Chương 38-3 Lan Đình tập tự
Sắc mặt Trung Sơn cũng trở nên tái nhợt, thú trấn mộ Mười Sừng Bảy Đầu thò tới ba cái đầu, muốn xem rốt cuộc trên tờ giấy này có thứ gì ghê gớm?Dòng thứ tư, từ trên xuống dưới… Hữu sùng sơn tuấn lĩnh mậu lâm tu trúc hựu hữu thanh lưu kích. *Có núi non hùng vĩ; rừng xanh tươi tốt, trúc vút cao. Dòng này có chỗ khác biệt, “sùng sơn” là hai chữ nhỏ, nằm giữa “hữu” và “tuấn lĩnh”, rõ ràng là lúc viết bỏ quên, sau mới thêm vào, giống như học sinh tiểu học lúc viết văn thường chèn thêm hai chữ. “Tuấn lĩnh” (“lĩnh” – 领: cổ áo) thực ra là “tuấn lĩnh” (“lĩnh” – 嶺), chữ “lĩnh” (领) quên mất chữ “sơn” (山) trên đỉnh đầu… Phía sau còn có 24 dòng chữ, tổng cộng 28 dòng. Hai mắt Tề Viễn Sơn như máy ảnh, từ chữ “Vĩnh” đầu tiên quét tới chữ “văn” cuối cùng, tổng cộng 324 chữ. Cổ nhân viết, đương nhiên không có dấu chấm câu. Tề Viễn Sơn tự động ngắt câu, đọc thầm một lần. Đọc câu đầu tiên, trong đầu Tề Viễn Sơn đã hiện lên bốn chữ kia. Nhưng trong lòng anh ta nghi hoặc, vì sao vật báu vô giá này lại ở trước quan tài của Đường Cao Tông Lý Trị trong lăng Càn? Chẳng lẽ không phải nên được đặt trong Chiêu lăng của Đường Thái Tông Lý Thế Dân sao? Nhìn lại cả ánh văn, còn có rất nhiều dấu vết tẩy xóa và chỉnh sửa, nhưng đấy đúng là minh chứng cho lối viết tùy tính của “Thư Thánh”. Toàn văn 21 chữ “chi”, mỗi chữ một bút pháp khác biệt. Có chữ giống như Lão Tử xuất quan, có chữ giống như Khổng Tử luận đạo, có chữ lại như Trang Chu mộng điệp, có chữ lại như binh pháp Tôn Tử, thậm chí có chữ giống như Phật Đà ngộ đạo dưới gốc bồ đề. 324 chữ giống như 324 linh hồn, những chữ giống nhau lại độc lập khác biệt, đều tự do cô độc, đều tự mình tỏa sáng. Tề Viễn Sơn dụi mắt, giống như những chữ viết này bước ra từ trang giấy, co duỗi tứ chi ngũ thể*, hoặc ngẩng đầu đứng lặng, hoặc cúi đầu trầm tư, hoặc tay áo múa may, hoặc bơi lội mặt nước… *Gân, mạch, thịt, da, xương. Há chỉ là tác phẩm của Thư Thánh, tuyệt đối là thần tác có một không hai. Tề Viễn Sơn và A Hải nhìn nhau một cái, như thần giao cách cảm, đối mắt với cuốn sách bằng giấy kén tằm này, ngay cả thở thôi cũng có tội. Bọn họ đặt lại quyển sách vào hộp Lam Điền như lúc ban đầu, lại để sách tang của Cao Tông Lý Trị ở bên ngoài. “Lan Đình tập tự!” Trung Sơn thở dốc một hơi, run rẩy nói ra bốn chữ này. Trộm mộ Tiểu Mộc cũng nhìn ra manh mối: “Đây là bản chính ‘Lan Đình tập tự’ của Vương Hi Chi!” “Vĩnh Hòa năm thứ chín là niên hiệu của Đông Tấn. Tết Thượng Tị mồng 3 tháng 3, Thư Thánh Vương Hi Chi và Tạ An, Tôn Xước cùng bốn mươi hai vị văn nhân mặc khách, quan lại quý tộc hội tụ tại Lan Đình – Sơn Âm “trừ tà”. Cổ nhân lưu lành “thả chén đặt thơ”, đặt chén rượu vào con suối, thả trôi theo dòng nước, dừng lại trước mặt ai thì người đó phải ngẫu hứng làm thơ uống rượu. Ngày hôm đó, có mười một người mỗi người sáng tác hai bài, mười lăm người mỗi người sáng tác một bài, hợp thành ‘Lan Đình tập’. Vương Hi Chi viết lời tựa, dùng bút lông chuột viết lên giấy kén tằm, thiên hạ đệ nhất hành thư ra đời từ đó” A Hải thao thao bất tuyệt, lúc này Tề Viễn Sơn mới sực nhớ ra ba của A Hải – Kim Ngọc Quân – chính là đại sư thi họa và danh thủ cờ vây Triều Tiên, có tiếng dòng dõi bác học kiến thức sâu xa. “Người cùng người tương hội chỉ là trong thoáng chốc!” A Hải đọc lên vài câu trong “Lan Đình tập tự” một cách trôi chảy: “Đời tôi lăn lộn hồng trần, khổ vì công danh lợi lộc, một vì thiên hạ, một vì báo thù, lại ‘không biết tuổi già ập tới’, ‘huống chi cuộc đời dài ngắn biến hoá, rồi cũng đến lúc tận chung’” “Sinh tử là việc lớn!” Tề Viễn Sơn đột nhiên thấm thía được cảm xúc nào đó của Vương Hi Chi: “Người sau xem lại, sẽ vì lời thơ mà gợi niềm thương cảm hơn chăng” A Hải kéo Tề Viễn Sơn quỳ xuống dập đầu: “Thư Thánh tại thượng, xin nhận một bái của chúng con! Tự ý xông vào địa cung lăng Càn là tội lớn. Nhưng thời thế không thuận lòng người, thiên hạ đại loạn ngay trước mắt, anh hùng xuất hiện lớp lớp, tranh giành Trung Nguyên, nhòm ngó ngôi báu thiên hạ” Tề Trung Sơn nhíu mày nói: “Hiện tại chỉ có bản sao ‘Lan Đình tập tự’ còn tồn tại trên đời, nổi tiếng nhất là bản sao của nhà thư pháp Phùng Thừa Tố thời Đường Thái Tông, đặt giấy vàng cứng trên bản gốc, đưa bút đồ theo, không chút khác biệt, giống như ảnh chụp của đời sau, được gọi là ‘Lan Đình tập tự bản Rồng thần’, hiện đang được cất giữ trong Cố Cung” “Tương truyền Đường Thái Tông có để lại di chúc, muốn đặt bản gốc ‘Lan Đình tập tự’ vào hộp ngọc chôn cùng” Tề Viễn Sơn nói tiếp lời em trai mình: “Không ngờ, bảo bối này lại bị con trai của ông ta là Đường Cao Tông Lý Trị mang đến nơi này!” “Ôn Thao – Tiết độ sứ Diệu Châu – Hậu Lương từng đào Chiêu lăng của Đường Thái Tông, phát hiện một cái hộp sắt trên giường đá phía Đông và phía Tây của quan tài Lý Thế Dân, bên trong cất giấu vô số thi họa, nhưng lại không phát hiện ‘Lan Đình tập tự’” Tề Viễn Sơn nhìn hộp ngọc Lam Điền: “Chẳng lẽ Lý Trị lại làm trái di chúc của Lý Thế Dân, giữ lại ‘Lan Đình tập tự’ cho mình mà không chôn trong địa cung Chiêu Lăng?” “Tương truyền Võ Tắc Thiên khi mới vào cung hầu hạ Đường Thái Tông đã bị Hoàng đế ảnh hưởng mà luyện tập thư pháp của Vương Hi Chi. Đường Thái Tông hỏi Thái tử Lý Trị về nội dung chủ yếu của ‘Lan Đình thi tập’, Lý Trị cứng họng, Võ Tắc Thiên mới âm thầm nhắc nhở, Lý Thế Dân nổi giận, ông nói có ba vấn đề chính, nếu Võ Tắc Thiên không đáp được sẽ bị lôi ra ngoài đánh chết. Ai ngờ Võ Tắc Thiên lại đối đáp trôi chảy, suy một ra ba, khiến Đường Thái Tông phải nhìn với con mắt khác. Có lẽ việc này đã gieo mầm mống cho việc Võ Tắc Thiên tái giá cho Lý Trị sau khi Đường Thái Tông qua đời” “Lý Trị giữ lại ‘Lan Đình thi tập’ có lẽ là ý của Võ Tắc Thiên? Chờ khi Lý Trị băng hà, bèn đặt món bảo vật này cùng với sách tang ngọc, thờ phụng trước quan tài của Hoàng đế” Tề Trung Sơn vuốt một cái đầu của thú trấn mộ Mười Sừng Bảy Đầu và nói: “Có khi nào ‘Lan Đình tập tự’ vừa chôn cùng với Đường Cao Tông Lý Trị, cũng chôn cùng với Võ Tắc Thiên?” “Vậy quan tài của Nữ hoàng ở đâu?”