Phần thứ hai - I & II
Cúc! Con đã cho nó sang chùa mời cụ Giáp chưa?
- Bẩm me đã ạ.
Bà Ba ngắm con, mỉm cười, lặng lẽ sung sướng, khiến Cúc bẽn lẽn quay mặt đi. Vì cũng như mẹ, nàng đương nghĩ tới buổi hội kiến với “cậu cử Phan”, và cái mỉm cười của bà Ba nàng cảm thấy có ngụ một ý nghĩa vợ chồng.
- Con đã bảo nó đun nước rồi chứ?
- Bẩm me, họ đến rồi đun nước cũng kịp. Đun trước để nguội đi mất.
- Thì cứ bảo nó đặt sẵn. Sư cụ đến ngay bây giờ đấy.
Quả thực, năm phút sau sư cụ tới, nhanh nhẹn trèo thang gác, tuy tuổi cụ đã ngoài sáu nhăm.
Nhà tu hành chắp tay lễ phép chào:
- Lạy cụ lớn ạ.
- A di đà Phật! Lạy cụ.
Bà Ba bước xuống dép, đặt lại cái ghế mây có tay dựa, phủi bụi cái đệm nhung đỏ:
- Xin rước cụ ngồi.
- Bẩm không dám, xin cụ lớn để mặc chúng tôi ạ.
- Bạch cụ, tôi mới về, hơi mệt, không đến chùa thăm cụ ngay được nên mời cụ sang chơi.
- Dạ.
Mục đích bà Ba cho tìm nhà sư là muốn để nhà sư ngồi chứng kiến việc gặp gỡ của bà ta với Trình và Khoa. Vì sáng nay vừa ở Hà Nội về, bà ta nhận ngay được mấy chữ của Khoa nói hai anh em muốn sang chơi có chút việc hơi quan trọng.
Bà đoán rằng việc đó chỉ là việc thừa tự. Nhưng bà không khỏi kinh ngạc. Những chuyện lôi thôi xảy ra trong gia đình hai anh em Trình, bà biết hết. Mỗi lần về làng, bà chẳng cần hỏi dò ai, tự nhiên họ kéo nhau đến mà tưng công, mà kháo với bà đủ mọi điều về bọn con chồng. Bà chỉ yên lặng ngồi nghe, thỉnh thoảng lại thở dài một tiếng như để phàn nàn cho sự bất hòa mà bà muốn không có. Kỳ thực, bà rất lấy làm sung sướng. Và bà luôn luôn nghĩ thầm: “Cho chúng mày chết! Chưa ăn thua đâu, chúng mày đã lục đục rồi. Được lắm! Chuyến này thì hết cả khí khái...”
Xưa nay bà ta thường tỏ ra ghét cái tính khí khái của vợ chồng Khoa. “Khí khái rởm!” bà bảo cho mọi người biết thế. Tuy trong thâm tâm bà vẫn thành thực muốn nuôi một người con chồng để cho hưởng thừa tự sau này, nhưng ghét, ghét cả bọn, thì bà vẫn ghét, bà thù hằn nữa. Việc thừa tự, bà cho là một việc có lợi cho bà, mà lại có hại, có hại đến danh dự bọn con chồng. Bà thừa hiểu rằng ở ngoài người ta chỉ trích bà nhiều lắm, người ta cho bà là một con yêu quái đến phá hoại gia đình ông án Nguyễn. Vậy thì việc lập thừa tự này đủ trả lời lại hết thảy những câu dèm pha vô căn cứ. Người ta sẽ bảo nhau: “Đấy! Bà ta tốt thế đấy! Mà quân tử không! Bọn con chồng đối đãi với bà ta có ra gì đâu, thế mà bà ta để ráo của cải cho. Nào xem còn ai dám ngờ vực nữa không!”
Được tiếng khen ấy, phỏng bà Ba có mất gì, có thiệt hại mấy tí. Chẳng qua, như Trình đã bàn với Bỉnh và Khoa, bà ta chỉ bỏ ra vài chục hay dăm chục mẫu ruộng là cùng. Kể thì đó cũng là một gia tài khá to, nhưng có thấm vào đâu với cái sản nghiệp hằng chục vạn của bà ta, như lời người ta đồn. Cái sản nghiệp ấy, lẽ dĩ nhiên, bà ta sẽ cho con gái bà ta. Nếu muốn che mắt thế gian thì cũng chẳng khó; cùng lắm, bà ta chỉ việc sang tên, hay hơn nữa, viết văn tự bán cho con rể, thế là không ai sẽ có thể dị nghị bà ta được, mà anh chàng ăn thừa tự cũng chẳng sơ múi vào đâu, ngoài số mấy chục mẫu ruộng hương hỏa.
“Đừng hòng những tòa nhà ở Hà Nội, Hải Phòng mà nhỡ!”
Y nghĩ ấy làm bà Ba mỉm cười và nhớ tới chàng rể mà bà đã kén. “Sắp sửa cử nhân luật nay mai rồi! Chỉ vứt đi một cái nhà ở Hải Phòng cũng đủ lo cho cậu cử ra tri huyện!”
Bà Ba tưởng tượng ngay ra một cảnh huyên náo ở công đường, dân sự tấp nập vào hầu, kẻ khúm núm, mang cái dĩa đựng lá đơn với một tờ giấy bạc, người khệ nệ bưng cái mâm trên đặt sáu chai sâm banh và một hộp bích quy tây. Trong khi ấy bà ngồi vắt vẻo trên sập gụ nơi tư thất, chơi vài hội tổ tôm với con gái và các cô lục, cô thừa kéo ghế ngồi hầu “cố” và bà lớn.
Nếu cậu cử còn trẻ chưa muốn xuất chính vội thì cưới xong bà sẽ cho cậu, mợ sang Pháp, để cậu học thi tiến sĩ, mợ học các cách ăn chơi lịch sự của người Âu. “Với lại nó đi theo để nó giữ chồng nó nhân thể. Hai, ba năm sau về, với cái bằng tiến sĩ, ít ra cậu Phan cũng phải Tri phủ!”
- Bẩm cụ lớn, ông cử sắp thi ra chưa ạ?
Câu hỏi hợp với ý nghĩ của bà Ba khiến bà giật mình: Bà vẫn tin rằng sư cụ có phép ngoại và bấm độn đoán biết tư tưởng của người ta.
- Bạch cụ vâng. Cậu cử định đỗ xong cái cử nhân là xin cưới ngay. Cụ tính có nên cho cậu cử sang Tây học thi tiến sĩ không nhỉ?
- Bẩm cụ lớn nên lắm! Đương tuổi trẻ, ông cử cũng chả cần xuất chính vội. Đi tây về rồi nhảy ngay một bước lên chức đường quan như cụ lớn thiếu thời xưa...
Nhà sư cười he hé, hai con mắt híp chặt lại.
Bà Ba cũng cười:
- Cậu cử dở hơi quá, cụ ạ. Cứ định ra làm trạng sư. Cụ tính làm trạng sư thì danh giá quái gì! An Nam mình họ chưa quen cái tên trạng sư, họ chỉ gọi là thầy kiện thôi. Mà cái tên thầy kiện tôi nghe nó làm sao ấy, như thầy cò thầy cốc vậy.
Bà lại thích trí cười tít:
- Phải không cụ, tội gì làm được quan lại chả làm quan?
- Dạ.
- Vả lại số tử vi của cậu cử là số ông bốn lọng kia.
- Bẩm cụ lớn, khi nào quan cử về chơi, chúng tôi xin lấy hầu quan cử một lá số tử vi. Chúng tôi lấy thì chẳng bao giờ sai một ly.
-Bạch cụ, thế thì hay lắm! Trong lá số tử vi của cháu Cúc, cháu cũng đứng ngôi mệnh phụ.
- Bẩm cụ lớn, chính thế. Cô thì còn phải nói! Rõ quý hóa quá, mới một tí tuổi đầu đã bà lớn rồi.
- Mà bạch cụ, lạ quá. Nó là con cầu tự, cậu cử cũng là con cầu tự. Thì ra... quả thực có tiền định, duyên tiền định cụ ạ.
- Bẩm cụ lớn chính thế. Chúng tôi đã thưa cụ lớn, khuôn mặt bà lớn cử giống như đúc khuôn mất đức Phật Quan Âm. Cả đôi mắt phượng, cả cái miếng cười tươi như hoa, cả cái mui dọc dừa. Thực là như truyền thần vậy.
- Vâng, quả có thế. Hôm nọ sang bên chùa, tôi nhìn kỹ tượng đức Quan Âm, tôi cũng nhận thấy giống lắm, giống như mẹ với con.
Bà Ba sung sướng cười the thé rồi cất tiếng gọi Cúc, chừng để ngắm nghía lại mặt con. Cúc nghe thấy mẹ và nhà sư nói chuyện mình đã lảng ra bao lan từ nãy. Nàng trở vào với vẻ mặt ngây thơ và bẽn lẽn.
Bà Ba nói với nhà sư:
- Đấy cụ coi, có phải như hệt không?
- Dạ, hệt lắm.
Cúc bỡ ngỡ hỏi:
- Dạ, me truyền gì, ạ?
- Con xuống giục nó đun nước mau lên.
Cúc vừa bước xuống thang gác, bà Ba đã thì thầm hỏi nhà sư:
- Cái bùa ấy cứ để cháu đeo mãi?
- Vâng, đeo mãi. Bùa ấy làm công trình lắm đấy ạ. Bà lớn cử mà đeo bùa ấy thì chẳng sợ sau này quan cử tình phụ; dù có mặt hay vắng mặt, quan lớn cử lúc nào cũng phải tâm tâm niệm niệm nghĩ đến bà lớn cử.
Bà Ba vội xua tay bảo nhà sư im; bà đã nhận được tiếng guốc cao gót của Cúc lộp cộp lên thang gác.
- Cái gì đây, con?
Bà hỏi, lúc trông thay trong tay Cúc một cái phong bì trắng.
- Thưa me, thư của anh Trình ạ.
- Thư gì thế?
Bà không khỏi kinh dị: Buổi sáng bà vừa nhận được thư của họ hứa ba giờ chiều sẽ sang chơi. Bây giờ gần ba giờ rồi, vậy bức thư này có lẽ là bức thư từ chối không đến chăng?
Bà Ba đoán không sai. Trong thư chỉ có mấy giòng vắn tắt:
“Chúng tôi có hứa sang thăm cô để nói câu chuyện riêng. Nhưng thiết tưởng chẳng cần sang, vì câu chuyện ấy có thế này: Chúng tôi cảm ơn cô và nói để cô biết rằng chúng tôi không thể chiều ý cô được. Xin lỗi cô”.
Mặt bà Ba dần dần đỏ bừng lên, rồi dần dần trắng tái đi. Nhà sư nghe Cúc đọc, thừa hiểu đó là việc gì rồi, nhưng cũng vờ hỏi để bà Ba khỏi ngượng:
- Bẩm cụ lớn cho tìm hai ông sang chơi.
Bà Ba giọng cố thản nhiên:
- À, bạch cụ, tôi cho tìm hai anh ấy chiều nay sang ăn cơm, nhưng ý chừng nhà lại mới có khách nên các anh ấy xin kiếu.
Rồi bà vui vẻ tiếp luôn:
- Các anh ấy khách khứa luôn luôn ấy mà!
San bưng nước ra. Bà Ba mời tận tay nhà sư một chén, rồi cầm một chén khác ghé gần vào miệng. Hơi nóng thơm bốc lên làm cho bà hơi dễ chịu, vì bà đương ngây ngất như người bị cảm hàn. Bà tìm chuyện để nói lảng:
- Bạch cụ, mới vào rét mà đẫ rét quá!
- Bẩm vâng, năm nay rồi không khéo đại hàn.
Một phút im lặng. Nhà sư nhìn ra bao lan cho Cúc đang đứng mơ mộng, gợi một câu để dò ý tứ bà Ba:
- Bẩm cụ lớn, hôm nọ quan huyện về chơi có sang thăm chùa.
Bà Ba sửng sốt hỏi:
- Anh huyện nó về à, bạch cụ?
- Bẩm vâng.
Bà Ba nghĩ thầm: “Thảo nào! Chắc lại đã xảy ra chuyện gì đây. Ừ quái lạ, ban nãy mình đã ngờ ngợ. Sao hai thằng đương thù ghét nhau mà lại cùng sang chơi. Bà tưởng chúng nó sang đôi co nhau, sang phân trần với mình, sang nhờ mình làm chứng hay khu xử hộ... Có ngờ đâu hai thằng cùng ký tên vào một bức thư lời lẽ cộc cằn... Thôi đích thị là có tay con mẹ huyện dúng vào... Mà có lẽ cả tay con Thu nữa, con Thu đáo để lắm cơ đấy!”
- Bạch cụ, chị giáo Bằng nó lâu nay cụ có thấy về chơi không?
- Bẩm cụ lớn không ạ.
Thu lấy chồng xa làm giáo học, nên ít khi về thăm nhà. Nàng là người hiền lành nhưng tính rất nóng, rất cực: đã nhiều lần nàng cãi nhau với bà Ba về việc gia đình, nhất khi còn sinh thời cụ án Nguyễn.
Thấy bà Ba băn khoăn nghĩ ngợi, nhà sư đứng dậy xin về.
- Ấy, mời cụ ngồi chơi xơi nước đã.
- Bẩm xin phép cụ lớn, chúng tôi về sửa soạn mai cúng Phật.
- Ồ! Mai rằm nhỉ! Thế mà suýt nữa tôi quên.
- Bẩm mai mời cụ lớn ra chùa lễ phật... Lạy cụ lớn ạ.
- Không dám, lạy cụ. Cúc!
Cúc ở ngoài bao lan thong thả đi vào.
- Lạy cụ đi, con.
- Lạy cụ.
- Tôi không dám, lạy bà lớn.
Cúc xấu hổ lại chạy ra bao lan.
- Cái con bé thế thì thôi. Sắp bà lớn nay mai rồi mà còn bẽn lẽn rụt rè như trẻ con.
Bà Ba tiễn nhà sư xuống thang gác.
- Bẩm cụ lớn, bao giờ cụ lớn cho cưới bà lớn cử ạ?
- Bạch cụ, họ xin cưới ngay sau kỳ thi này...
- Bẩm cụ lớn thế thì hay lắm. Đại đăng khoa rồi tiểu đăng khoa liền.
- Nhưng bạch cụ, tôi muốn để thư thả. Cháu còn bé dại lắm ạ. Chả biết rồi giao thiệp với các bà phủ, bà huyện ra sao, vì thế tôi lo lắm.
- Bẩm cụ lớn, con tông cháu giống thì bao giờ cũng chóng khôn hơn người thường, cụ lớn chả phải lo.
Bà Ba tiễn nhà sư ra tận cổng ngoài, rồi vội vàng, hấp tấp trở vào, gọi:
- San! Tỉu!
Tiếng dạ ran. Tíu chạy lại.
- Đi tìm ngay chị lý Thuận đến tao bảo cái này.
- Dạ.
Tĩu cắm đầu chạy thẳng ra cổng. Bà Ba lững thững lên gác: “Quái thực! Mình vẫn biết hai thằng ngờ vực nhau, gầm gừ nhau, chưa thằng nào dám nhận nhời... Mình cứ tưởng chúng nó làm ra giận nhau để dễ nhận nhời hơn. Vì đã đến nước ghét nhau thì còn cần gì nhường nhau nữa. Sao nay bỗng dưng lại có chuyện lạ thế này? Một cái thư hai thằng cùng ký tên! Phải hỏi cho ra mới được.
Bà mỉm cười nghĩ tiếp: “Được! Thoát sao nổi, các con ơi! Bao giờ con mèo ghét mỡ, con lợn ghét cám thì con người mới ghét tiền!”
IINửa giờ sau, bà lý Thuận đến. Cứ lời bà ta thì cách đây dăm hôm nhân dịp Bỉnh về làng, ba anh em và hai chị em dâu có cùng nhau họp mặt và ăn uống vui vẻ ở nhà Trình.
Thì ra họ đã hòa thuận nhau rồi, và Bỉnh về chỉ cốt để khuyến khích sự đoàn kết. Bà Ba tức tối nghĩ ngay đến điều đó, trong khi ngồi nghe người đàn bà thuật lại bữa tiệc long trọng, mà người ấy diễn tả như một cuộc hội họp ám muội, một âm mưu nguy hiểm.
- Bẩm cụ, con cứ tưởng ông huyện về thì thế nào cũng xảy ra chuyện lôi thôi tay ba. Không ngờ các ông ấy lại tử tế với nhau ngay được.
Bà Ba vẻ mặt cố làm ra hớn hở:
- Ồ, thế thì khá quá nhỉ! Trong gia đình có sự hòa thuận, còn gì vui bằng! Chị tính, tiền của mà làm gì, chỉ cốt cái lòng tử tế... Vậy ra hôm ấy chị cũng có đấy.
- Vâng.
- Chẳng hay đầu đuôi câu chuyện ra sao?
- Bẩm, lúc con đến thì các ông các bà ấy đương ăn cơm. Họ bàn bạc gì với nhau từ trước con chả rõ, nhưng lúc con đến thì họ nói lảng sang chuyện khác ngay. Con có ngồi dốn lại hỏi gợi một vài câu, nhưng cũng chẳng biết hơn điều gì. Con cho cái Tẹo dăm hào để hỏi dò thì nó bảo con rằng, ông huyện về, ông ấy mắng ầm lên, ông ấy khóc nữa, rồi ông ấy dàn xếp, khu xử thế nào chả rõ mà ngay buổi trưa vợ chồng ông Ba chịu xin lỗi vợ chồng ông Hai, thế rồi buổi chiều có bữa tiệc linh đình. Bẩm, tiệc to quá cơ ạ. Quay cả một con lợn...
Bà Ba mỉm cười:
- Lợn sữa chứ gì!
- Vâng lợn sữa. Cái Tẹo nó bảo cả hai mợ ấy cùng xuống bếp làm thức ăn. Bẩm không ngờ họ hòa thuận với nhau chóng thế.
Bà Ba buột miệng thốt ra một câu bình phẩm mỉa mai:
- Chà! Tử tế đấy rồi lại chửi nhau đấy. Rõ đồ trẻ con! Thế rồi sao?
- Bẩm cụ, con cũng chỉ biết có thế. Ấy là nhờ có dăm hào cho cái Tẹo đấy.
Bà Lý cười, nói tiếp:
- Bẩm cụ việc gì có tiền cũng xong. Để rồi con hỏi lại cái Tẹo một lần nữa.
Hiểu ngay rằng bà lý muốn xin tiền, bà Ba tìm cách nói chặn ngay:
- Việc gì phải cho nó? Rõ chị lẩn thẩn quá. Nó lấy tiền mà nó lại còn cười vào mặt.
Câu ấy bà Ba chưa cho là đủ hiệu lực để khiến bà lý không dám mở miệng đòi tiền phí tổn, nên bà thêm:
- À, chị lý, chỗ trăm thùng thóc quá hạn đã lâu rồi, giả cho tôi lấy thóc ăn chứ.
- Lạy cụ, cụ hãy khoan cho con một hạn nữa, để con lấy cái vốn làm hàng sáo kiếm gạo nuôi các cháu.
Cái số một trăm thùng thóc, bà lý nợ bà Ba có tới sáu, bảy năm nay, bà Ba vẫn để lửng đấy, tuy bộ coi như đã cho hẳn rồi. Đó là một ngón khôn khéo của bà, vì bà bỏ ra một lúc bốn năm chục bạc như thế, là cốt để rồi thu lợi vào không biết gấp mấy. Cứ một cái lợi bà lý Thuận đi đòi nợ chỗ này chỗ khác giúp bà cũng đã đáng cả gốc lẫn lãi món tiền thóc kia rồi. Ấy là chưa kể những khi bà sai bà lý đi đây đi đó, mà không cho lấy một xu nhỏ tiền lộ phí. Còn việc do thám thì bà Ba không bao giờ cần ngỏ lời nhờ, bà lý, cũng như nhiều ngưởi đàn bà khác trong làng, trong tổng, tự nhiên nỗ lực tìm kiếm chuyện về trình để tâng công.
Bà Ba ngồi suy nghĩ một lát như tính nhẩm những điều gì ở trong đầu. Rồi bà cười bảo bà lý:
- Động nhắc đến nợ là chị lôi lũ con chị ra thì còn ai nỡ đòi nữa!
Bỗng bà Ba làm như chợt nhớ tới bức thư của Trình và Khoa, tuy từ nãy đến giờ mấy giòng chữ ấy vẫn chiếm lấy tư tưởng bà:
- Này chị lý ạ, hai anh ấy vừa viết giấy cho tôi để nói về việc thừa tự...
Cúc đứng gần đấy chau mày ngắt lời mẹ:
- Thôi me, nhắc lại làm gì nữa.
Bà Ba mắng con:
- Cô này hay nhỉ! Dễ cô cấm tôi nói chuyện đấy chắc?
Cúc phụng phịu không bằng lòng, đi xuống nhà dưới. Bà lý ngập ngừng hỏi:
- Bẩm cụ, có phải ông Hai nhường ông Ba như lời con đoán không?
Bà Ba lặng thinh nhìn qua cửa kính, mắt đăm đẵm mơ mộng. Bà lý tưởng mình đoán đúng, nói luôn:
- Vâng, thế là phải, vì thế nào ông Hai cũng còn phải thờ cụ Hai. Cụ nuôi ông Ba làm con thế là đúng phép, là hợp nhẽ hơn.
Bà Ba nhíu đôi lông mày tỏ vẻ khó chịu: Xưa nay bà vẫn không ưng ai nhắc tới cái tên “cụ Hai” vì bà cho người ta cố ý gọi như thế để ám chỉ bà là “cụ Ba”.
- Bẩm bao giờ ông Ba sang đây ở hầu cụ?
- Ô hay, ai bảo chị thế?
Bà lý im lặng tìm hiểu, mắt ngơ ngác, liếc qnanh phòng. Va bà run sợ khi nghe bà Ba dằn từng tiếng:
- Vậy ra chị chẳng biết gì hết... Thế mà dám nói thánh nói tướng!
Bà Ba mắng mấy câu cho hả cơn giận, chứ thực ra bà cũng nhận thấy rằng mình vô lý, vì người đàn bà kia làm thế nào mà biết được những điều viết trong thư? “Người biết việc này hơn ai hết, phải là con Tẹo hay con Xiêm”, bà Ba vẫn suy nghĩ.
Ngay sáng hôm sau, bà mật cho tìm Tẹo, kẻ nội công của bà trong gia đình Khoa: Muốn phòng ngừa những sự bất trắc, bà đã không ngại công, tiếc của để chăng một lớp lưới dầy chung quanh nhà bọn con chồng.
Cứ lời đứa ở gái thuật lại, thì trước khi Bỉnh về nhà, Trâm đã viết cho hai em chồng một bức thư dài tới tám trang giấy khổ lớn. Trong thư, nó không biết Trâm nói những gì, nhưng nó thấy chủ nó buồn phiền mất hai ngày.
Hôm Bỉnh về, Trình và Khoa biết tin trước cùng toan đi trước để lánh mặt anh, nhưng không biết nghĩ sao, cả hai lại vẫn ở nhà.
Bà Ba thưởng cho Tẹo năm hào, và hứa sẽ cho hai đồng nữa nếu lấy cắp được bức thư đem sang cho bà ta xem. Bà băn khoăn về bức thư lắm, vì chắc đó là đầu mối của bao sự lạ lùng mới xảy ra.
Bà đoán quả không sai. Bức thư của Trâm gửi cho hai em chồng chính Bỉnh đã đọc cho vợ viết và đã cảm hóa được cả đôi bên, vì không những lời lẽ thấm thía, mà lý luận lại xác đáng nữa. Trong thư có đoạn này:
“Cô ta thành thực hay xảo trá, điều đó không cần bàn vội. Nhưng việc cô ta dự định và ngỏ với anh em mình là thế này: Cô ta muốn một người trong hai chú ăn thừa tự cô ta. Có lẽ vì cô ta hối hận về cái đời quá khứ, muốn chuộc lại những tội ác mà cô ta đã gây nên trong gia đình chúng ta. Có lẽ vì cô ta sợ sống cái đời tương lai trơ trọi khi con gái đã về nhà chồng rồi, nên cô ta muốn gia đình một chú sớm khuya trông nom săn sóc đến cô ta, đến cái tuổi già nua ốm yếu của cô ta sau này. Cũng có lẽ cô ta định che mắt thiên hạ và đóng một vai nhân từ trên sân khấu đại gia đình chúng ta. Ba điều phỏng đoán ấy, cũng chẳng quan hệ gì. Chỉ biết hiện giờ cô ta nêu ra một việc: ‘thừa tự’.
Nhận hay không nhận, đó mới là điều quan hệ.
Trước kia, anh bàn với các chú nên nhận là vì anh thành thực yêu mến các chú, chứ, không khi nào vì anh nể lời khẩn khoản của người đàn bà ấy.
Anh cũng tưởng rằng người ấy nhờ đạo Phật mà cải ác vi thiện, tự biết ăn năn tội lỗi, thì mình hẹp gì không tha thứ cho người ta. Vả, tôi nói điều này, hai chú với hai thím đừng giận nhé, hai chú cũng chẳng giàu có gì, thầy mất đi, gia sản còn có gì đâu! Anh thì đã an phận, tháng tháng có lương bổng đủ tiêu, chứ hai chú, tôi không dám nói thiếu thốn, nhưng giá tự nhiên có thêm vài vạn bạc thì thiết tưởng cũng chẳng nên bỏ, nhất số tiền ấy lại là tiền cô ta đã bón của thầy, nghĩa là đã chiếm đoạt của anh em chúng ta...
Ấy là anh thiển nghĩ thế.
Nhưng hai chú cùng không bằng lòng ăn thừa tự cô ta. Không bằng lòng thì thôi, chỉ có thế. Việc gì lại đi ngờ vực nhau, gỉận dữ nhau, thù ghét nhau? Mỗi khi nhận được thư của hai chú và hai thím viết lên để mách tội lẫn nhau, anh lại buồn phiền có khi anh ngồi anh khóc rưng rức và anh bảo tôi: ‘Tưởng anh em nhà này thì không bao giờ còn có thể bị cái sức mạnh gì làm ly tán nổi. Dù giận nhau, dù ghét nhau đến đâu, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau ngay, khi chúng ta thoáng nghĩ đến cái quãng đời dĩ vãng khổ sở cùng nhau sống dưới sự khinh nhờn, sự áp chế, sự độc ác của người đàn bà ấy’.
Tôi hết lời khuyên giải anh. Tôi nói với anh rằng hai chú thì nóng, hai thím thì khí khái, nên nghe thấy người ta nói đến ‘tiền’ đến ‘thừa tự’ đều quá tức giận mà lỡ lời nói nặng nhau một vài câu nhưng rồi thế nào các chú, các thím cũng lại hòa thuận như trước, hơn trước nữa.
Vả hai bên ngờ vực nhau là chỉ muốn cho nhau thằng thắn, trong sạch, như mình. Kỳ thực cả hai thẳng thắn, trong sạch. Vậy còn ngờ vực nhau làm gì nữa? Nay thiết tưởng chẳng còn cách nào phá tan ngay được sự ngờ vực bằng cách này: là hai chú, hai thím cùng sang chơi cô ta, và trước mặt nhau, trước mặt đông đủ mọi người, nói cho cô ta biết rằng cả hai cùng không nhận ăn thừa tự. Việc giản dị đến thế, có gì mà phải để bụng và ngấm ngầm ngờ vực nhau...”
Đọc thư của Trâm, Tính và Chuyên đều xấu hổ. Mấy hôm liền, cả hai cùng im hơi lặng tiếng, không thốt một lời châm chọc, mỉa mai nhau. Còn Trình và Khoa thì đều tỉnh ngộ. Họ cùng nhận thấy tính trẻ con của họ và họ chỉ mong chóng có dịp để xin lỗi nhau.
Vì thế nên Bỉnh vừa về tới nhà là hai bên làm lành với nhau ngay. Và vì thế mới có mấy giòng vắn tắt gửi cho bà Ba.