← Quay lại trang sách

Phần thứ nhất - VII & VIII

Ở nhà người dì ghẻ ra, Bỉnh lững thững bước một trên con đường làng lát gạch. Chàng không muốn về vội. Vì chàng biết rằng vợ chồng Trình và vợ chồng Khoa đương chờ tin tức cuộc hội kiến của chàng với bà Bà. Mà chàng chưa quả quyết nên trả lời họ ra sao. Nói ngay tất cả sự thực hay đợi thong thả để họ tự hiểu tình thế đã. Chàng nghĩ thầm: “Nói đột ngột thì chắc thế nào hai người cũng từ chối thì cũng hơi vô lý”.

Bỉnh cười lẩm bẩm: “Vô lý! Vô lý quá! Cô ta đâm ra tử tế chăng?”

Chàng nhớ lại diện mạo người đàn bà mà chàng thấy hiền lành hơn trước nhiều, có vẻ phúc hậu nữa: “Hay vì cô ta mộ đạo Phật, vì đức Như Lai đã mở mắt, khoan tai cho cô ta!” Lần thứ hai chàng cười lên tiếng: chàng không thể tin rằng người đàn bà ấy lại mộ đạo đến nỗi cải ác vi thiện được!

Chàng trang nghiêm nghĩ tiếp: “Nhưng có gì là vi thiện đâu? Mình cứ đứng về phương diện tiền là nghĩa lý quái gì! Biết đâu cô ta không vì sợ hãi... Phải, sống cái đời sống trơ trọi chưa đáng ghê sự, chưa đáng rùng rợn, nhưng trơ trọi sau khi chết, chẳng ai cúng giỗ... Đích rồi đích thế rồi, chứ có gì là cải ác, có gì là vi thiện? Chẳng qua chỉ là ích kỷ. Lúc sống vơ vét để làm giàu, rồi khi trở về già sửa soạn cho cái chết được long trọng, cho linh hồn sau này sẽ được có người cúng lễ. Sống ích kỷ, chết ích kỷ! Cái linh hồn ích kỷ ấy còn siêu thăng tịnh độ sao được mà tu với hú!...”

- Thưa anh đi đâu đấy ạ?

Bỉnh quay nhìn: chàng đã đi qua con đường hẻm rẽ về nhà. Đứng dưới cái vòm cổng, lố nhố bốn, năm người đàn bà, trong số đó có Tính và Chuyên. Nhận ra được hai em dâu, Bỉnh mỉm cười đáp:

- Không, tôi về nhà đây thôi.

Chuyên cười:

- Sao anh lại định đi thẳng?

Tính nói tiếp:

- Ý chừng bác huyện lâu nay không về, quên mất cả đường rồi.

Người đàn bà đứng bên, mà Bỉnh chưa nhận ra ai, cười khanh khách nói đùa:

- Chà! Ngài đương quên, ngài định mò ra xóm Đông đấy thôi.

Bỉnh đã rẽ vào tới cổng.

- À, bác phó, bác bảo tôi mò ra xóm Bông làm gì?

- Làm gì thì quan lớn biết chứ, cần gì phải hỏi tôi?

Cả bọn cùng cười. Bỉnh ngơ ngác:

- Nhưng tôi không hiểu.

Tính nói:

- Bác phó nói ý bác ra xóm Đông xem mặt vợ lẽ, xem mặt cái... à à... chị Suốt ấy mà.

- Bác chỉ nói bậy! Tôi đã thề không lấy vợ lẽ.

- Ô chào! Quan lớn thề cây khoai giữa đồng!

- Thực mà! Tôi thề với hai chú cháu, cả hai chú cháu cũng thề. Không tin rồi bác hỏi hai chú cháu mà xem.

Bà phó Quang mặt tâng hẩng, trơ trẽn.

Suốt là cháu bà, bà vẫn ước ao được vào “hầu hạ quan huyện”, nên nghe người ta huyên truyền cái tin Bỉnh muốn lấy vợ lẽ người làng, bà như mở cờ trong bụng. Suốt là người có nhan sắc lại vừa đến tuổi cập kê, ở trong làng còn ai không biết. Cả ông huyện Bỉnh cũng không lạ. Vì một lần bà có nghe chồng bà nói với bà rằng “quan huyện” khen mãi con bé đẹp quá. Vì thế, nay bà mới gợi chuyện để dò ý tứ Bỉnh.

Chuyên mỉm cười:

- Các ông thề độc thế?

Bỉnh, giọng bí mật!

- Để báo thù Troisième.

Ai nấy ngơ ngác không hiểu. Nhưng tiếng “troisième” nhắc Chuyên nhớ tới cuộc hội kiến của anh chồng. Nàng rủ Tính ra cổng chờ Bỉnh về để hỏi thăm tin tức, rồi liên miên chuyện nọ chuyện kia nàng đã quên bẵng đi.

- Thế nào, anh?

- Còn thế nào nữa. Cám ơn bác phó có lòng tốt, nhưng quả không sao được.

- Không, em hỏi anh về việc anh sang bên ấy kia chứ.

- À!... Để tí nữa về nhà nói chuyện.

Bà phó Quang và hai người đàn bà lạ biết anh em Bỉnh có việc kín không muốn để lộ cho ai hay, liền chắp tay chào từ biệt.

Bỉnh và hai em dâu yên lặng vào trong nhà. Trình và Khoa đứng ở sân chừng cũng đương mong ngóng anh về. Thấy mặt Bỉnh có vẻ nghiêm trang, Khoa lo lắng đưa mắt nhìn Trình, rồi quay ra hỏi:

- Việc gì đấy anh?

Bỉnh chậm rãi đáp:

- Viêc... hơi quan... hệ.

Thấy Trình đổi sắc mặt và nhận rõ cái giọng quá trịnh trọng của mình, Bỉnh phá lên cười nói chữa:

- Nghĩa là chẳng quan hệ gì cả.

Khoa hỏi, hơi có giọng gắt:

- Nhưng là việc gì kia chứ?

Trình tiếp luôn:

- Việc nhân duyên của Cúc, phải không anh?

Bỉnh vẫn im lặng, mỉm cười suy nghĩ: chàng chưa biết nên bắt đầu câu chuyện ra sao. Tính băn khoăn nhìn chàng rồi đáp câu hỏi của chồng:

- Nhân duyên nhân quả gì! Mới mấy tuổi ranh!

Chuyên bĩu môi:

- Mấy tuổi ranh! Mười sáu tuổi, còn gì! Hai cái vú thây lẩy ra!

Khoa nóng ruột hỏi dồn:

- Vậy có phải việc gả chồng cho Cúc không? Hay việc làm chay cho thầy?

Bỉnh nhìn một vòng quanh bốn người, rồi đáp:

- Việc thừa tự.

- Thừa tự?

- Thừa tự?

Hai tiếng thừa tự từ miệng nọ truyền sang miệng kia bằng một giọng bí mật, khiếp sợ.

- Thừa tự gì thế anh?

Bỉnh đi vào trong nhà, ngồi xuống chiếc ghế bành bằng cói. Bốn người đứng quây quần chung quanh để chờ câu giải nghĩa.

- Kiện thừa tự hay sao, anh?

Bỉnh cười:

- Không, kiện cáo gì đâu! Cô ta muốn tìm người thừa tự.

Yên lặng vụt trở nên nặng nề, lạnh lẽo. Ai nấy như chợt lưu ý tới cái gia tài kếch sù của người đàn bà. Khoa lấy thuốc lá đánh diêm hút cố làm ra vẻ lãnh đạm. Trình thật thà và thẳng thắn hơn, ngồi ngây người suy nghĩ. Còn Chuyên và Tính thì đăm đăm nhìn nhau, miệng hơi hé, mắt kinh ngạc mở rộng.

Khoa hắng dặng đưa gói thuốc mời Bỉnh:

- Anh xơi thuốc.

Rồi chàng cười nói tiếp:

- Ở nhà quê chỉ có toàn một hạng thuốc lá sáu xu. Anh xơi tạm.

- Tôi có thuốc lá Ăng-lê đây.

Bỉnh móc túi lấy ra gói Camel:

- Hai chú xơi. Tôi thì tôi thích hút thuốc lào hơn.

Khoa đỡ gói thuốc rút một điếu, rồi tiếp lửa ở điếu thuốc dở sang mà hút. Đoạn, chàng ném mạnh ra sân điếu thuốc lá rẻ tiền và cười nói:

- Có mới nới cũ!

Cũng như Trình và Chuyên, Tính vẫn lặng lẽ theo đuổi ý nghĩ của mình. Nàng than thở hỏi:

- Thế cô ta đã chọn ai chưa?

Chuyên bĩu môi:

- Còn ai nữa? Lại họ hàng nhà cô ta chứ ai vào đấy!

Trình bàn góp:

- Con lão cả Lai chẳng hạn.

Tính làm ra mặt thạo:

- Không, cô ta có ưa gì thằng cha ấy đâu. Có lẽ lại con chị cô ta, con lão phán Tị.

Chuyện cười sung sướng:

- Bố con thằng cha ấy mà phá thì phải biết! Cái gia tài của cô ta khéo lắm được dăm năm.

Bỉnh giọng thản nhiên:

- Các chú, các thím đoán sai hết. Đố biết cô ta định chọn ai?

Ai nấy lại âm thầm suy nghĩ để cố tìm một người xứng đáng. Bỗng Khoa múa tay reo:

- Ha ha! Tôi tìm ra rồi.

- Ai? Ai? Ai?

Mọi người nhao nhao hỏi.

- Tôi.

Trình và hai người đàn bà cùng thét lên cười.

- Gần đúng!

Câu tuyên bố của Bỉnh làm cho ồn ào im bặt:

- Gần đúng?

- Sao lại gần đúng?

Đi trước câu trả lời của Bỉnh, Khoa đáp:

- Chọn dễ nhỉ! Đã biết đâu tôi bằng lòng lòng mà chọn?

Tính cười, gật gù nói:

- Phải, chẳng nhẽ băm nhăm tuổi đầu rồi còn đi làm con làm cái người ta!

Chuyên lườm nguýt chị dâu:

- Chị ăn nói hay nhỉ!... Đùa cũng phải tùy từng câu chứ!

Bỉnh vội can:

- Thôi, tôi xin Hai thím. Ta nén bình tĩnh mà bàn việc này. Cô ta viết thư mời tôi về cốt để hỏi ý kiến tôi về việc này. Cô ta định chọn trong hai chú để... để...

Khoa cười nói tiếp:

- Thì cứ nói thẳng: để ăn thừa tự cô ta, để sau này cúng giỗ thờ phụng cô ta.

Chuyên được dịp trả thù chị dâu, liền hỏi Trình:

- Thế nào, anh bằng lòng làm con cái cô ta chứ? Băm bảy làm con một người bốn nhăm, bốn sáu cũng chẳng quá đáng.

Bỉnh cười:

- Thôi, tôi xin hai thím!

Chàng ngẫm nghĩ một lát, rồi nói tiếp:

- Thiết tưởng cái gia tài hàng vạn của cô ta chẳng qua cũng là tiền cô ta xoáy của thầy. Vậy thì dẫu các chú có hưởng cũng chẳng ai dám dị nghị, cũng chẳng thẹn gì với lương tâm... Chẳng... qua... Chẳng qua của thiên lại trả địa.

Bỉnh cất tiếng cười vui vẻ, vì vừa tìm được một câu tục ngữ có ý nhị và dùng đúng chỗ.

- Cô ta đã nhất định chọn một chú trong hai chú rồi. Cô ta chỉ hỏi ý kiến tôi xem nên chọn chú nào mà thôi. Vậy hai chú nghĩ sao?

Không thấy hai em trả lời, Bỉnh lại nói:

- Hình như cô ta khá hơn trước nhiều. Có lẽ đạo Phật sẽ hoán cải được cô ta chăng? Cô ta bảo tôi: “Lấy chồng phải gánh giang san nhà chồng. Tôi chẳng bù chì cho các anh ấy thì còn bù chì cho ai? Lọt sàng xuống nia, phải không anh?...”

Khoa giọng chua chát:

- Nhưng cái sàng ấy lỗ nhỏ quả khó lòng mà lọt được xuống nia được. Vả câu ấy dùng vào trường hợp này chẳng có nghĩa lý gì hết.

Chuyên cau mày bảo chồng:

- Thì mình hãy để cho anh nói hết đã nào.

- Câu chuyện chỉ có thế. Cô ta muốn... xin một người trong hai chú để... ăn thừa tự cô ta... Cô ta hỏi ý kiến tôi, nhưng tôi nói để hỏi hai chú hộ. Hình như cô ta cũng sợ hai chú từ chối nên dặn tôi hãy dò la ý tứ hai chú đã... Tôi xem ra cô ta thành thực lắm. Có lúc cô ta cảm động quá, vừa nói vừa rơm rớm nước mắt...

Khoa cười gằn, ngắt lời:

- Chà! Nước mắt cá sấu.

Chuyên cự chồng:

- Cậu lạ quá! Không để anh nói, cứ đâm ba chẻ củ. Cậu coi anh Hai, anh có nói gì đâu?

Khoa mỉa mai:

- Dễ mợ bằng lòng rồi đấy chắc?

- Ô hay! Cậu ăn nói hay nhỉ! Cậu bảo bằng lòng cái gì mới được chứ. Chẳng qua việc là việc anh em nhà cậu, nào có can dự gì đến tôi mà bảo tôi bằng lòng với không bằng lòng!

Lần đầu Trình bàn chen vào, hình như chàng đã suy xét, cân nhắc kỹ càng những lẽ phải trái, hơn thiệt rồi mới nói:

- Chúng ta không nên cãi lý nhau, vô ích. Phải bình tĩnh mà tìm trông rõ sự thực. Sự thực thì hiện giờ ra sao? Đó, câu hỏi chính. Hiện giờ thì cô ta có một người con gái. Yêu ai cũng chẳng bằng yêu con. Vậy của cải, tài sản của cô ta, tất nhiên người con gái ấy đáng được hưởng nhất, và sẽ được hưởng hết. Cái lý phải như thế. Nhưng sao cô ta lại muốn có một người thừa tự? Đây có hai lý do.

Bỉnh phì cười:

- Chú Hai lý luận như một ông giáo già.

Chuyên cũng cười theo:

- Nhưng anh Hai lý luận đúng phép lắm. Vậy hai lý do ấy là những lý do gì, thưa anh?

- Có hai lý do: một là cô ta muốn có một người cúng giỗ cô ta sau này. Muốn được thế, phỏng có khó khăn gì. Chỉ việc tách ra một số ruộng nhiều lắm là ba chục mẫu để dùng vào việc hương hỏa cho cô ta, nghĩa là độ vào một phần mười cái tài sản mà cô ta sẽ cho con rể và con gái.

Chuyên vẫn cười:

- Còn cái lý do thứ hai?

- Cái lý do thứ hai là cô ta muốn che mắt thiên hạ, muốn lấy tiếng với họ với làng... rằng mình tốt như thế đó. Vả cô ta lại muốn lấy lòng anh em mình nữa.

Một dịp vỗ tay của mọi người xen vào trong, tiếng cười reo ầm ỹ. Lũ trẻ, con Trình và Khoa đương chơi ở bên láng giềng tưởng có chuyện gì hay, chạy ùa cả về đến đứng trố mắt nhìn.

Chuyên quát:

- Đạc! Nam, Phiên đi chai! Đi chơi, cả Liên nữa.

Tính nhăn nhó bảo mấy đứa:

- Đi chơi đi! Người lớn nói chuyện, trẻ con không được đứng nghe như thế!

Bốn đứa trẻ lại cùng nhau chạy ra cổng.

Một phút im lặng khó chịu.

Tính hỏi cho có chuyện:

- Bao giờ bác đi?.

- Lát nữa, thím ạ. Đi đêm càng mát. Vậy tôi cứ trả lời cô ta rằng... hai chú không nhận...

Tính vội đáp:

- Chà! Tội gì bác phải trả nhời! Cứ để mặc kệ.

Chuyên biểu đồng tình:

- Phải đấy, cứ để mặc kệ cho cô ta hy vọng.

Im lặng mỗi lúc một thêm nặng nề. Cái sân gạch đã rợp hẳn. Ánh nắng còn phảng phất trên ngọn cây trúc đào, lấp lánh trong mấy buồng cau vàng mới nở. Khoa đăm đăm nhìn đám mây đen viền vàng từ từ đùn lên sau nóc nhà tranh hàng xóm, và lẩm bẩm như nói một mình:

- Không khéo có cơn giông.

VIII

Một buổi sáng oi nồng. Không một làn gió thoảng. Sau giải tường hoa ngăn khoảng vườn với cái sân gạch rộng, hàng ngọn cau đứng im tăm tắp; những tàu lá héo khô gãy đảo ngược xuống và những bẹ mo cháy xạm còn dính vào thân cây như âm thầm chứa ở trong hết cả cái nóng của chuỗi ngày hè. Một chút cảm giác mát phảng phất trong bóng xanh giàn thiên lý, trong hương thơm hoa thiên lý và trong tiếng hót của con chim chích chòe luôn luôn bay chuyền quanh mấy nóc nhà ngói.

Ngoài sân, trên chiếc chõng tre, Trình vừa thức giấc: Những đêm nồng nực chàng thường nằm ngủ giữa trời như thế. Chàng vươn vai và ngáp liền hai cái, rồi ngồi thẫn thờ suy nghĩ.

Hôm qua, sau khi tiễn Bỉnh ra tận đường cái, Khoa và chàng lúc trở về đều cố tránh, không đả động tới câu chuyện thừa tự. Nhưng chàng đoán tâm trí Khoa cũng băn khoăn, bối rối như tâm trí chàng. Không phải vì chàng có hám cái tài sản phi nghĩa kia. Mà Khoa, tuy vẫn tỏ ý ước ao, khao khát một đời đầy đủ, phong lưu hơn cái đời hiện tại, Trình cho vị tất đã dám có can đảm nhận lời làm kẻ ăn thừa tự người đàn bà đáng ghét ấy.

Nhưng băn khoăn, bối rối thì hai người vẫn băn khoăn bối rối. Chỉ nhìn mặt Khoa, và tự vấn tâm mình, chàng cũng nhận thấy rõ rệt.

Là vì xưa nay, trong mấy anh em không hề ai từng nghĩ đến việc thừa tự ấy, không ai tưởng rằng lại có thể xảy ra một sự lạ lùng như thế. Tiếp được thư của người dì ghẻ, họ bàn đủ mọi lẽ, họ đoán đủ mọi điều, nhưng cái ý tưởng “thừa tự” không một phút nào lọt vào trí não họ.

Trình đứng dậy, cười mũi, lẩm bẩm nói:

“Hừ! Thừa tự! Vô lý đến thế là cùng!” Nhìn vào hiên, chàng thấy vợ, tóc bỏ xoa, ngồi trên ghế ngựa bên giàn thiên lý, vẻ mặt mơ màng và lãnh đạm. Chàng hỏi vớ vẩn.

- Mợ đã dậy?

Tính cũng vớ vẩn hỏi lại:

- Cậu ngủ cả đêm ở ngoài sân?

Trình ngước nhìn lên cửa sổ nhà gác, bảo vợ:

- Hôm nay Khoa dậy trưa nhỉ?

- Trưa gì mà trưa! Dễ chưa đến sáu giờ.

Tính thở dài nói tiếp:

- Có cái đồng hồ lại chết. Ở nhà quê mà đồng hồ chết thì mù tịt chẳng biết giờ nào vào giờ nào nữa.

Trình mỉm cười:

- Ở tỉnh mà đồng hồ chết cũng vậy, chứ khác gì ở nhà quê?

- Ở tỉnh còn có thể nghe đồng hồ nhà thờ, hay sang hiệu khách bên cạnh xem giờ.

- Thì ở nhà quê chờ tí nữa chú Khoa dậy mình hỏi giờ mà lấy lại đồng hồ cũng được chứ sao.

Trình đến ngồi bên vợ. Hai người cùng im lặng nhìn ra sân, như cùng có một câu chuyện, muốn nói nhưng còn do dự, rụt rè. Trình nhăn mặt phàn nàn:

- Hôm nay chắc nóng lam. Mới sáng dậy mà đã oi quá! Giá ông ấy mưa xuống cho một trận thì khác.

Tính bĩu môi:

- Các ông chỉ biết nghĩ đến cái sướng thân của các ông! Mưa, mưa mãi cho mà chết ấy à. Mấy mẫu ruộng ở đằng ngoài lại sắp sửa úng thủy rồi đấy. Cứ mong mưa già vào!

- Úng nước thì rồi tháo đi! Hãy mưa mát đã!

Chàng đọc luôn câu tục ngữ chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện:

“Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy”.

Tính cười:

- Các ông còn biết cái gì! Úng thủy suốt cả cánh đồng thì còn tháo vào đâu?

Nhớ tới công việc đồng áng, nàng liền đứng dậy gọi người nhà:

- Trạch!

Vú già đương cúi lom khom cầm chổi lúa quét sân đứng dậy đáp:

- Thưa mợ, chú Trạch chú ấy đi bỏ bèo hoa dâu ở thửa ruộng đồng ngoài rồi ạ.

- Thế à? Ừ, nó cũng nhớ công nhớ việc đấy!

Trình bàn phiếm một câu:

- Mấy mẫu ruộng ấy bị úng thủy luôn, giá bán quách đi mà tậu ở chỗ khác.

Tính cười:

- Cậu tưởng bán với tậu dễ dàng như thế đấy. Với lại có muốn bán cũng chả được, vì ruộng nào của mình!

Trình ngạc nhiên!

- Không phải ruộng của mình?

- Thửa ruộng ấy đứng tên anh huyện.

- Ừ nhỉ! Phải, phải!

Trình cảm động, nghĩ tới lòng tốt của Bỉnh đối với mình và Khoa. Và bất giác chàng lại ngước mắt nhìn lên hàng cửa chớp tầng gác, đã vàng hoe ánh mặt trời mới mọc.

- Không biết sao hôm nay nó dậy muộn thế?

Rồi chàng ra sân, gọi:

- Khoa! Khoa ơi!

Tính kỳ kèo chồng:

- Cậu cứ gọi tên chú ấy ra thế, thím ấy không bằng lòng đâu.

Trình quay lại càu nhàu:

- Mợ biết đâu rằng thím ấy không bằng lòng?

- Trông mặt thím ấy thì biết chứ. Mỗi lần cậu gọi tên tục chú ấy ra, tôi vẫn thấy thím ấy sa sầm mặt xuống.

- Nhưng tôi quen miệng mất rồi.

Chừng để trêu tức vợ, Trình gọi to hơn!

- Khoa ơi, Khoa! Dậy thôi!

Một cánh cửa sổ mở. Khoa thò nửa mình ra ngoài, mắt hấp háy nhìn xuống!

- Arh đấy à? Anh dậy sớm nhỉ!

Trình cười:

- Còn sớm gì nữa! A, chú xem hộ mấy giờ, đồng hồ bên tôi chết tối hôm qua.

Khoa vào trong nhà. Một lát sau chàng xuống sân, tay vặn lên giây cái đồng hồ quả quít vừa to, vừa dầy:

- Thế mà gần sáu rưỡi rồi, anh ạ.

- Đấy, tôi đã bảo, muộn rồi mà!

- Hôm qua tôi thức khuya quá, loay hoay mãi gần sáng mới chợp mắt.

Trình nghĩ ngay đến việc thừa tự. Chàng cho em băn khoăn về chuyện ấy nên không ngủ được. Vì chính chàng, đêm hôm trước cũng loanh quanh mãi ở ngoài sân để tìm hiểu cái hành vi cái ý định của người dì ghẻ. Chàng mỉm cười bảo em:

- Khoa quả quyết rồi đấy chứ?

- Anh bảo quả quyết cái gì?

Trình định đùa em và có ý muốn nói: “Đã quả quyết từ chối việc ăn thừa tự”. Nhưng thấy em đăm đăm suy nghĩ rồi hỏi lại, chàng sinh ngượng, nói lảng liền:

- Quả quyết không lên chơi huyện.

- Vừa lên về, anh bảo lại còn lên nữa hay sao? Nếu có đi thì đi ngay hôm qua với anh huyện chứ!

- Chú sang chơi tôi uống chè Tàu đi!

- Vâng.

Sang chơi, nghĩa là đi qua sân, để vào trong nhà ngang. Hai anh em chia nhau bốn nếp nhà, làm theo kiểu chữ môr. Hai nếp nhà thờ giáp nhau, năm gian hay chái, nhìn hướng nam và cái nhà ngang bảy gian có trần về phần Trình, còn cái nhà gác mặt quay hướng đông, Trình nhường cho Khoa. Trước kia Tính thường tức tối bì tị về sự hơn kém, nhưng lâu dần nàng cũng theo gương chồng mà ở ra bề chị có đại lượng với em, không đả động đến sự so sánh nhỏ nhen nữa.

- Mợ bảo nó đun nước nhé.

- Bảo ai nữa! Tôi đun chứ còn bảo ai? Thằng Trạch đi bỏ bèo, vú già thì quét sân xong còn cho lợn ăn.

Trình cười xòa:

- Vâng, mợ giúp cho một tay!

Khoa đỡ lời:

- Anh để em đun.

Tính, giọng thân mật:

- Vâng, thế càng hay. Đây bếp dầu hỏa đây. Để tôi đi lấy nước.

Khoa cười:

- Tưởng gì! Đun bếp dầu hỏa thì ai đun chẳng được! Khó nhọc gì!

Một lát sau, ba người cùng im lặng nhìn ngọn lửa xanh bốc lên, tỏa ra trong tiếng reo đều đều. Khoa có vẻ suy nghĩ sâu xa. Bỗng chàng như nói một mình:

- Ở đời chả cần phải giàu mới sung sướng.

Trình đáp, giọng thành thực:

- Bây giờ Khoa mới nhận thấy điều ấy. Thì mọi khi tôi vẫn bảo thế, mà Khoa không tin.

- Nhưng thiếu thốn thì cũng khó chịu.

Vợ chồng Trình cũng cười. Tính nói đùa:

- Nghĩa là giàu vẫn sung sướng.

- Nhưng troisième thì sung sướng quái gì!

Người đàn bà mà ai nấy do dự ngần ngại chưa muốn nói tới - người nọ chờ cho người kia gợi chuyện ra trước - thì Khoa đã quả quyết bắt đầu đọc tên. Tính tiếp luôn:

- Phải, sung sướng quái gì!

Trình mỉm cười:

- Biết đâu người ta không sung sướng?

- Thì cũng bàn thế!

Khoa về cánh với chị dâu:

- Biết hẳn chứ!

Trình cười gượng gạo, nhạt nhẽo:

- Tôi nghĩ đến việc thừa tự của cô ta mà tôi buồn.

Giữa lúc ấy mấy con chó chạy ra cổng sủa ầm ỹ. Ai nấy nhìn theo. Có tiếng:“A di đà Phật!” Cụ Giáp đã vào tới sân, tay cầm quạt che cái đầu chít khăn vuông nâu.

Tính đứng dậy, đon đả chạy ra chào:

- A di đà Phật! Bạch cụ, cụ quá bộ sang chơi?

Trình và Khoa yên lặng nhìn nhau. Xưa nay hai chàng vẫn không ưa nhà sư, người tin cẩn của bà Ba. Nhưng hai chàng cũng lễ phép chào:

- A di đà Phật! Xin rước cụ vào chơi.

Nhà sư không đợi ai mời, ngồi ngay xuống ghế ngựa, rồi cười nói:

- A di đà Phật! Phật độ, bần tăng đến chơi chư ông, lại được uống nước chè Tàu. Đến nơi thì nước vừa sôi.

Tính đứng sửa soạn khay chén pha nước. Trái ngược với hai người đàn ông, Chuyên và nàng rất kính trọng sư cụ. Vả không lần nào nghe chồng họ nói xấu bất cứ kẻ tu hành nào mà họ không cự ngay. Vì thế ít lâu nay chỉ những lúc vắng mặt hai người đàn bà, Trình và Khoa mới đem nhà sư ra phê bình và nhạo báng, làm câu chuyận vui đùa có hứng thú.

- Thưa hai ông, quan huyện nhà đi chơi đâu sớm thế ạ?

Sự thực, sư cụ cũng thừa biết “quan huyện nhà” đã đi từ chiều hôm qua.

- Thưa cụ...

Tính vội vàng đỡ lời chồng:

- Bạch cụ, anh huyện chúng tôi lên huyện rồi.

Nhà sư khéo vờ kinh ngạc:

- Thế ư? Mãi sáng nay tôi mới được tin quan huyện nhà về chơi. Tôi lại chào quan lớn thì quan lớn lại đã “trẩy” rồi.

- Bạch cụ, xin đa tạ cụ. Xin rước cụ xơi nước ạ.

- Tôi không dám, xin rước ông bà, xin rước ông.

Uống cạn chén nước, nhà sư hỏi Tính:

- Thưa bà, bà Ba đi vắng?

Tính tưởng hỏi người dì ghẻ, liền đáp:

- Dễ không, bà Ba cháu vẫn ở bên nhà.

Nhà sư mỉm cười:

- Không tôi hỏi bà Ba chứ cụ lớn thì tôi vừa sang hầu trưa hôm qua.

Khoa cau có đáp:

- Nhà tôi khó ở. Nhưng cũng sắp xuống bây giờ.

Sư cụ trầm ngâm ngồi giã trầu trong cái cối đồng to, - tuy mới gãy một cái răng cửa, nhà sư cũng dùng cối, có lẽ để làm tôn vẻ trang nghiêm và đạo mạo. Bỗng cụ ngửng lên cười rất hời hợt:

- A! Tôi quên mừng ông Ba...

Khoa nói chặn ngay:

- Tôi có tin mừng gì đâu mà cụ mừng?

Nhà sư chòng chọc nhìn Khoa như tìm hiểu, rồi lại cười:.

- Nghe đồn... cụ bà... nghe đồn việc thừa tự, cụ bà....

Khoa ngắt lời:

- Không, họ đồn bậy thế đấy.

Tính sợ mất lòng sư cụ, nói chữa:

- Bạch cụ, người ta đồn đấy thôi ạ..

Nhà sư lại cúi xuống vừa giã trầu vừa hỏi:

- Hay tôi nghe nhầm? Ông Hai chứ không phải ông Ba?

Trình cười:

- Cũng không phải tôi ạ.

Tính tiếp:

- Bạch cụ, việc ấy chúng tôi không biết gì hết ạ.

- Thế thì, có nhẽ có thực đấy!

Nhà sư đứng dậy. Tính vội mời:

- Bạch cụ, xin rước cụ hãy thong thả xơi chén nước nữa đã.

- Tôi vô phép. A di đà Phật, xin chào ông bà, xin chào ông.

- A di đà Phật!

Nhà sư đi khỏi, ba người không ai dám nhìn ai. Cả ba đều khó chịu, ngượng ngập về câu chuyện thừa tự.

Sau mấy phút im lặng, Tính hỏi trống không:

- Quái! Sao sư cụ cũng biết có việc thừa tự?

Nhưng không ai trả lời.