Chương 17-1 Diệp Hách Na Lạp thị
Đạo Quang năm thứ mười lăm, mùng 10 tháng 10 âm lịch, chào đời tại ngõ Phách Sài cổng chào Tây Tứ thành Bắc Kinh, hiện là ngõ Bích Tài; phụ thân là Diệp Hách Na Lạp Huệ Chinh, vốn là người Tương Lam Kỳ, không phải quý tộc Mãn Châu, sau đó cha quý nhờ con mới thăng lên Tương Hoàng Kỳ trong Thượng Tam Kỳ. Huệ Chinh xuất thân là giám sinh, từng làm một chức quan nhỏ cấp bậc Bút Thiếp Thức*, từng giữ chức Đạo Viên ở địa phương*Bút Thiếp Thức: Chức quan nhỏ thời Thanh, có chức trách phiên dịch tấu văn Mãn – Hãn. Sách sử rất ít khi lưu danh nữ nhân, cao quý như nữ hoàng Võ Tắc Thiên cũng chỉ để lại cho mình một chữ “Chiếu” trong “nhật nguyệt nhô cao”. Có người nói, lúc còn nhỏ nữ chủ nhân của phần mộ này có tên là “Hạnh Nhân Cô”, bởi vì trong sân tứ hợp viện có trồng một cây bạch hạnh, ông nội đặt tên cho bà ta là “Hạnh Trinh”. Cũng có người nói bà ta vốn là người Hán, sinh ra tại một vùng nông thôn Sơn Tây, vốn là họ Vương, lúc nhỏ được Tri phủ Lộ An – Huệ Chinh nhận làm con nuôi, đổi tên thành “Ngọc Lan”, giả mạo con gái ruột vào cung tuyển tú… Lời đồn này vẫn còn nhiều nghi vấn. Mười bảy tuổi, bà ta trở thành Lan Quý nhân của Hoàng đế Hàm Phong, hai năm sau được tấn phong Ý tần. Khi đó, một nửa giang sơn đế quốc đã mang họ Hồng, Thiên Vương phía Bắc lăm le Yến Kinh như hổ rình mồi. Hai mươi mốt tuổi, bà ta sinh hạ hoàng tử duy nhất cho Hàm Phong đế, mẹ quý nhờ con, tấn phong Ý Quý phi. Bà ta và Võ Tắc Thiên đều văn hay chữ tốt, thường được Hoàng đế nhờ phê duyệt tấu chương thay mình. Vận mệnh bốn trăm triệu người đế quốc đều nằm dưới đầu bút lông trong tay bà ta. Hai mươi lăm tuổi, giặc Tây đánh vào thành Bắc Kinh, thiêu rụi Viên Minh Viên, bà ta theo Hoàng đế chạy tới Nhiệt Hà. Qua năm sau, bà ta thành quả phụ, đứa con sáu tuổi lên ngôi Hoàng đế. Trước lúc băng hà, Hàm Phong đế để lại tám cố mệnh đại thần, nhưng bà ta lại chán ghét tám gã đàn ông kia. Năm Tân Dậu, bà ta học được cái gọi là chính biến, giết chết Túc Thuận và các cố mệnh đại thần khác. Bà ta trọng dụng đám trọng thần người Hán – Tằng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Tả Tông Đường, khai sáng “Trung Hưng Đồng Trị”. Bốn mươi tuổi, đứa con duy nhất của bà ta qua đời. Bà ta chán ghét con dâu của mình, ép cô gái đáng thương kia phải nuốt vàng tự sát, chôn cất cùng chồng mình tại Huệ lăng – Đông Lăng. Ba mươi năm sau, bà ta cũng xuống mồ, cách mộ của con trai và con dâu chừng mấy ngàn bước. Tên gọi lịch sử ban cho bà ta là Diệp Hách Na Lạp thị, huy hiệu Từ Hy, thụy hiệu Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu. Hai mươi năm nữa, bà ta thức tỉnh trong lăng mộ. Diệp Hách là một trong những dòng họ lâu đời nhất tộc Nữ Chân, những năm đầu thời Minh, Diệp Hách Na Lạp thị và Ái Tân Giác La thị chinh chiến liên miên, trở thành kẻ thù truyền kiếp. Sau khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích vùng lên mới hoàn toàn chinh phục Diệp Hách Na Lạp, từ đó mới có câu “Sẽ có ngày Diệp Hách diệt Kiến Châu”. Đã sáu mươi năm từ khi Triều Thanh diệt vong. Bà ta vẫn nhắm mắt, nhưng không giống người chết mà chỉ như đang ngủ thiếp đi. Người đánh thức bà ta là ba gã đàn ông: Một người mặc quân trang, mặt đầy rỗ; một người mặc đồ đen, má phải có một vết sẹo như con rết; người còn lại mặc quần áo trộm mộ, da mặt trắng nõn, mi mục thanh tú. Ba người đứng chụm đầu bên cạnh quan tài, hai mắt đều bị vàng bạc châu báu lóe mù, qua hồi lâu mới thích ứng với ánh sáng chói lóa này, thấy rõ người nằm trong quan tài. Khi chết bà ta đã bảy mươi ba tuổi, dung mạo lại như phụ nữ trung niên. Thợ chụp ảnh Tây Dương từng chụp ảnh cho bà ta, các phu nhân công sứ cùng bà ta xem kịch dạo vườn đều nói bà ta trẻ trung xinh đẹp hơn tuổi thật, làn da và khí sắc đều vô cùng tốt. Lúc ngủ say trong quan tài, bà ta vẫn giữ được dung mạo khi còn sống, chỉ là có thêm một lớp phấn dày ngăn cách với không khí. Đối với người sống thì không khí là nguồn sống, nhưng đối với người chết, không khí chính là nụ hôn tử thần. A Hải tuy nghiến răng nghiến lợi nhưng thở cũng không dám thở mạnh. Tôn Điện Anh suýt nữa ngã sấp xuống, ý chí cách mạng đều tan thành mây khói. Trong địa cung còn vang lên tiếng dập đầu “bình bịch”, đầu tiên là đến từ lão thái giám Hà Thượng Tại, sau đó là đám binh lính và quan quân khác. Tiểu Mộc để ý thấy hai tay bà ta đặt trên bụng, cắm một nhành hoa sen. Mu bàn tay bị ống tay áo Long Phượng bào che phủ, giáp móng tay dài nhỏ sắc bén như vuốt ưng, đính đầy vàng bạc châu báu ngọc bích kim sa… Đây không phải móng tay mọc dài ra sau khi chết mà giặc trộm mộ vẫn truyền tai nhau mà là phong tục để móng tay dài của quan lại quý nhân cuối thời Thanh. Thái hậu Từ Hy chính là người mở đầu cho trào lưu này, người để móng tay dài chứng tỏ không cần làm việc, không cần lao động chân tay. Sự phân chia giai cấp xã hội cuối thời Thanh chủ yếu là nhìn vào độ dài ngắn của móng tay. Nhưng giữa các móng tay và ống tay áo lại lộ ra mấy đầu ngón tay, tất cả đều mọc lông trắng, dài hơn một tấc, giống như đậu phụ để quá hai ngày không ăn. Bà ta không phải đang ngủ mà là đã chết. Chỉ là thời gian bị nhét trong hộp kín đã biến hai mươi năm lắng đọng lại chỉ còn hai mươi giây. Hai mươi giây sau, dung nhan bắt đầu tiến hóa. Không khí chính là tử thần của người chết, không khí như đao nhọn, không khí như đạn pháo, không khí như độc dược, không khí như lửa cháy, không khí vừa chạm vào bề mặt thi thể, làn da của bà ta đã bắt đầu co rút kịch liệt. Gương mặt vốn chỉ hơn bốn mươi tuổi bỗng chốc biến thành lão bà mặt đầy nếp nhăn, gò má và hốc mắt lõm xuống, môi khô nứt nẻ, làn da tái nhợt trở nên đen đúa, cuối cùng hóa thành bộ mặt cương thi. Tôn Điện Anh đã ngã nhào ra đất, A Hải cũng vùng vẫy hai cái, chỉ có Tiểu Mộc là vẫn không chút sứt mẻ, tình huống này nằm trong dự đoán của mọi người. Người ta không bao giờ có thể ăn được kem mà không phải mở cánh cửa tủ lạnh. Lão thái giám bị lôi tới bên cạnh quan tài, bị ép nhìn gương mặt thối rữa của Thái hậu Từ Hy để chỉ ra đặc điểm chính của mỗi một bảo vật. Hà Thường Tại nước mắt nước mũi giàn giụa, dao găm của Trung Sơn kề sát trên cổ, cho dù sống đến chừng này tuổi, nhưng khát vọng sống vẫn không thua kém gì người trẻ, the thé giọng than thở: “Lão Phật Gia, Tiểu Hà Tử xin lỗi ngài, Tiểu Hà Tử còn muốn sống thêm vài ngày” A Hải vỗ vai Tiểu Mộc, không cần nhiều lời, đã đến lúc hắn trổ tài. Hai binh lính khiêng một tấm ván gỗ tới cho Tiểu Mộc bò lên đó, toàn thân và thi thể song song, hai tay thò ra ngoài, có thể mò vào trong quan tài. Dưới sự hướng dẫn của Hà Thường Tại, Tiểu Mộc chậm rãi gỡ mũ phượng Cửu Long Hí Châu trên đỉnh đầu Thái hậu Từ Hy xuống, thuận tiện kéo ra mấy sợi tóc đen nhánh, không biết có phải đã được nhuộm đen hay không. Mũ phượng khảm ngọc trai đá quý, có một viên ngọc trai lớn như trứng gà, đặt vào lòng bàn tay cân thử khoảng chừng bốn lượng. Tiểu Mộc biết rõ giá thị trường của đồ cổ, chỉ cần mở nắp quan tài ra là đã có thể nhẩm ra giá trị ước tính. Nhưng viên ngọc trai trên mũ phượng thật sự nằm ngoài phạm vi đo lường tính toán, quả thực là một con số thiên văn. Chăn Đà Ni Kinh dệt bằng vàng phủ lên xác chết, lót gấm màu minh hoàng, sợi vàng dệt thành Đà La Ni Kinh Văn dày đặc. Tiểu Mộc xốc hai đầu chăn lên trước một cách thành thạo, giống như gỡ tấm vải trên người xác ướp. Đám lính khiêng ván gỗ thay đổi phương hướng, Tiểu Mộc mò từ đầu tới chân Thái hậu Từ Hy, lấy ra một đóa hoa sen bằng ngọc bích… Lá sen trên đỉnh đầu, chân đạp hoa sen, chính là “bộ bộ sinh liên”. Tiểu Mộc lấy hai cây bắp cải bằng phỉ thúy ra, lá xanh tâm trắng, giữa tâm cải trắng có một con dế màu xanh biếc, bên cạnh lá cải có hai con ong vò vẽ… Bạch ngọc phỉ thúy và đá hình thịt kho tàu ngày sau lại trở thành bảo vật trấn quán của Cố cung Đài Bắc. Trong hai trăm năm nhà Thanh tồn tại, trình độ thẩm mỹ của người Trung Quốc thật sự đi lùi. Một cây san hô, sáu con ngựa phỉ thúy, mười bức tượng Phật vàng và ngọc bích, tượng mười tám vị La Hán, một trăm lẻ tám bức tượng Phật bằng ngọc… Đều được các thân binh xếp vào hộp gỗ dưới sự giám sát của Tôn Điện Anh. Cuối cùng, dưa hấu phỉ thúy cực lớn được bê ra, ánh sáng rực rỡ khiến hai tay Tiểu Mộc run lên, giống như một quả dưa hấu còn chưa chín, chờ đao bổ xuống sẽ lộ ra thịt quả đỏ mọng.