← Quay lại trang sách

Phần thứ nhất - XI & X & XI

Ô chào! Mợ lôi thôi lắm!

Để vợ nói, nói mãi, Khoa vẫn lặng thinh, không ngắt lời, thản nhiên như không lưu ý tới, rồi sau cùng, khi vợ ngừng hẳn, chàng mới hơi chau mày đáp một câu vắn tắt. Thấy vợ im, chàng được thể thở dài tiếp luôn:

- Đàn bà!

- Cậu bảo đàn bà làm sao?

Chuyên lại tức tối, kể lể tình cảnh khổ sở của mình từ ngày bước chân về nhà chồng. Nào cảnh làm dâu dưới quyền áp chế của ông bố chồng nghiêm khắc, dưới sự hành hạ của người dì ghẻ nham hiểm, tai ngược, nào cảnh đời sống buồn tẻ ở xó nhà quê mà nàng suy bì với đời tưng bừng của những người bạn ngày nay đương làm tham tá, bác sĩ, tri huyện, tri phủ. Những điều ấy, nàng không quên nhắc tới mỗi khi nàng có chuyện bất bình với chồng. Khoa cười gằn:

- Mợ không nói thì dễ thường tôi không biết! Nhưng nói để làm gì mới được chứ?

Và Khoa đắc chí cười hà hà.

- Phải, tôi hỏi mợ, để làm gì thế?

Câu trả lời hiện ngay ra trong đầu Chuyên, nhưng không thể thốt ra được: “Nói để cho hả”.

Vì sự thực, một câu chuyện lúc ban chiều đã làm nàng rất bực mình. Nàng cố nén lòng chờ đến bây giờ, đêm khuya vắng vẻ, mới trút được hết nỗi bực mình ấy ra những lời oán trách cay chua.

Chiều nay, bỗng dưng bà Ba vả Cúc sang chơi. Đôi bên, dì ghẻ và bọn con chồng đã thôi hẳn không đi lại thăm viếng nhau ngay từ hôm xong công việc tang ma ông án. Bởi vậy, nhác thấy bóng mẹ con bà Ba, vợ chồng Trình chồng Khoa cùng kinh ngạc đưa mắt nhìn nhau và cùng như thầm hỏi nhau tìm cách đối phó.

Người đầu tiên đứng dậy chạy ra đon đả chào mời là Tính. Không phải nàng muốn lấy lòng người dì ghẻ mà có lẽ nàng khinh và ghét hơn hết mọi ai. Nhưng cái di tích sợ hãi, kính nể ngày trước đối với người đàn bà ấy vẫn còn hằn nét trong lòng người nàng dâu nhu nhược, nhút nhát, khiến nay bất thần người dì ghẻ vụt hiện ra đã làm thức dậy những tính tình xưa. Vẫn biết nàng chợt nghĩ lại ngay và vội sửa vẻ mặt cho được lạnh lùng, dửng dưng, nhưng cái phút khó khăn đã qua rồi: Không để ý đến, Tính đã làm lành một cách rất tự nhiên.

Bắt đầu từ đó, câu chuyện nở như gạo rang. Người dì ghẻ khéo tìm những câu hỏi mà không ai không thể không trả lời được. Vả về sau thấy bà Ba vồn vã, ân cần, thân mật, bốn người kia dần dần theo nhau đổi thái độ: cứng cỏi họ trở nên ôn tồn: lãnh đạm họ trở nên vui vẻ, thẳng thắn.

Lại thêm Cúc, chừng có lời dặn trước của mẹ, khéo tỏ ra một cô em gái dịu dàng, ngoan ngoãn, kính cẩn nữa, một điều thưa anh, hai điều thưa chị, và xưng em xưng Cúc luôn miệng. Một lần, nghe bà Ba nói tính nết mình giống hệt tính nết anh Khoa, cũng thẳng băng như ruột ngựa, Cúc cười rất có duyên đáp lại:

- Chuyện! Anh em lại chả giống tính nhau!

Sau hơn hai giờ trò chuyện, tình thế đôi bên đã có chiều bớt găng. Và nhiều lúc, Chuyên, người sáng suốt nhất trong bọn phản đối bà Ba, đã có lại cái ý nghĩ ngày xưa: “Đáng ghê lắm! Nó muốn đưa mình đến đâu cũng được!” Nàng rùng mình, sợ hãi vẩn vơ. Song những lời thớ lợ của người kia làm cho nàng bình tĩnh ngay. Và nàng mỉm cười thầm, tự hỏi: “Đưa mình đến đâu?” Vì suốt hai giờ, trong câu chuyện thù tiếp tịnh không có một việc gì quan trọng. Cả việc thừa tự mà ai nấy chờ nghe bà Ba gợi ra, bà ta cũng không lần đả động tới.

Duy có lúc sắp về, bà ta kéo Tính ra một góc hiên thì thầm nói riêng mấy câu.

Chính vì mấy câu nói riêng ấy mà Chuyên ngờ vực chị dâu, và cau có tức tối từ chiều đến giờ. Nàng muốn bảo thẳng cho chồng biết những điều nói riêng ấy là những điều gì, nhưng nàng vẫn trù trừ không dám, vì dẫu sao, đó cũng vẫn chỉ là những lời phỏng đoán. Bằng cớ vào đâu mà buộc tội? Và nàng sung sướng nghĩ thầm: “Được! Thế nào rồi mình chả biết! Dễ thường giấu mãi nổi chăng? Chỉ sợ giấu đầu rồi cũng có ngày hở đuôi thôi!”

Sự thực thì bà Ba chẳng nói riêng một việc kín gì với Tính hết. Vả khi bà ta về rồi, Chuyên hỏi, Tính đã thuật cả lại với nàng, không giấu diếm chút đỉnh: Bà ta chỉ khuyên Tính không nên cho bác phó Tín và chị xã Vọng vay tiền, vay thóc, vì hai người ấy chây nợ lắm. Rồi bà ta dặn Tính nếu có đong đậu nành làm tương thì đong giúp bà ta dăm đấu. Có thế thôi. Nhưng người dì ghẻ nói nhỏ bên tai Tính ra chiều vừa thân thiết, vừa bí mật.

Bây giờ Chuyên như còn trông thấy hai người đàn bà đứng sát nhau, như còn được ngắm cái nét mặt chăm chú của chị dâu và cái dáng điệu giấu diếm của dì ghẻ. Nàng thở dài một hơi cả bằng mũi lẫn miệng rồi thốt ra một câu nhiếc: chồng:

- Cậu thì còn biết cái gì!

Khoa cãi lại:

- Tôi không biết cái gì, mặc tôi. Nhưng tôi hỏi mợ một lần nữa: mợ kể lể lôi thôi mãi từ nãy đến giờ để làm gì thế? Có phải mợ chỉ cốt trêu tức tôi, chỉ cốt làm tôi khổ sở thì mợ bảo!

Chuyên phì cười khinh bỉ:

- Thì tôi bảo!... Thì tôi bảo đấy!

Chẳng biết trả lời lại vợ ra sao. Khoa lẩm bẩm như nói một mình:

- Sao không ngắm chị Hai mà bắt chước. Chị ấy dễ dàng biết bao, vui vẻ biết bao! Mợ có thấy chị ấy phàn nàn điều nọ điều kia bao giờ không?

Chuyên càng cáu tiết:

- Chị Hai! Đội mai chị ấy lên! Chị Hai của cậu thì ra cái gì!

Khoa không tự trấn tĩnh nổi, và, quên bẵng rằng cả nhà đang ngủ yên, chàng thét lớn:

- Im ngày! Tôi cấm mợ không được nói hỗn như thế!

Chuyên cũng chẳng vừa, thét lại:

- Cậu bênh à? Có phải cậu bênh chị ấy không?

Rồi hạ giọng nàng nói tiếp:

- Này tôi bảo, cậu đừng tưởng nhầm rằng chị Hai tốt với chúng mình! Chị ấy chẳng thật thà như cậu với tôi đâu. Đáo để lắm kia đấy!

Khoa cười mát:

- Ai mà mợ không cho là đáo để! Tôi thì tôi chả thấy chị Hai đáo để ở chỗ nào hết.

Chuyên nghiến răng rít lên:

- Ở chỗ nào! Cậu có muốn biết ở chỗ nào không!

Khoa đã trở lại bình tĩnh:

- Tôi muốn biết lắm.

- Vậy tôi hỏi cậu: lúc cô Ba cô ấy sang, chị Hai chào mời vồ vập để làm gì thế?

Khoa thản nhiên đáp:

- Mình là chủ, người ta là khách thì cũng phải chào mời người ta chứ. Theo phép lịch sự xã giao thì dẫu kẻ thù đến nhà mình, mình cũng phải giữ đúng lễ chủ nhà. Lúc khác giết nhau hãy hay.

Chuyên cười:

- Thế thì thầm câu chuyên bí mật dễ cũng là theo xã giao đấy hẳn?

Rồi, không chờ câu trả lời của chồng, Chuyên hỏi luôn:

- Cậu có biết họ thì thầm với nhau những gì không?

Khoa hơi chau mày:

- Thì mợ đã hỏi chị Hai, và chị Hai đã kể lại cho mọi người nghe...

Chuyên cướp lời:

- Kể lại! Ai cấm chị ấy kể bịa? Tôi thì tôi biết đích chuyện gì rồi.

Khoa sửng sốt hỏi:

- Chuyện gì?

Chuyên, giọng khinh bỉ:

- Chuyện thừa tự chứ còn chuyện gì vào đấy nữa!

Phút im lặng. Khoa nghĩ ngợi, suy xét. Sự đau đớn thoáng hiện ra trên mặt chàng. Ánh sáng lờ mờ chiếc đèn hoa kỳ chiếu vào ba nét nhăn ở giữa đôi lông mày hơi sếch lên. Chuyên thấy chàng có vẻ vừa dữ tợn, vừa khổ sở. Liền vờ kêu nực, lảng ra hiên gác, mở cửa sổ nhìn trời.

Trăng hạ tuần rung động trong ngọn tre thưa lá. Tiếng dế như vừa bắt đầu ran lên càng làm tăng lặng lẽ của ban đêm. Miệng Chuyên muốn thốt một tiếng: “Buồn!”

Khoa theo ra hiên, đứng tựa cửa sổ sát bên cạnh vợ. Một luồng gió mát vuốt ve tóc chàng và làm cho chàng bớt nóng bức. Chàng hỏi rất khẽ như sợ có người nấp đâu đó nghe trộm:

- Sao mình biết là chuyện thừa tự?

Chuyên cũng khẽ đáp lại:

- Rõ rệt thế, ai không biết!

- Nghĩa là mợ đoán.

- Nhưng đoán đúng, đoán rất đúng.

Khoa thở dài:

- Chả nên thế, mợ ạ.. Chả nên ngờ oan chị Hai như thế.

Nghe giọng nói như có đượm nước mắt, Chuyên hối hận đứng im. Và nàng âm thầm nhớ lại cái thời kỳ làm dâu của mấy chị em.

Nàng tưởng thấy dần dần rõ ra và dí sát vào mặt nàng, cái mặt lạnh lùng, với đôi mắt lạnh lùng của ông án.

Nàng nhìn lên trăng để tránh cải hình ảnh quá khứ. Giữa kẽ hai cành tre, trăng vắt vẻo như cái mũ nồi bằng vàng mắc vào đó. Ý so sánh ngộ nghĩnh ấy, một lần ở dinh ông án, nàng nghe Bỉnh nói với Trình và Khoa, lúc ba anh em chồng và Trâm, Tính với nàng dạo chơi mát dưới bóng lá một cây bàng cỗi trước công đường. Vụt trở lại trong ký ức nàng tất cả những đêm mấy anh em chị em, nhất là Tính và nàng, ngồi bàn bạc để tìm chống lại người dì ghẻ. Bao giờ nàng cũng nhiều mưu trí hơn Tính, và nàng lại bướng bĩnh hơn nữa. Nhưng Tính giàu lòng hy sinh hơn nàng biết bao! Bị cha chồng mắng oan vì nàng, Tính chỉ yên lặng hay sụt sùi khóc, chứ tịnh không thốt ra nửa lời để đổ lỗi cho nàng, hoặc để khiến cha chồng ngờ vực em dâu. Một người như thế nay có thể về cánh với người dì ghẻ được không? Nay có thể vì cái tài sản của người dì ghẻ mà coi nàng vào hạng kẻ thù được không?

Chuyên cảm động tự hỏi trong thâm tâm. Và trong thâm tâm, nàng thấy nàng nhỏ nhen quá. Nàng muốn xuống sân, sang đánh thức Tính dậy để nói chuyện, để xin lỗi, để kể lể, thú thực với Tính hết những điều ngờ vực đã làm nao núng lòng nàng.

Tiếng Khoa, nàng nghe như trong giấc mộng thời quá khứ:

- Với lại nếu quả thực cô ta muốn... muốn để anh chị ăn thừa tự cô ta và nếu quả thực anh chị bằng lòng nhận, thì mình cũng nên để mặc anh chị. Mợ nghĩ mà xem...

Chuyên bừng thức giấc mộng. Sự thực của hiện tại, sự thực gay go, kịch liệt lại hiện ra nguyên hình. Và nàng quên hết những cảm giác dịu dàng, những tính tình thân mật ngày xưa để nhớ mỗi một cái cử chỉ “khả ố” của Tính lúc ban chiều, cái cử chỉ của “quân nịnh hót, luồn cúi... khốn nạn”.

Nước mắt nàng ứa ra. Bây giờ thì không phải là nước mắt cảm động nữa, và nàng cáu kỉnh ngắt lời Khoa:

- Nghĩ gì! Còn nghĩ gì nữa. Tôi nghĩ đã kỹ rồi.

- Mạ nghĩ thế nào?

- Tôi nghĩ thế nào thì mặc mẹ tôi.

- Ô hay! Mợ ăn nói lạ lùng quá!

Chuyên quay ngoắt vào trong nhà:

- Phải, tôi ăn nói cục cằn, thô tục! Chỉ có con Tính thì mới dịu dàng, thớ lợ. Chả thế mà... lại được lòng...

Nàng định nói được lòng bà Ba, nhưng nàng ngượng, vội ngừng lại, sợ Khoa cho là mình ghen tị với vợ chồng Trình. Nhưng cũng đủ cho Khoa hiểu rồi. Chàng theo vợ vào trong nhà, và cười chua chát nói:

- Người ngoài mà người ta nghe thấy câu ấy của mợ thì khỏi sao người ta không ngờ rằng nhà ta, rằng anh em nhà ta đương sắp lục đục tranh giành nhau... một cái gia tài... nào đó.

Chuyên lại thét:

- Cái gia tài nào? Cậu hãy nói cho tôi biết, cái gia tài nào?

Khoa đấu dịu:

- Nếu không phải cái gia tài nào cả thì càng hay chứ sao!

Nhưng Chuyên vẫn lồng lên:

- Không, tôi hỏi cậu, cậu định ám chỉ tôi tranh giành cái gia tài nào, và tranh giành với đứa nào?

- Khẽ mồm chứ mợ. Để cho hàng xóm láng giềng người ta ngủ chứ! Mợ phải biết rằng nếu anh Hai chị Hai mà còn thức thì chắc nghe rõ tiếng mợ mồn một.

Chuyên như con ngựa bất kham mà người cưỡi không có cách nào kìm lại được:

- Nghe thấy thì nghe thấy, tôi không cần, tôi không sợ ai hết. Tôi không quen cái thói thì thầm, lụi xụi như người ta.

Biết rằng mình càng cự, vợ càng làm già, Khoa lên giường nằm im. Thì quả thực, Chuyên cũng không thét nữa. Rồi một lát sau, nàng đến ngồi bên chồng, ôn tồn nói:

- Cậu tưởng tôi ghen ghét, ganh tị với vợ chồng chị Hai thì cậu nhầm, thì cậu tệ quá. Tôi chỉ ghét cái tính không thành thực của chị ấy, ngoài mặt khác mà trong bụng khác, thế thôi. Cậu có nhớ không. Hôm nọ được tin anh huyện cho biết rằng cô ta muốn để cậu hay anh Hai ăn thừa tự cô ta thì cả hai người cùng chối đây đẩy. Mà chối là phải, mặt mũi nào còn đi ăn thừa tự cái con mụ đàn bà khốn nạn ấy. Thế mà nay chị ấy...

Khoa ngắt lời:

- Nay chị ấy sao?

- Thì chị ấy sao, cậu lại không trông thấy ư?... Đấy, rồi cậu sẽ thấy... Nếu tôi đoán không đúng thì cậu cứ chặt ngay đầu tôi đi.

Khoa cười nói tuế tóa:

- Ấy chết, ai lại dại thế! Nhưng mợ cứ nghe tôi mợ ngủ đi, sáng mai thức giấc mợ sẽ bình tĩnh mà suy xét lại, và mợ sẽ thấy rằng mợ nhầm... Vậy mợ nghe tôi, mợ ngủ ngay đi, tôi xin mợ, mợ nghe theo tôi.

Chuyên đứng dậy lạnh lùng đáp:

- Cậu cứ ngủ trước đi. Tôi chưa buồn ngủ.

Rồi nàng ra hiên đứng tì cửa sổ nhìn xuống sân, mơ màng ngắm nghía mấy nóc nhà ngói đen phơi phới ánh trăng nhạt.

X

Sáng hôm sau Khoa và Chuyên dậy muộn. Mở mắt ra trông thấy chồng, Chuyên bẽn lẽn xoay mặt vào phía trong, ngủ lại. Thấy vậy, Khoa mỉm cười xuống phòng khách, biết thế nào rồi vợ cũng theo xuống.

Quả thực, chỉ năm phút sau, trong lúc Khoa đương xem một bức thư, Chuyên rón rén bước lại gần, hỏi:

- Thư ai thế cậu?

Khoa đưa mảnh giấy cho vợ và đáp:

- Anh Hai mời chúng mình sang ăn gỏi, sáng hôm nay.

Chuyên bĩu môi:

- Đây với đấy mấy bước mà phải viết thư!...

Bỗng nàng ngửng lên đăm đăm nhìn chồng thì thầm nói tiếp:

- Hay là... hay là anh chị ấy biết...

Khoa vờ không hiểu:

- Biết cái gì?

Không thấy vợ trả lời, chàng hỏi dồn:

- Biết cái gì? Mợ bảo biết cái gì?

Chuyên đáp khẽ:

- Không.

Rồi lẩm nhẩm dọc:

“Tôi sang chơi, chú thím còn ngủ. Nhân mua được con chép tươi lắm, mời chú thím cùng chúng tôi ăn bữa gỏi. Tôi chạy ra xóm ngoài một lát, sẽ về ngay và sẽ kéo khóa Liêm đến đánh chén ngâm thơ vịnh ngày thu mới bắt đầu”.

Chuyên mũm mĩm cười:

- Dễ thường anh Hai trở nên thi sĩ chắc. Vịnh thu vịnh thiếc cẩn thận!

Qua cửa sổ mở Khoa nhìn ra cái sân nắng rát, nói:

- Mùa thu mà nóng như nung như đốt!

- Nóng thế, còn uống rượu vào làm gì! Chúng mình từ chối quách.

Khoa lắc đầu:

- Không tiện, từ chối không tiện.

Chuyên giọng cau có:

- Việc gì mà không tiện. Bảo đau bụng không ăn được gỏi thì đã làm sao?

Khoa chau mày tỏ vẻ khó chịu:

- Nhưng mình lại không đau bụng.

- Tùy đấy, cậu muốn ăn cứ sang mà ăn. Tôi, thì thế nào tôi cũng xin kiếu.

Tuy vậy, một giờ sau khi thằng Nam lại mời, Khoa và Chuyên đều vui vẻ nhận lời rồi sang ngay.

Vì có khóa Liêm là khách nên đàn ông đàn bà ăn riêng. Liêm, Trình, Khoa ngồi bàn. Và trên chiếc ghế ngựa đối diện, Chuyên, Tính cùng bốn đứa con quây quần lấy cái mâm đồng có chân mà hai cái bánh đa lớn che gần kín khắp các đĩa.

Anh em ăn cơm nhà nhau như thế là sự thường. Mà khóa Liêm, người vui tính và sính làm thơ, nhất lại là bạn cờ của Trình, lần này không phải lần đầu được Trình mời đến uống rượu. Nhưng vì có câu chuyện vừa xảy ra hôm trước, Chuyên hơi chột dạ. Nàng nghĩ thầm: “Sao bỗng dưng lại mời vợ chồng mình ăn cơm, và uống rượu nữa. Thôi chắc anh ấy muốn mượn chén để... khích bác gì đây... Ừ, nếu không thì mời khóa Liêm đến làm gì?”

Khóa Liêm, cả làng Giáp đều ghê sợ cái tài trào phúng của chàng. Hôm trước xảy ra một việc gì, tức thì hôm sau ở khắp các ngã ba, ngã tư người ta thấy có dán những bài ca, bài vè mà người ta biết chắc là của khóa Liêm. Và người ta trầm trồ khen ngợi, tuy lời ca chỉ trơn tru dễ đọc, dễ hát chứ chẳng có ý tứ gì sâu xa, đặc sắc.

Thoạt tiên ai nấy vui vẻ nói chuyện. Cả mấy đứa con thỉnh thoảng cũng bàn góp một câu mà không bị mắng. Nhưng lúc lũ trẻ ăn xong đứng dậy chạy đi chơi, và hai người đàn bà, ngồi xỉa răng uống nước ăn trầu, thì ba người đàn ông đã chuếch choáng hơi men. Đầu khóa Liêm lắc lư lảo đảo như đồng mới nhập, mắt Khoa đỏ ngầu như mắt cá rói và tay Trình vỗ đùi đen đét mỗi khi đắc chí về một câu giai thoại hay một bài thơ của Liêm mà cho là hay tuyệt.

Vì Liêm đã bắt đầu đọc thơ của mình, những bài thơ cũ mà chàng làm vào những dịp kia, dịp khác, nào để đùa ông tú Tỵ với sòng bạc của ông, nào để chửi cô ả Tạ chửa hoang, lại có bài làm ra để chế riễu vợ chồng nhà họ đêm khuya cãi nhau đánh nhau om xòm.

Tới đây, Chuyên hơi cạnh lòng, bĩu môi nói nhiếc:

- Tưởng các ông dùng văn chương thi phú để ngâm hoa vịnh nguyệt, chứ nếu chỉ để tả những chuyện kín trong phòng ngủ vợ chồng người ta thì thật uổng cái tài.

Khoa liếc mắt nhìn vợ như có ý trách thầm.

Nhưng Trình cười rất thẳng thắn, đáp lại:

- Thím cứ nói thế, chứ đã gọi là thơ thì vịnh cái gì cũng phải hay. Vịnh con kiến cũng như vịnh con voi, vịnh ông vua cũng như vịnh thằng nhỏ, vịnh cái móng tay cũng như vịnh bộ râu bạc, nhà thơ đều phải thận trọng.

Thấy Trình đi hơi xa khiến chẳng ai hiểu chàng muốn nói gì, Liêm liền đỡ lời:

- Thưa bà, ông Hai nói rất đúng. Như cổ nhân làm chơi bài hịch chọi gà, thế mà sau hơn nghìn năm nay bài hịch ấy vẫn còn lưu truyền, thì đủ biết đầu đề không cứ gì khinh trọng. Thi sĩ thường mượn một ý, một chuyện nhỏ để tả cái chí lớn của mình trong thiên hạ. Như trong bài thơ vợ chồng nhà kia cãi nhau, đánh nhau, tôi chỉ cốt than phiền cho cái luân lý Á Đông đã đến buổi điêu tàn...

Văn minh Đông Á giời thu sạch,

Này lúc luân thường đảo ngược ru!

Trình kéo dài giọng khàn khàn ngâm nga, rồi hỏi Liêm:

- Không biết hai câu thơ ấy của ai nhỉ?

- Tôi cũng không rõ. Nhưng giọng thơ ấy chắc lại giọng thơ Tú Xương chứ còn ai vào đấy?

Chuyên căm tức ngồi im. Tính khẽ bảo nàng:

- Để tôi ra cất chai rượu đi. Chứ nhà tôi hay nát rượu lắm kia đấy.

Chuyên cười nhạt:

- Chào! Muốn nát thì nát đấy thôi. Nát chết người!

Không hiểu định ý của Chuyên, Tính cười lấy lòng. Rồi nàng ra bàn ăn ghé tai chồng thì thầm:

- Uống vừa vừa chứ! Đưa cho tôi chai rượu nào!

Trình cười vang lên, đáp:

- Ồ! Đã thấm vào đâu! Ông Lý Bạch đời Đường uống hàng chục chai kia chứ!

Liêm chữa:

- Lý Bạch uống rượu hũ, rượu vò, rượu chóe, vì thời ấy chưa có chai.

Khoa mỉm cười nhìn Liêm, nói:

- Chịu cái khoa trào phúng của thi sĩ.

Nhưng Trình lắc đầu, bĩu môi:

- Ồ! Chai với vò, với hũ thì khác nhau cái quái gì! Quý hồ đựng được rượu.

Liêm cãi:

- Khác nhau lắm chứ! Rượu đựng hũ, đựng vò ngon và thơm. Rượu ngày nay người ta đựng chai uống nồng mà gắt.

Tính cười bảo Chuyên:

- Nồng với gắt là tại rượu chứ tại gì chai, có phải không thím nhỉ?

Nhưng Khoa chữa thẹn cho ông khóa:

- Không, có thể lắm. Ánh sáng mặt giời chiếu qua thủy tinh có thể làm cho rượu nồng và gắt được lắm.

Mọi người quên hẳn những bài thơ châm biếm để bàn huyên thiên về đức tính của rượu, so sánh rượu tàu, rượu tây với rượu ta. Rồi từ rượu họ nói tới những chuyện nấu rượu, bắt bớ, thù hằn, đi báo đoan, hay bỏ bã rượu vào nhà, vào ruộng nhau. Những chuyện ấy họ kể như chuyện cổ tích, trong đó có cả thần, thánh và ma. Hai người đàn bà tò mò lắng tai chú ý ngồi nghe.

Nếu không một sự gì xảy ra thì bữa rượu có lẽ cũng như mọi lần sẽ tàn trong yên lặng gay gắt của buổi trưa nồng nực: Trình và Khoa sẽ đi ngủ một giấc dài cho đến tối mới sẽ dậy ăn cơm chiều.

Nhưng một sự xảy ra đã làm hoạt động, huyên náo bàn tiệc. Tựa hồ đống củi đã hầu tắt, một gáo dầu rưới vào làm cho lửa lại ngùn ngụt bốn lên.

Ai nấy đương chăm chú nghe câu chuyện hoang đường của khóa Liêm về cái tục chỉ cúng tế bằng rượu ngang ở một làng kia, thì từ cổng đi vào bà lý Thuận, một người chị họ của Trình và Khoa. Bà ta cười the thé và nói liền, liền như nước chảy:

- Chào các ông, chào hai bà ạ. Cụ đi Hà Nội rồi, cụ gửi lời chào ông Hai, bà Hai, ông Ba, bà Ba. Mãi tháng sau cụ mới lại về.

Ai cũng thừa biết rằng bà lý nói đến bà Ba. Cả ông khóa Liêm cũng hiểu thế. Nhưng Chuyên chau mày hỏi:

- Cụ nào thế, chị lý?

- Cụ ấy mà, cụ nhà ấy mà!

- Làm gì có cụ nhà!... A bà Ba phải không?

Bà lý không đáp lại câu hỏi, mở vỉ lấy ở thúng ra ba bó nhãn đặt lên cạnh bàn:

- Đây là nhãn người làng bên người ta biếu cụ, cụ bảo đem sang các chú các thím xơi nước.

Chuyên mỉm cười, mỉa mai:

- Chừng nhãn khất nợ, chứ gì?

Và bà lý thật thà đáp:

- Vâng, chính thế. Họ đến khất nợ. Cụ cho khất, nhưng bắt viết văn tự lại.

Tính cười ranh mãnh nhìn Chuyên:

- Nghĩa là bắt viết gộp vốn lãi.

- Vâng, chính thế. Có tôi nói mãi cho mới được đấy.

Chuyên đưa mắt liếc Tính:

- Phải, chị đã nói cho thì hẳn phải được.

Bà lý gọi cái Tẹo, con hầu của Chuyên, để bảo nhận lấy một trăm nhãn.

- Cụ biếu (bà lý mỉm cười) cụ dặn nói biếu chứ đừng nói cho, sợ các thím giận.

Chuyên và Tính nhìn nhau.

- Cụ biếu ông Hai bà Hai hai trăm, và ông Ba bà Ba một trăm, vì bên bà Hai đông các cháu.

Bà tý cắp thúng đứng dậy chào rồi đi ra cổng, Chuyên gọi theo:

- Chị lý, tôi không lấy nhãn đâu. Giả đấy.

Nhưng bà lý vẫn lui lủi đi thẳng, không quay lại.

Một lát yên lặng. Khoa khó chịu, nâng chén uống cạn rượu.

- Thế nào, ông? Tại sao lại chỉ có thể cúng rượu ngang được thôi?

- Vì nếu cúng rượu ty thì thế nào làng cũng động, phi có bệnh dịch tả thì có bệnh...

Ông khóa quay ra phía hai người đàn bà:

- Xin lỗi hai bà... bệnh... bệnh hoảng chưa.

Trình và Khoa cũng phá lên cười. Nhưng Tính và Chuyên vẫn lặng thinh ngồi nhìn ba bó nhãn. Chuyên thì thầm bảo Tính:

- Nhãn cô ta cho, chị lấy cả. Tôi thì tôi không thèm ăn nhãn khất nợ của cô ta.

Tính cũng thì thầm đáp lại:

- Ăn thì mọi người cùng ăn, mà không, thì thôi...

Trình cười ha hả nói:

- Ông thần hoàng làng ấy thế thì thiêng thật!

Khoa gật gù tiếp:

- Cúng rượu ty thì ông thần làm cho đàn bà con gái làng ấy chửa hoang. Nhưng chửa hoang với ai, mới được chứ, cái đó chắc không phải... ở ông thần.

Tiếng cười thét càng to. Tính như nói một mình:

- Hỏng! Họ say quá lắm!

Chuyên vẫn theo đuổi ý nghĩ của mình, nên không nghe thấy gì nữa:

- Nếu không nhận thì phải gửi giả cô ta chứ!

- Gửi theo lên Hà Nội?

- Cứ gửi giả chị lý Thuận, rồi chị ấy bắn tin cho cô ta biết cũng được.

Tính trù trừ, trù trừ vì nhút nhát:

- Làm thế có tiện không? Cô ta tử tế với mình...

Chuyên bĩu môi khinh bỉ:

- Tử tế!... Thảo nào!...

Xưa kia còn sinh thời ông án, bà Ba vẫn trọng đãi Chuyên hơn Tính, hơn cả Trâm nữa, vì biết Chuyên là con quan, tính nết hách dịch. Có thức gì ngon hay quý cũng chia cho Chuyên trước và phần Chuyên bao giờ cũng hơn phần hai người kia. Chuyên đã quen với sự phân biệt ấy rồi. Nay thấy bà Ba đặt Tính “ở trên” mình thì nàng khỏi sao không uất ức. Không phải nàng có thèm khát gì vài trăm nhãn, nhưng cái cử chỉ kia tỏ rõ sự khinh rẻ đối với nàng, và lòng thiên vị đối với Tính.

Thấy Trình ngắt một quả nhãn,Tính vội kêu:

- Đừng ăn, để giả lại đấy.

Trình trợn mắt:

- Giả lại! Giả lại ai?

Rồi thản nhiên chàng mời khóa Liêm và Khoa:

- Hết gỏi, ta nhắm với cái này cũng tốt lắm..

Chuyên ra bàn nhắc một bó nhãn, nói:

- Đấy, hai trăm cô ta biếu anh chị thì anh chị cứ dùng. Chỗ này cô ta biếu tôi, để tôi giả lại..

Trình, giọng lè nhè, đùa bỡn đáp:

- Cũng được! Tùy thím. Chứ tôi, thì tôi phải nhắm rượu với nhãn của dì Ba thân yêu của tôi.

Chuyên cười khinh bỉ:

- Chừng mới thân độ hơn tháng nay, từ ngày...

Nàng tưởng chẳng cần nói dứt câu, nghĩa cũng đã rõ rệt lắm. Rồi nàng quay ra bảo Liêm: Ông khóa vịnh thơ nữa đi, cho vui.

Khóa Liêm gật gù:

- Xin vâng... Vậy xin bà ra đề.

Chuyên vờ nhìn quanh để tìm đầu đề, rồi trỏ lồng chim khướu nói:

- Thơ vịnh con khướu.

Liêm nghĩ không đầy một phút, đọc liền:

Thân khướu như mi thật sướng đời,

Lầu son gác tia chốn mi ngơi

Nước trong gạo trắng bao giờ hết?

Chỉ việc xơi rồi lại hót thôi.

Trình và Khoa thẳng thắn vỗ tay cười reo:

- Hay, hay tuyệt! Thực là thơ thần.

Liêm giọng tự đắc:

- Rượu thánh thì phải có thơ thần chứ!

Nhưng Tính biết là Chuyên có ý ngờ vực. Và nêu ra cái đầu đề “Vịnh khướu”, Chuyên chỉ định ngầm mỉa mai vợ chồng mình. Nàng liền bảo Liêm:

- Nhưng con khướu của tôi nó có nhà lầu, nhà gác đâu mà ông khóa hạ lầu son, gác tía. Oan cho nó quá!

- Thưa bà, lầu son gác tía là cái lồng cao sơn son.

Trình vẫn cười và không lưu ý đến cái liếc nhăn nhó của vợ, trong khi Chuyên lẳng lặng bỏ về nhà.

XI

Trong khắp làng Giáp, đi đâu cũng nghe thấy người ta nói đến chuyện bất bình, khích bác, kình địch, ganh ghét, thù hằn của hai gia đình anh em Trình và Khoa.

Những người không biết rõ chuyện đều lấy làm lạ rằng hai anh em yêu mến nhau như Trình với Khoa mà có thể thù ghét nhau được. Rồi họ bàn tán thế này, thế khác. Người thì bảo chỉ tại Chuyên cậy mình là con quan, khinh miệt Tính là con nhà trọc phú. Người thì bảo trái lại, khởi đầu chính ở vợ Trình! Nàng cổ quá, luôn luôn lên mặt chị dâu với vợ Khoa, Chuyên không chịu nổi nên phải chống cự. Lại có người bình phẩm một câu mỉa mai:

- Chung quy chỉ tại đàn bà ráo! Chứ đàn ông ở với nhau có bao giờ lôi thôi điều nọ tiếng kia đâu?

Rồi, người ấy kể luôn một chuyện, hầu như chuyện cổ tích, để chứng thực cho những tư tưởng triết lý và tâm lý của mình:

“Hai anh em một nhà kia, một nhà quan tại Hà Nội, ở chung với nhau trong hai mươi năm không xảy ra một điều gì xích mích. Họ kính yêu nhau như nhân vật trong tiểu thuyết Tàu. Mà sở dĩ được như thế là nhờ về một sự ngẫu nhiên: Người em ở góa.

Nhưng bỗng người em tục huyền... Năm hôm sau, bắt đầu có sư ngờ vực. Rồi hai gia đình khích bác nhau, kình địch nhau, ganh ghét nhau, thù hằn nhau, và nếu người em không dọn nhà đi ở nơi khác thì có lẽ đã xảy ra những sự ghê gớm hơn nữa...”

Những người mang máng biết chuyện thì chia ra hai phe. Phe bà Ba và phe con chồng. Thuyết của phe trên đại khái như thế này; Bà Ba không có con trai muốn nuôi một người trong hai anh em Trình và Khoa làm con, để sau này nhường hết tài sản cho. Vì thế nên hai anh em tranh giành nhau làm con bà ta, đến nỗi sinh ra thù oán nhau.

Bọn này khinh bỉ Trình và Khoa ra mặt. Có lẽ một phần vì lòng ghen tức, thấy một trong hai anh em nhà ấy sắp sửa bỗng dưng trở nên giàu sụ, nhưng nhất họ toàn là những người có vay nợ bà Ba: Họ thường đi lại, hầu hạ, nịnh hót bà ta, và cố gắng được lòng bà ta, họ chẳng bỏ qua một dịp tốt, họ chẳng bỏ sót một tiếng tệ bại để nói xấu Trình và Khoa mà họ ghét một cách đường hoàng và hằn học. Nay nếu một trong hai người ấy được bà Ba giao hết quyền bính cho, thì sau đây hẳn là họ mất cho nương nhờ, vay mượn, những khi túng thiếu.

Người đứng đầu phe này là bà lý Thuận, người mà Khoa gọi bằng con “nặc nô”, vì thường thấy bà ta đi đòi nợ cho bà Ba. Ở những nơi quen thuộc, bà ta vẫn trầm trồ ca tụng bà Ba về cái cử chỉ quân tử của người dì ghẻ đối với con chồng: “Rõ phúc đức quá, chả tìm đâu ra một người dì ghẻ nữa như thế!” Rồi bà ta tiếp luôn: “Thực hồng phúc nhà cụ án còn to lắm”. Ai có hỏi bà ta tin tức về việc thừa tự thì bà ta chỉ cười, và nói một câu bí mật: “Cụ tôi bảo kể thì ông Khoa ngoan ngoãn hơn, nhưng ông Trình lại đứng đắn hơn”. Nghĩa là cũng chưa ai biết rõ bà Ba định “chấm” người nào trong hai con chồng.

Bề ngoài thì bà lý Thuận thớ lợ như thế, nhưng sự thực, bà ta chẳng mong ai được ăn thừa tự hết. Vì vậy, bà Ba động hỏi ý kiến bà ta về “việc nhà”, là bà ta giở hết những lời khôn khéo ra để xui xiểm ngấm ngầm. Bà ta thuật lại, bịa đặt những câu nói hỗn xược hay khí khái của Trình và Khoa, rồi kết thúc:

- Bấy, cụ lớn xem, cụ lớn tử tế với các ông ấy như thế, mà các ông ấy nỡ xử tệ.

Bà Ba thừa hiểu thâm ý của bà Lý, nhưng cũng cố buồn rầu đáp lại:

- Thôi chị ạ, tôi chỉ ở với giời! Giời biết bụng cho tôi, chị ạ. Thế là đủ rồi.

Nhưng bà lý vẫn chưa biết bụng bà Ba, vẫn không rõ bà ta đã quả quyết về việc thừa tự chưa, và trong hai người con chồng, bà ta định chọn ai.

Còn những người về phe Trình, Khoa thì họ không nhìn nhận đến sự xích mích, chia rẽ giữa hai anh em mà họ coi như không có. Họ cho rằng Trình và Khoa nhất định từ chối không thèm nhận ăn thừa tự “cô Ba” là rất phải. Họ đạo mạo thuyết lý: “Người ta có sung sướng vì tiền tài bao giờ đâu? Trái lại, tiền tài là cái nguồn khổ sở, mất bình tĩnh, mất yên vui. Đấy, cứ coi những chuyện lôi thôi xảy ra trong hai gia đình Khoa và Trình thì đủ rõ. Chỉ vì đã từ chối việc ăn thừa tự, mà hai ông chồng bị hai bà rợ rầy rà làm cho mất ăn mất ngủ. Đàn bà họ dễ hoa mắt, rối lòng về tiền lắm. Nhưng chắc thế nào rồi bọn đàn ông cũng thắng”.

Ấy là những lời bình phẩm của bọn học giả, bọn cụ cử Tỵ, cụ tú Phấn, ông khóa Liêm. Chính ông này đã làm một bài thơ Đường luật, bát cú để khen ngợi và khuyến khích anh em Trình nên vững tâm, đừng để tiền và đàn bà cám dỗ nổi. Ông ta lại soạn một bài văn tế nửa chữ nửa nôm để tống tiễn “Thần Tiền” mà đi đến đâu ông ta cũng đọc bô bô cho mọi người nghe, trước mặt cả đàn bà con gái.

Một phe thứ ba mới nảy ra, phe trung lập... Phe này phần nhiều là phụ nữ hoặc những chỗ quen biết của Trình và Khoa. Họ thiết thực và bao giờ cũng rất có lý. Họ bảo nhau: “Rõ các bà ấy mới lẩn thẩn mà các ông ấy cũng dở hơi nốt! Việc gì lại từ chối? Việc gì mà ngờ vực nhau, tranh giành nhau? Thì cứ một người nhận phăng làm con bà ta rồi khi được hưởng gia tài đem chia cho người kia. Thế thì có phải ổn thỏa không? Chả phải tôi, tôi thì tôi cứ chiều chuộng lấy lòng bà ta... Chiều người lấy của, đã chết đấy mà sợ!” Một người biết rõ lòng thù ghét của bọn con chồng đối với bà Ba bàn một câu quyết liệt: “Các ông ấy thực vụng tính! Cứ vờ bằng lòng đi, rồi một năm, hai năm sau, khi đã được lòng tin cẩn của bà ta, sẽ sửa cho bà ta một chuyến, xem có lệch nghiệp không nào”.

Có người nghe chuyện vặn lại:

- Sửa! Dễ sửa nhỉ? Người ta cũng khôn chán ra đấy. Chả khôn mà bòn được của chìm của nổi của cụ án... Ừ, mà sửa bằng cách gì, nào?

- Chả thiếu gì cách. Cùng lắm thì dắt cướp vào nhà mà thịt. Như thế có phải nhất cử lưỡng tiện không? Vừa lấy được của, vừa giả được thù.

Lời công kích nhao nhao lên:

- Câm ngay đi!... Vạ mồm vạ miệng mà chả chết! Bà ấy vẫn mời ông huyện bà huyện, cả cụ thượng, cụ bố nữa về ăn tiệc đấy. Khéo mà lại ngồi tù mọt xương!

Những lời bàn tán của người làng Giáp quanh việc nhà Trình và Khoa đều có một hai phần đúng sự thực.

Một điều mà ai ai cũng nhận rõ là cảnh bất hòa trong hai chị em dâu. Vì những người đến chơi với vợ chồng Trình hay vợ chồng Khoa đều trông thấy ngay những sự thay đổi trong cái dinh cơ cụ án Nguyễn.

Cái giàn thiên lý trước nhà ngang của Trình nay như mọc tốt hơn, dầy hơn, kín hơn. Kỳ thực, Tính đã hạ thấp cái phên phía trước xuống và ken lẫn vào trong lá thiên lý những dây thài lài mà nàng trông ở các chân cột bương cho leo lên giàn: nàng không muốn để vợ chồng Khoa trông thông thống sang cho ngồi chơi của nhà nàng.

Chuyên đáp lại liền. Nàng cho mua nứa và tre về đan kíp mấy cái giại dựng thẳng một hàng dưới mái kẽm che hiên. Nhưng vẫn còn phải chung bếp, đó là một điều khó chịu, bực tức cho nàng. Một ngày hai buổi phải qua sân nhà thờ đi xuống bếp làm thức ăn, tuy nàng không phiền nhiễu ai, vì bếp là bếp của cả hai bên chứ chẳng của riêng một mình nhà nào, nhưng nàng lấy làm chướng mắt khi gặp mặt “những kẻ” mà nàng không ưa. Vì thế một hôm nàng đã cất tạm hai gian tre lợp rạ ở ngay đầu hồi nhà gác để thổi nấu. Và nàng sung sướng nghĩ thầm, rồi lớn tiếng rêu rao:

- Thôi, từ nay khuất mắt!

Câu ấy đến tai Tính, Tính cười rất to, đoạn, quát mắng đầy tớ:

- Xiêm! Mày tưởng mặt mày đẹp lắm đấy mà người ta khao khát muốn gặp. Rõ đồ mặt dầy!

Những câu qua lại, đối chọi nhau chan chát như thế của hai người đàn bà, người làng Giáp đều biết hết. Một bọn đã hầu như tổ chức một sở liêm phóng để ghi chép những sự xảy ra trong hai nhà, rồi đem đi phao khắp mọi nơi. Nhiều khi họ còn thêm thắt, bịa đặt ra những điều không có nữa. Như ngày hai nhà còn chung bếp, họ kể lắm câu chuyên khôi hài đến hay. Chẳng hạn họ bảo một hôm thằng Phiên đái vào nồi canh của Chuyên để báo thù lại nắm muối mà hôm trước cái Tẹo, đầy tớ Chuyên, đã bỏ vào niêu cá nấu của Tính. Họ lại kháo một điều rất vô lý: là Chuyên đòi chồng rào ngăn đôi sân nhà thờ, để được biệt chiếm một giang sơn, không dính dấp gì với bên nhà vợ chồng Trình nữa.

Những lời thì thào ở ngoài, Tính và Chuyên đều biết hay đoán biết. Nhưng không vì thế mà họ chịu nhụt bớt. Trái lại, mỗi ngày họ một thêm quá quắt.

Đứng trước cái thái độ ngang ngạnh, lăng loàn của vợ, hai người đàn ông trước còn họp sức để chống cự lại.

Một hôm Khoa đã hét lớn cốt để anh và chị dâu nghe tiếng:

- Vậy mợ muốn gì? Mợ muốn tôi ăn thừa tự cô ta, phải không? Nếu thế cũng không khó gì kia mà. Nhưng mợ hãy để cho tôi được yên thân đã!

Chuyên chẳng vừa, cũng thét lại:

- Thế thì cậu hiểu nhầm tôi quá, tôi không phải hạng vục đầu vai xướng như người ta đâu mà cậu nói thế.

- Vậy mợ muốn gì?

- Tôi muốn cậu mở to mắt ra mà nhìn.

Khoa gào gần như khóc òa lên:

- Nhưng mắt tôi vẫn mở to mà tôi không nhìn thấy gì hết.

Chuyên cười mát:

- Vậy cậu thong manh mất rồi!

Một lát sau tấn kịch diễn tiếp liền ở bên nhà Trình. Tính lớn tiếng bảo chồng:

- Cậu đã nghe rõ chưa?

Trình gắt:

- Tôi chẳng nghe thấy gì hết.

- Thế thì cậu điếc đặc rồi!

- Vâng tôi điếc, nhưng mợ không điếc thì mợ nghe thấy gì?

Tính cười khinh bỉ:

- Tôi nghe thấy em cậu nói bằng lòng ăn thừa tự người ta.

Trình cũng cười, mỉa mai:

- Vậy mợ muốn tôi tranh nhau với chú Ba, phải không? Được rồi, nếu mợ muốn tôi nịnh hót để chiếm lấy cái tài sản phi nghĩa của cô ta thì thế nào rồi tôi cũng chiếm nổi.

Kết cục, hai người đàn bà mỗi người vào một xó buồng ngồi ôm mặt nức nở khóc hàng giờ.

Thấy giảng giải, thuyết lý, gắt gỏng, nói nặng đều không có một chút công hiệu gì, hai người đàn ông theo nhau đem sự yên lặng ra đối phó, không phải sự yên lặng lạnh lùng, khinh bỉ, những sự yên lặng thản nhiên của kẻ biết mình yếu thế, yếu sức không chống nổi lại địch thủ.

Khí giới thứ hai ấy cũng vô công hiệu nốt. Đàn bà họ rất ghét những người đứng trung lập. Về hùa cùng họ hay chống cự lại họ, phải dứt khoát chọn lấy một đường, nếu không, sẽ không yên được với họ. Đương đêm họ đánh thức dậy để bàn chuyện nhà, để nói xấu kẻ thù, nếu mình ậm ự trả lời cho xong việc, họ sẽ làm ầm cửa ầm nhà lên ngay.

Trình và Khoa đều đã qua cái cầu ấy.

Bất đắc dĩ Khoa phải giả tảng biểu đồng tình cùng vợ và cố nặn ra vẻ mặt giận dữ, căm tức. Có khi nhận thấy mình như trở nên có tính cách đàn bà, chàng đã phải bật cười lên tiếng.

Trình là người thẳng thắn và thực thà, không hay suy xét sâu xa: Chàng tưởng em nghe vợ và ngờ vực mình. Trước chẳng còn buồn phiền. Về sau, chàng thấy vợ có lý và khôn ngoan, sáng suốt hơn mình. Đã có lần chàng nghĩ thầm: “Tình huynh đệ làm mình mờ mắt, loạn trí. Nhưng Tính nói rất phải, ở đời chỉ vợ chồng là hiểu nhau, là thực bụng thương yêu nhau!” Câu “vợ chồng đầu gối tay ấp” của nàng, Trình cảm thấy có một nghĩa hầu như thiêng liêng.

Dần dần chàng tin theo vợ đến nỗi tìm hết cách tránh mặt Khoa mà chàng vẫn cho là một người ranh mãnh, một người đáo để. Hồi chàng yêu em thì cái tính ranh mãnh của em, chàng cũng yêu. Nhưng nay chàng thấy cái tính ấy rất nguy hiểm, rất xấu xa.

Rồi một ngày, trong khi hai người đàn bà cùng đi chơi vắng, chàng cho mời Khoa sang chơi mà bảo thẳng vào tận mặt:

- Cần gì chú phải rụt rè! Chú muốn ăn thừa tự cô ta thì cứ việc nói trắng ra. Tôi không phải như người ta đâu mà chú sợ tôi ghen ghét với chú.

Khoa cười nhạt không trả lời, lững thững trở về nhà, khiến Trình càng tức tối, và càng ngờ vực. Buổi chiều hôm ấy Trình uống già nửa chai rượu ti. Lúc say chàng bô bô nói nhảm nói nhí, quát tháo chửi mắng bâng quơ luôn miệng. May mà Chuyên đi cúng giỗ vắng, chứ không thì một cuộc đấu khẩu kịch liệt đã xảy ra, với hết cả những tiếng bẩn thỉu, những lời chua chát mà họ moi ra đem ném vào mặt nhau.

Khoa nhịn. Nhưng không phải chàng không căm tức, oán trách anh. Chàng cho anh là một người tầm thường, quá nghe vợ mà coi rẽ tình huynh đệ. Hơn thế, chàng ngờ anh xấu bụng, ghen ghét với mình vì tưởng mình đã nhận lời ăn thừa tự người dì ghẻ. Khinh bỉ bắt đầu mọc mầm trong lòng chàng. Chàng nghĩ thầm: “Thì ra anh ấy ao ước, thèm thuồng cái tài sản mà ngoài miệng anh ấy cho là phi nghĩa, là khốn nạn. Chẳng thế, sao anh ấy lại ghen tị với mình? Ừ, nếu quả thực cái ý ăn thừa tự không chàng màng lọt vào óc anh ấy, thì dù tin đích xác rằng mình nhận lời đi nữa, anh ấy cũng dửng dưng chứ, hay quá lắm đến lặng lẽ khinh bỉ mình là cùng. Can chi phải thổ lộ lòng căm tức cho mình biết”.

Thế là từ đó anh em ngờ vực nhau.

Và từ đó, chẳng mấy ngày tấn kịch gia đình không diễn, om sòm hay lặng lẽ.