếc đèn pin chiếu sáng sương đen phía trước. Những người đằng sau có lớn gan hơn nữa cũng đã hàm trên hàm dưới va nhau cầm cập. Cuối cùng vẫn là A Hải và Trung Sơn kéo theo Hà Thường Tại đi vào hang đá trong địa cung. Đèn đuốc lần lượt tiến vào, phía trước càng lúc càng sáng sủa. Khói đen như mặt nước sóng sánh đang nâng đỡ một con thuyền gỗ đen kịt. A Hải nhớ tới quan tài của tiểu Hoàng tử triều Đường tại Bạch Lộc Nguyên, chẳng phải nó cũng trông giống một con thuyền gỗ sao? Hắn dặn dò mọi người bình tĩnh, đi tới bên cạnh Tiểu Mộc, dùng đuốc chiếu sáng lên chiếc “thuyền gỗ” kia. Quan tài của Thái hậu Từ Hy như một con thuyền chiến phá tan cuồng phong sóng lớn, như muốn đâm vào đá ngầm cho tới khi tan xương nát thịt. Trên nền gạch có một chiếc “bảo sàng” làm bằng đá cẩm thạch trắng, bên trên đặt một chiếc quan tài to lớn, đó là nơi yên nghỉ sau khi chết của kẻ độc tài đế quốc Mãn Thanh. Cỗ quan tài này giống như một căn phòng nhỏ, lại giống như một chiếc giường lớn có màn che, toàn bộ đều được làm từ gỗ lim tơ vàng vô giá của Vân Nam, không có mùi thối rữa của những ngôi mộ cổ, hạ táng chỉ mới hai mươi năm, đến nay vẫn còn nguyên mùi thơm của gỗ. Bề mặt quan tài được quét sơn bảy bảy bốn chín lớp, lại dùng chỉ vàng phác họa Tứ Đại Thiên Vương và Tạng Văn Kinh Chú. Lão thái giám vừa nhìn thấy quan tài, nước mắt đã tuôn như mưa, đúng kiểu “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”. A Hải dám khẳng định Thái hậu Từ Hy đang nằm trong quan tài. Trong địa cung còn có bệ đá đặt chiếu thư sách phong ghi lại thụy hiệu Từ Hy. Bốn phía chất đống những ngăn tủ nhỏ làm bằng gỗ tử đàn, đựng đầy vật bồi táng. Quan quân hạ lệnh không ai được động vào, cần phải mở quan tài ra trước cho quân trưởng xem xét rồi mới được hành động. Nhưng giữa nắp quan tài và thân thể không có một chút khe hở, đinh mới đóng hai mươi năm, không thể nào hư thối, chỉ có thể dùng búa bổ ra. Đám lính đã chuấn bị búa công binh từ trước, lúc này A Hải mới hỏi Tiểu Mộc: “Ngươi nói nên bổ từ đâu?” Tiểu Mộc không nhìn quan tài mà lại nhìn chằm chằm vào phía sau quan tài, một bóng đen bao phủ cả tầm mắt…