Chương 16-2 Phượng Hoàng liền cánh
Thú trấn mộ Tần Hải Quan chế tác cho Thái hậu Từ Hy đúng là một đôi thú trấn mộ độc nhất vô nhị. Theo lý mà nói, thú trấn mộ vốn là vật chí âm chí dương, nếu ở trong cùng một địa cung hẳn là phải bài xích lẫn nhau, còn có thể tàn sát lẫn nhau. Một núi không thể có hai hổ, một bầu trời không thể có hai mặt trời, một nước không thể có hai vua, làm thế nào mà hai con thú trấn mộ cùng giữ một mộ, cùng thờ một chủ? Nhưng nếu dùng thú trấn mộ “Phượng, Hoàng”, vốn chính là một trống một mái, một dương một âm, như sự huyền diệu của vạn vật trong thiên địa, hết thảy đều là âm dương cộng sinh, đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật… Tần Hải Quan là đại sư cuối cùng của tộc thợ mộ, nhưng lại hiểu rõ thấu đáo đạo lý này, dùng biện pháp tương phản đối lập thiết kế nên một đôi phượng hoàng trấn giữ phần mộ cho Thái hậu Từ Hy. Đúng như dự đoán, đôi thú trấn mộ Phượng Hoàng này như vợ chồng ân ái, chim Phượng bị súng máy Maxim bắn chết, chim Hoàng bịn rịn lưu luyến bên cạnh bạn đời, như đỗ quyên nhỏ máu, chết vì khóc thươngCả người chim Hoàng bùng lên ánh lửa, chiếu sáng một hàng chữ khắc trên thi thể chim Phượng, Tiểu Mộc mơ hồ nhận ra mấy chữ: “Phượng Hoàng liền cánh, lông bay phấp phới, trăm loài chim vây quanh. Chu vương hiền sĩ quây quần, phụng hiến trí tuệ, kính yêu thiên tử. Phượng Hoàng liền cánh, lông bay phấp phới, trăm loài chim cùng đón ánh bình minh. Chu vương hiền sĩ quây quần, phụng lệnh quân tử, bảo vệ nhân dân” Đoạn văn này được trích từ “Quyển A – Đại Nhã – Kinh Thi”. Thiết kế trái kinh phản đạo như vậy, chắc chắn phải được thông qua sự đồng ý của Thái hậu Từ Hy, nhưng đúng là bốn chữ “Phượng Hoàng liền cánh” đã làm lay động trái tim người phụ nữ mãn kinh này. Suy tưởng của Tiểu Mộc chỉ kéo dài được vài giây, tiếng đạn nóng rát lại rít lên bên tai. Bốn khẩu súng máy Maxim lại gào rú, mấy trăm đầu đạn bọc thép bắn thẳng vào ngực chim Hoàng. Những tay súng chạy trốn đều bị đội cảnh vệ của Tôn Điện Anh giết chết, lại thay một đám binh lính khác, bọn họ nhanh chóng thay đổi băng đạn rồi xông thẳng vào thú trấn mộ Phượng Hoàng, bóp chặt cò súng… Cuộc đồ sát thứ hai chỉ kéo dài chừng nửa phút, chim Hoàng đã ngã rầm xuống mặt đất, đè lên thân chim Phượng. Hai mắt nó nhìn vào Tiểu Mộc đang ngồi trong một góc địa cung, ánh mắt tối dần và lạnh lẽo, không còn chút ánh sáng. Phượng Hoàng liền cánh cứ thế ngã xuống tại cung điện trong lòng đất. Phượng và Hoàng, sinh cùng mộ, chết cũng cùng mộ. Một nhóm binh sĩ khác đã nhận được thưởng lớn xách theo “Hán Dương Tạo*” với lưỡi lê sáng loáng, từng bước tiến lên như đi trên băng mỏng, như muốn vật lộn với thú trấn mộ, hoặc là huyết chiến với xác chết vùng dậy của Thái hậu Từ Hy trong quan tài. *Hán Dương Tạo: Súng trường do xưởng chế tạo vũ khí Trung Quốc sản xuất, dựa theo súng trường kiểu 1888 của Đức. Máu tươi đầy đất, nội tạng và tứ chi đứt đoạn khiến cho địa cung Hoàng lăng triều Thanh như một lò mổ tanh tưởi. A Hải lớn mật thò ngón tay vào trong vết đạn trên người thú trấn mộ, xác nhận chúng đã không còn sức để giết người được nữa. Trung Sơn tỏ vẻ nho nhã đọc một đoạn thơ, là “Phượng Cầu Hoàng” của Tư Mã Tương Như thời Tây Hán: “Có một mỹ nhân, một lần gặp gỡ cả đời không quên. Một ngày không thấy mặt, nhung nhớ như điên. Cánh Phượng chao lượn, bốn bể tìm Hoàng. Đáng tiếc giai nhân không ở tường Đông. Tiếng đàn thay tiếng lòng, giãi bày tâm sự. Chờ ngày được gặp gỡ, an ủi nỗi bàng hoàng. Nguyện cầu đức hạnh xứng đôi, cùng nàng tay trong tay. Nếu không được, ta đau lòng mà chết…” A Hải quát lên: “Tiểu Mộc! Ngươi còn sống chứ?” Tiểu Mộc chui ra từ góc phòng, ngoại trừ kẽ ngón tay nứt vỡ, gần như không chút sứt mẻ. Sống sót sau tau nạn, A Hải tiến lên ôm chầm lấy Tiểu Mộc. Đám lính dọn dẹp địa cung, trước hết mang thi thể và những phần thi thể đứt đoạn ra ngoài, nhưng lại để hài cốt của hai con thú trấn mộ ở lại. Trong đống thi thể vẫn còn một người sống, thì ra là lão thái giám Hà Thường Tại. Đám trai tráng khỏe mạnh đều đã chết, chỉ có một lão già gần đất xa trời còn sống. Hà Thường Tại dập đầu với quan tài của Thái hậu Từ Hy, nói là Lão Phật Gia hiển linh phù hộ lão không chết. Trung Sơn lau khô vết máu trên mặt lão thái giám, cả gương mặt càng lau càng trắng, giống như mới bò ra từ quan tài. Mọi người tập trung trước quan tài của Thái hậu Từ Hy. A Hải cầm búa công binh trèo lên nắp quan tài màu đỏ tươi, đập xuống như dời non lấp biển. Hắn có thân hình vạm vỡ, còn vận dụng cả chân khí, chưa tới vài cái đã đập vỡ vỏ quan tài bằng gỗ lim tơ vàng. Phàm là lăng mộ Đế vương thì đều có quan tài bên ngoài và quách bên trong, quách của Thái hậu Từ Hy lộ ra dưới ánh đèn, cũng là một chiếc quan tài màu đỏ dát vàng, chỉ là nhỏ hơn quan tài bên ngoài hai vòng. A Hải đưa tay gõ lên nắp quách, còn lão thái giám Hà Thường Tại đã xụi lơ trên mặt đất từ lúc nào. “Thái hậu Từ Hy nằm ở đây!” A Hải thở hắt một hơi: “Mời Tôn đại nhân mở nắp!” Tôn Điện Anh đi vào địa cung trong sự hộ tống của các thân binh, vòng qua hài cốt hai con thú trấn mộ trên mặt đất, kinh hãi nói: “A Hải huynh đệ, tuyệt đối đừng mở nắp bằng vũ lực, tránh phá hỏng bảo bối trong quan tài” Tiểu Mộc nhắc nhở bọn họ có thể đục vài lỗ hổng bên dưới nắp quan tài, sau đó lại cạy nắp ra, đây là kinh nghiệm có được nhờ nhiều năm trộm mộ. A Hải tự mình ra tay, dùng búa bổ ra một khe hở hình chữ nhất. Vài tên binh sĩ thân thể tráng kiện đâm lưỡi lê vào lỗ hổng, nghe được trong quách vang lên một tiếng “rắc”. Tôn Điện Anh vuốt ngực lùi lại mấy bước, các quan quân đều tự lấy vũ khí ra. Tiểu Mộc cầm xẻng Lạc Dương lên, cẩn thận cạy mở quan tài, A Hải và Trung Sơn đều tới hỗ trợ, nhẹ nhàng dỡ nắp quan tài đặt xuống nền gạch. Quan tài của Thái hậu Từ Hy mở ra rồi. Không có mùi hư thối như trong tưởng tượng, ngược lại còn phảng phất một mùi thơm lạ lùng, giống như hương liệu cổ xưa phả vào mũi mọi người, giống như hải đảo Nam Dương tràn ngập mùi đàn hương và đậu khấu. Quan tài tỏa ra ánh sáng đỏ chói mắt, khiến tất cả đèn đuốc đều trở nên mờ nhạt. Tôn Điện Anh che mắt lại theo bản năng, bịt đôi môi đang run rẩy lại và nói: “Tiểu Mộc huynh đệ, mời cậu tiến lên xem trước…” Tiểu Mộc biết mình tránh không khỏi, lẳng lặng đi tới bên cạnh quan tài, kiễng mũi chân lên nhìn vào bên trong… Chủ nhân địa cung còn chưa lộ mặt bởi có một tấm ván mỏng che khuất. Tiểu Mộc từng nhìn thấy trong lăng mộ của các vương công thời Minh Thanh, thứ này gọi là “ván Thất Tinh”, bề mặt dùng lá vàng và chỉ vàng vẽ nên hình ảnh kinh văn và Bồ Tát. Dưới “ván Thất Tinh” là một tấm chăn được đính hàng ngàn viên ngọc trai, được gọi là “chăn Võng Châu”. Tiểu Mộc nín thở tập trung rồi mới xốc “chăn Võng Châu lên”. Lần này, ánh sáng chói lòa lại bùng lên, giống như núi lửa phun trào, chiếu sáng mái vòm trong địa cung, giống như cung điện pha lê của Đông Hải Long Vương, bốn vách tường dập dờn ánh nước. Cuối cùng, Tiểu Mộc cũng nhìn thấy gương mặt của bà ta.