Phần thứ hai - III & IV
Đưa bức thư cho bà Ba xong, bốn người băn khoăn ngồi chờ tin tức. Và họ nói chuyện phiếm để khỏi có vẻ mong đợi. Hai ba lần Tính đã liếc mắt và khẽ hất hàm ra hiệu hỏi ý kiến chồng. Nhưng thấy Trình vẫn không hiểu, Tính bấm chàng ra hiên để bàn xem có nên giữ em và em dâu ở lại ăn cơm chiều không. Trình bằng lòng ngay và mỉm cười gật luôn mấy cái để tỏ ý khen ngợi và cảm ơn. Rồi quay vào trong nhà, chàng vui mừng bảo Khoa:
- Mời chú thím chiều nay xơi cơm xoàng với chúng tôi nhé?
Khoa nhìn Chuyèn bẽn lẽn, ngập ngừng:
- Thôi... anh chị cho... khi khác.
Cử chỉ, ngôn ngữ của nàng chưa được tự nhiên, thái độ của nàng đối với anh chồng và chị đâu, nhất là chị dâu, chưa trở lại thẳng thắn và thành thực như trước kia. Những câu mỉa mai chua chát của nàng, cũng như những lời bóng gió độc địa của Tính, nàng cố quên, nhưng vẫn luôn luôn như còn văng vẳng bên tai.
Có ĩể Trình và Khoa cũng nhận thấy chỗ khó khăn của hai người đàn bà nên cùng cố làm ra vui vẻ. Vì thế, vừa nghe vợ từ chối, Khoa vội cười, nói át ngay:
- Thưa anh chị, nhà tôi từ chối lấy lệ để được anh chị mời một lần nữa rồi mới nhận lời đấy ạ.
Trình cười theo, giọng cười ầm ĩ để che ngượng nghịu:
- Vậy xin mời chú thím lần nữa, và lần nữa và lần nữa. Thôi chả còn từ chối vào đâu được nhé!
Chuyên không giữ nỗi nghiêm trang, cũng phải bật cười lên tiếng.
- Vâng thì chúng em xin nhận lời. Nhưng thế nào mai cũng mời anh chị sang xơi cơm sáng với chúng em.
Trình nhanh nhảu:
- Xin vâng. Mời ăn thì ai nỡ từ chối bao giờ!
Tính liền đứng dậy đi xuống bếp. Khoa quả quyết muốn làm lành, khẽ bảo vợ:
- Kìa mình, xuống giúp chị một tay.
Nhưng Chuyên lơ đãng ngồi nhìn ra sân, yên lặng không đáp. Giữa lúc ấy, bà lý Thuận hốt hoảng từ ngoài cổng chạy vào:
- Ông Hai, ông Ba có nhà không?
Trình lo lắng nhìn Khoa. Chuyên đứng dậy ngơ ngác:
- Cái gì thế, bà lý?
Bà lý vừa thở vừa kể:
- Cụ đương... ngồi nói chuyện... với tôi... bỗng dưng cụ... ngất đi...
Chuyên cười mũi, lạnh lùng hỏi:
- Cụ nào thế?
- Cụ ấy mà!... Cụ ngất đi.
Giọng Chuyên càng lạnh lùng hơn, hỗn xược nữa:
- Thế à? Ngơ chuyện gì!
Ngượng vì cái cử chỉ kém lịch sự, kém nhân đạo của vợ đối với một người gặp nạn. Khoa giữ vẻ mặt thương xót, hỏi bà lý:
- Đầu đuôi câu chuyện ra sao?
Tính nghe thấy ồn ào, từ dưới bếp chạy lên:
- Chuyện gì thế, bà lý?
Chuyên mỉm cười, liếc chị dâu:
- Người ta ngất đi. Cái ngất của người ta thì còn ai lạ?
Khoa khó chịu, đã hơi có giọng gắt:
- Thì mợ hãy để bà lý kể cho biết đầu đuôi đã nào.
- Thì kể đi!
Tính sốt ruột vội giục:
- Thế nào, bà lý?
- Ấy, cụ cho tìm tôi đến, cụ phàn nàn, rồi cụ khóc mãi... Rồi cụ ngất đi.
Chuyên quay đi để giấu cái mỉm cười, vì ngắm nét mặt trang nghiêm của chồng, nàng đã hơi nhụt. Nhưng Tính không giữ nổi vẻ vui mừng hài hước, ghé vào tai chồng thì thầm nói theo giọng tuồng:
- Phu nhân lai tỉnh! Ớ phu nhân lai tỉnh!
Trình chau mày chậc lưỡi, rồi sợ bà lý Thuận nghe rõ lời vợ, chàng hỏi lảng một câu ngớ ngẩn:
- Có việc gì không?
Bà lý thúc giục:
- Xin mời hai ông, hai bà sang ngay cho... Chứ một mình cô Cúc thì cô ấy chẳng biết xoay xở thuốc men ra sao.
Chuyên nguýt dài một cái. Tính đùa bỡn hỏi:
- Thế thằng San với cái Tĩu đi đâu cả?
Chuyên cũng tiếp luôn:
- Còn bà lý đấy nhá!
Bà lý Thuận chẳng phải tay vừa, đối chọi lại liền:
- Thưa bà, nói con cháu trong nhà cơ, chứ tôi là người ngoài thì kể làm gì?
- Người ngoài, nhưng là đầy tớ chân tay.
Trình cắt đứt hẳn chuyện:
- Chú Khoa với tôi thử sang xem sao đi!
Chuyên vội kêu:
- Giời ơi! Còn sang làm gì?
Khoa thì thầm bảo vợ:
- Cứ để chúng tôi sang xem cô ta giở những trò gì.
Rồi quay ra nói với anh:
- Đi, chúng ta sang.
Tính nói:
- Có sang thì cũng ăn mặc tử tế đã chứ, đừng đánh cái áo cánh cộc như thế kia mà người ta khinh cho.
Chuyên mỉm cười:
- Cô ngất, còn biết gì mà khinh với trọng.
Bà lý thực thà:
- Bẩm, bây giờ cụ tỉnh rồi, cụ đương ngồi khóc... Có cả sư cụ cũng ở đấy.
Ít lâu nay, Chuyên đã hết kính nể sư Giáp. Nàng bĩu môi nói:
- Cố nhiên là có sư cụ.
Quần áo chỉnh tề - Chuyên đòi được chồng thắng âu phục nữa - Trình và Khoa cùng bà lý Thuận ra đi. Chuyên không chống nổi lòng tò mò thì thầm hỏi Tính:
- Chị có đoán được vì việc gì không? Hay ta cũng thử sang xem?
Tính trù trừ suy nghĩ, rồi giọng liều:
- Ừ, cần gì! Ta cứ sang xem sao.
Thế là hai người đi liền, dấn bước để kịp chồng. Lũ con, Nam, Phiên, Đạc và Liên đương nô đùa ở sân, tưởng có chuyện gì vui ở bên “bà Hà Nội” - cái tên mà chúng đã đặt cho bà Ba, vì mẹ chúng cấm chúng gọi bà kia là bà. Chúng ồn ào bảo nhau:
- Cậu mợ sang bên bà Hà Nội, chúng mình cũng sang đi.
Chúng chạy ùa ra cổng. Chuyên quay lại sua về, nhưng chúng cố lẩn lút theo cho bằng được.
Vừa bước được mấy bực thang gác, bọn Trình đã nghe thấy tiếng khóc òa. Kế tiếp những lời kể lể dài dòng.
- Bẩm cụ, hai ông với hai bà đã sang đây ạ.
Bấy giờ bà Ba mới ngửng đầu lên, và giọng đầy nước mắt, làm như đáp lại câu chào của những người mới đến:
- Không dám, các anh các chị sang chơi đấy à?
Bà cầm khăn tay, vừa lau mắt vừa gọi:
- Cúc ơi! Bảo lấy ghế mời anh chị ngồi đi, con.
Cúc ở bao lan vào, thì Tửu đã bày xong ở cạnh hai phía sập một hàng bốn cái ghế mây có tay vịn. Bà Ba cười buồn nói:
- Mời hai anh, hai chị ngồi chơi.
Rồi làm như chợt nhìn thấy lũ con của Trình và Khoa:
- Cả các cháu cũng sang chơi... thăm bà đấy à? Cô Cúc, mở hộp bích quy chia cho các cháu, nhé?
Chuyên gạt phắt:
- Thôi ạ.
Rồi nàng quắc mắt nhìn lũ trẻ:
- Đã bảo ở nhà, thế mà cũng cứ theo sang. Có về ngay không?
Bà Ba đã niềm nở ngay được:
- Chị để mặc chúng nó. Các cháu ra đây với bà. Già trẻ vẫn ưa nhau.
Tính quay đi giấu cái chau mày. Nhà sư đứng dậy cáo từ, vì không thấy ai lưu ý đến mình. Bà Ba vội đứng dậy theo:
- Ấy, mời cụ ngồi chơi xơi nước đã. Với lại tôi còn bạch cụ một câu chuyện riêng cơ mà.
Sư cụ lại lẳng lặng ngồi xuống. Mấy đứa trẻ được chia bánh đã xuống cả dưới sân.
Bà Ba đăm đăm nhìn khoảng trời xanh qua ngọn cây trúc đào trồng bên cửa sổ. Bỗng bà sụt sùi khóc, kể lể:
- Các anh, các chị có thấu tình cảnh cho tôi không?... Tôi nghĩ mà tôi buồn quá... Tôi làm bạn với thầy trong mười mấy năm giời... được một em Cúc...
Chừng không tìm ra ý gì để nói, mà có lẽ cũng chưa biết rõ mình định đưa câu chuyện đến đâu, bà Ba lại nức nở.
Trình hơi cảm động:
- Có điều gì, xin cô cứ nói cho chúng tôi biết.
- Cực nhục lắm các anh, các chị ạ...
Bà quay sang phía nhà sư, nói tiếp:
- Cụ Giáp đây cũng như người trong nhà, tôi mới dám tỏ rõ câu chuyện nhà ở trước mặt cụ. Cụ biết đấy, quan lớn tôi thực phúc đức quá!
Không bỏ qua một dịp nào có thể lợi dụng được, nhà sư cúi đầu, lễ phép ngắt lời:
- Nam mô A di đà Phật, bẩm cụ lớn ông giá Giời Phật để thọ thêm độ vài năm nữa thì nhà chùa đã có cái cửa võng hậu cung thếp vàng rồi. Bẩm, cụ lớn ông sắp sửa cho khởi công thì ngài tịch, thành thử cái cửa võng cứ để mộc mãi đến ngày nay.
Bà Ba quên cả buồn, cả khóc, vội kêu:
- Thế à? Sao cụ không bảo. Được! Để rồi tôi xin đứng...
Nhà sư tưởng bà Ba hứa sẽ bỏ tiền ra, nhưng bà ta tiếp luôn:
- Tôi xin đứng ra quyên trong hội Phật Giáo làng ta kẻ ít người nhiều để lấy tiền thếp vàng cái cửa võng hậu cung.
Nhân tiện, nhà sư nhắc đến “việc hậu” mà nhà sư ngờ rằng bà Ba đã quên bẵng đi rồi:
- Bẩm cụ lớn, cả cái cửa võng ở gian thờ hậu lâu ngày cũng đã cũ lắm, mà ngày xưa các cụ lại thếp bạc chứ không thếp vàng. Giá đủ tiền xin cụ lớn cho sửa sang luôn một thể.
Ngừng một giây, nhà sư lại nói:
- Bẩm cụ lớn, các ông các bà vào hậu từ trước cúng vào nhà chùa cũng chưa được mấy. Có mỗi một bà nhiêu Tề cúng được hai mẫu ruộng là to nhất, thì nhà chùa lại dựng riêng một cái bia để kỷ niệm công đức, còn bà hội Khoai...
Sợ câu chuyện nhà chùa đi xa quá, bà Ba ngắt lời:
- Vâng, rất nên vào hậu. Còn gì bằng được các cụ cúng cho, tụng kinh niệm Phật cho, để vong linh được siêu sinh tịnh độ. Tưởng ai ai cũng nên vào hậu, chứ chả cứ những người vô tự...
Nhà sư vui mừng chấm câu:
- Dạ.
- Nhưng tôi nghĩ đến lúc sống hơn đến lúc chết, cụ ạ. Vẫn biết sống gửi thác về, nhưng mà cảnh già trơ trọi thì khổ sở lắm, bạch cụ. Vì thế mà...
Bà Ba lại ngừng, và nước mắt ở đâu ứa ra rất mau.
- Vì thế mà tôi muốn được một anh trong hai anh cháu... Bây giờ tôi già rồi, cụ ạ... Tôi muốn có người để giao các hết công việc cho... Tiền của đấy, cơ nghiệp đấy, tôi chết thì tôi có mang đi được đâu... Cháu Cúc rồi nó đi theo chồng nó... Cái nghề con gái trông cậy gì được... Nó về nhà người ta, nó khuân của về làm giàu cho nhà người ta...
Như chợt nhớ ra, bà Ba gọi:
- Cúc!
- Dạ!
Cúc ở bao lan đi vào.
- Con xuống nhà chơi với các cháu, chẳng nhỡ nó ra bờ ao mà xẩy chân thì khốn đấy.
- Vâng.
Cúc lặng lẽ xuống thang gác. Bà Ba hạ giọng:
- Con bé nó oán tôi lắm cơ đấy...
Bà bỏ lửng câu, thành thử không ai hiểu Cúc oán bà về việc gì. Rồi bà tiếp sang chuyện khác ngay:
- Kể ra thì tôi cũng chẳng cần phải xin một anh ăn thừa tự, vì con quan lớn tôi, tôi cũng coi như con tôi cả...
Chuyên giận dữ, yên lặng đưa mắt liếc Tính.
- Nhưng, tôi đã nói, tôi muốn có một anh ở hẳn với tôi như con đẻ với mẹ thực ấy kia... Lạy giời lạy phật, tôi chỉ có một lòng thẳng thắn... Vì thế... (bà Ba nức nở) vì thế nhận được mấy chữ... của hai anh... tôi khổ sở... tôi đau đớn... tôi uất lên...
Và bà lại uất lên. Hai mắt lim dim, bà ngả người về phía sau rồi nằm vật lên đống chăn bông bọc nhiễu đỏ cạp nhiễu xanh. Nhà sư đứng dậy:
- Bẩm cụ lớn, bẩm cụ lớn...
Bà lý Thuận chạy vội lại, đỡ bà Ba:
- Thưa hai bà, hai bà nâng cụ một tí này!
Nhưng Tính và Chuyên chỉ ngồi nhìn. Sợ cái ngất của mình sẽ trở nên khôi hài, bà Ba làm như cố gượng ngồi dậy, tựa lựng vào tường, rên khừ khừ, một tay chống xuống sập, một tay vuốt ngực:
- Giời ơi, khổ sở thân tôi, sao tôi không chết quách đi để làm phiền biết bao người... Ới quan lớn ơi, quan lớn có khôn thiêng thì quan lớn cho tôi chóng được đi theo... quan lớn...
Lúc bấy giờ người nhà bưng nước chè tầu lên. Uống cạn chén nước nóng, bà Ba bỗng thấy tỉnh táo. Bà lại ôn tồn nói tiếp câu chuyện bỏ dở:
- Tôi vẫn tưởng các anh các chị ưng thuận rồi chỉ còn bàn với nhau xem ai nên nhận lời. Đến lúc tiếp được thư của hai anh, tôi mới ngã ngửa người ra...
Nhưng lần này, bà Ba không ngã ngửa người ra nữa. Sư cụ bàn chêm một câu:
- Thôi, hai ông chả còn phải nghĩ ngợi gì, cụ lớn quý mến hai ông như vàng như ngọc, nên cụ lớn mới khẩn khoản ngỏ lời, chứ trong hàng cháu có thiếu người đâu, cụ lớn nuôi ai mà chẳng...
Bà Ba cướp lời:
- Cháu thì nói làm gì! Với lại, trước con rồi sau mới đến cháu, cụ ạ, nhân tâm ai chả thế, phải không, bạch cụ?
- Dạ. Bây giờ, thưa hai ông, thế này này: ông Hai thì thờ cụ lớn bà... đã quá cố... còn ông Ba thì ở... hầu cụ lớn... đây...
Trình trừng trừng nhìn sư cụ:
- Thiết tưởng việc nhà chúng tôi, sư cụ biết thế nào mà bàn.
Sư cụ cười khô khan, hai đuôi mắt nheo dài và xếch lên thái dương, cặp môi mỏng sẽ rít lại và hé ra một lỗ sâu, khoảng chiếc răng gẫy: toàn dung mạo nhiễm đầy vẻ hỗn xược.
- Thưa bà, nhà chùa cũng bàn góp thế thôi, còn quyền định đoạt thì ở cụ lớn kia chứ!
Thấy tình thế trở nên gay go, bà Ba liền phỉnh bọn con chồng một câu:
- Kể ra thì quyền định đoạt ở các anh các chị ấy, các anh các chị ưng là xong ngay.
Liếc nhìn nét mặt dữ tợn của Tính và nét mặt lạnh lùng của Chuyên, bà Ba cho rằng nhà sư đã vô tình nói hớ. Nhưng sự thực, nhà sư không vô tình, mà chính cố ý thốt ra những câu chua chát, đau đớn. Vì bao giờ người tu hành ấy cũng nhớ đến mục đích của mình trong những lúc “hầu chuyện cụ lớn”. Mục đích ấy là việc “vào hậu” với tất cả quyền lợi của chùa trong việc đó. Không lúc nào nhà sư thấy cần phải phấn đấu cho quyền lợi bằng lúc này.
Quyền lợi! Hai tiếng ấy đã hầu như mọc rễ trong khối óc sư cụ. Mà sư cụ cũng không giấu diếm ai rằng mình nghĩ đến quyền lợi của nhà chùa. Trái lại, sư cụ còn khoe khoang nữa, khoe khoang cái tài làm giàu của mình với các ông kỳ hào, tộc biểu.
“Đấy, các cụ coi, lúc tôi đến thì chùa xiêu, tượng nát. Bây giờ tôi đã xây lại chùa, tô lại tượng, đúc lại chuông, tậu thêm ruộng thêm vườn”.
Đừng nói đến thuyết “diệt dục” với sư cụ, sư cụ chẳng hiểu gì đâu. Đạo Phật của sư cụ không phải là cái đạo huyền bí, cao siêu, cái đạo thoát tục của Thích Ca. Nó chỉ là mấy câu kinh câu kệ học thuộc lòng, nó chỉ là những cái bùa yểm mả và sự chí thú làm giàu cho nơi mình chụ trì.
Nhưng điều sau cùng này, người ta rất ngờ vực. Và người ta thì thào với nhau rằng sư cụ nói đến quyền lợi của chùa để lấy cớ thu quyền lại về cho mình, cho nhà mình. Vì người ta thấy nhà sư cụ một ngày một thêm giàu, và thằng cháu sư cụ năm nào cũng tậu ruộng, hoặc sửa sang lại nhà cửa.
Người cháu ấy thỉnh thoảng có đến thăm sư cụ. Người ta đồ là đến thúc tiền, đến bòn của. Và cho bõ ghét, người ta bảo nhau: “Cháu gì, con cụ đấy! Các bà xem, giống nhau như lột!” Có người lại quả quyết rằng mẹ người cháu nhiều lần đến chùa, đêm khuya mò vào phòng sư cụ.
Chẳng rõ những chuyện ấy thực hay hư, nhưng một điều ai ai cũng biết chắc chắn là sư cụ thích tiền, thích làm giàu, dù làm giàu cho nhà chùa hay làm giàu cho nhà mình cũng vậy. Những thiện nam tín nữ của sư cụ, sư cụ chia ra làm ba hạng: hạng giàu, hạng đủ ăn và hạng nghèo. Hạng trên mời cụ đến cúng, cụ sốt sắng và thân hành đi ngay. Hạng giữa, cụ cho sư bác đi thay. Còn hạng dưới thì có đừng hòng “thỉnh cụ”, và, nếu muốn xin bùa xin dấu, phải cúng tiền ngay, cái lệ mà không bao giờ cụ thi hành với người giàu.
“Giàu có sung sướng thực!”
Câu ấy luôn luôn ở trong miệng người tu hành. Nhưng sư cụ thường thêm ngay:
“Tha hồ làm phúc làm đức, đi lễ đi bái, dựng chùa dựng chiền. Thực phú quý sinh lễ nghĩa”.
Và sư cụ không quên kể những chuyện hằng sản hằng tâm, những tấm lòng nhân đức đối với đạo Phật. Cái tên “bà Hưng Ký” người làng Giáp không ai không thuộc, tuy trong bọn thiện nam tín nữ, chẳng mấy người đã đặt chân tới Hà Nội, chứ đừng nói tới chùa Hưng Ký vội. Dù thế mặc lòng, họ vẫn kể đi kể lại cho nhau nghe những cái đẹp, cái lạ của ngôi chùa, làm như chính mắt mình đã trông thấy chứ không phải thuật theo lời khoác lác của sư cụ:
- Úi giời ơi! Các bà ạ, cụ Hưng Ký bỏ ra mười vạn để xây một ngôi chùa. Những đất cũng đã đến hàng vạn rồi! Các bà tính đất người ta bán thước chứ có phải bán mẫu, bán sào như ruộng dưới ta đâu. Mười mấy đồng một thước đấy!
Một người nghe tròn xoe mắt nhìn và kêu:
- Mười mấy đồng một thước? Chừng thước tây đấy chứ!
- Ừ thì thước tây nữa. Thế mà đất chùa rộng tới ba mẫu. Còn chùa thì chả phải nói! Xây một cái tam quan cũng tốn hơn dựng cả một ngôi chùa khác rồi.
Dựa vào lời sư cụ, họ thêm thắt, bịa đặt những điều vô lý. Họ trộn lẫn loạn xạ những sứ, những vàng, những tượng, những kiểu tàu, kiểu tây.
Ngoài bà Hưng Ký, sư cụ còn tán dương công đức một người nữa: ông Thanh Hương. Ở làng Giáp không ai biết tên thực ông ta là gì, Thanh Hương là tên hiệu của ông ta, một hiệu bán thuốc lào rất có tiếng ở Hà Nội. Nhờ về việc thương mại ấy mà ông ta có một cái tài sản to. Người ta cũng không biết to bao nhiêu, chỉ biết ông Thanh Hương đã bỏ ra bốn, năm vạn - có người nói mười lăm vạn - để cúng vào chùa này, chùa nọ và nhất là để dựng một ngôi chùa tuy không lớn bằng chùa Hưng Ký, nhưng cũng lớn lắm, nếu cứ tin ở lời huyên truyền của người làng Giáp.
Ông Thanh Hương, không như bà Hưng Ký mà người ta chỉ biết tiếng, ông Thanh Hương, ai ai cũng đã gặp mặt, một vẻ mặt lù dù, và đã nghe thấy giọng nói, một giọng nói lù dù. Ông ta người hạt Bắc Ninh. Thỉnh thoảng ông ta về làng Giáp chơi không phải vì ông ta mến đức cụ Giáp hay để xin bùa của cụ. Ông ta chỉ về thăm, về “hầu cụ án bà”. Ngày xưa cụ án đã tri nhậm huyện ông ta, sau lại làm án sát Bắc Ninh, và đã trông nom cho ông ta nhiều lần, nhất là lần ông ta ra tranh lý trưởng. Nhớ ơn, ông ta năm năm về làng Giáp cúng, giỗ, lễ tết, ngay từ hồi cụ án mới hồi hưu. Và sau khi cụ án qua đời, ông ta vẫn không quên lệ cũ.
Bà Ba quý trọng Thanh Hương một cách đặc biệt, quý trọng vì ông ta giàu cũng có, nhưng nhất vì muốn dương oai với người làng: “Ông Thanh Hương, thầy tớ quan lớn ngày trước”, bà nói với khắp mọi người, cả trước mặt ông Thanh Hương. Và nhà trọc phú có lẽ cũng coi sự làm “thầy tớ” cụ án là một hãnh diện, một danh giá đối với bọn người làng Giáp.
Giới thiệu Thanh Hương với sư cụ là một việc không cần cho bà Ba. Lần đầu về làng Giáp, Thanh Hương đã ra chùa lễ rồi: Một người mộ đạo Phật như Thanh Hương đi tới đâu mà nhãng quên được cái việc quan hệ ấy, huống chùa Giáp lại là một chùa có tiếng, có tiếng vì sư cụ cao tay, và vì bà Ba quảng cáo.
Thanh Hương đã cúng vào chùa Làng Giáp rất hậu, nhưng không phải vì thế mà mỗi lần hầu chuyện bà Ba, nhà sư nhớ nhắc đến các việc phúc đức của ông ta; sư cụ chỉ muốn bà Ba theo gương Thanh Hương mà trở nên rộng rãi đối với chùa làng Giáp như ông kia đã bỏ tiền ra không tiếc cho chùa làng ông ta. Sự cụ còn ngấm ngầm ao ước hơn thế nữa: làm chủ nhân số một trăm mẫu ruộng của bà Ba ở làng Giáp. Sự mong mỏi ấy nhà sư không cho là viển vông, nhưng cũng nhận thấy khó khăn vì đã biết rõ cái tính chặt chẽ, bo siết của bà Ba.
Nhà sư đã hầu thất vọng thì xảy ra việc “thừa tự”. Việc ấy không những không đi ngược, mà trái lại, còn giúp cho quyền lợi của sư cụ. Là vì để tự nhiên thì bà Ba không thấy “vào hậu” là cần cho linh hồn bà sau này. Việc thừa tự trong một gia đình lộn xộn, lục đục, sẽ mở rộng mắt bà ra và sẽ làm bà lo sợ, kinh hoảng cho tương lai, cho vong linh bà. Miễn là khéo xoay!
Khéo xoay! Tất cả tâm lực, tất cả thông minh, tất cả xảo trá, nhà sư đều để vào đấy. Và trong óc nhà sư nảy ra không biết bao nhiêu cơ mưu quỷ quyệt. Có đêm nhà sư thức suốt sáng để tìm kế, và nhiều lần, lẩm bẩm nói một mình: “Khi nào bà ta tha thiết việc vào hậu hơn việc thừa tự là được!”
Vì thế nhà sư thấy cần phải năng ở bên cạnh bà Ba, để luôn luôn đem những cái đẹp, những cái hay, những cái đáng sợ, nhất là những cái đáng sợ của đạo Phật mà dụ bà. Và nhà sư mừng thầm rằng hiện đang đi đến sự đắc thắng. Hai anh em ngờ vực nhau, hai chị em dâu ganh ghét nhau, nhà sư cũng không phải không có chút công lao vào đấy. Còn như cái việc thừa tự mà bà Ba vẫn xoắn lấy, nhà sư không coi là một việc nguy hiểm cho quyền lợi của mình nữa. Nhà sư thừa biết rằng thực ra, trong thâm tâm, bà Ba vừa thù, vừa ghét hai anh em Trình. Vả hai người đàn ông nhu nhược ấy, nhà sư cho không phải là tay địch thủ. Địch thủ gì hạng người không quả quyết bao giờ, nhất lại không bao giờ có chí làm giàu!
Nhưng hai người vợ thì hơi đáng sợ. Nhà sư cho rằng tuy ngoài mặt họ làm ra không thiết của, kỳ thực, lòng dục vọng của họ đã lên tới cực điểm. Vì thế họ tức tối, oán giận nhau, người nọ chỉ sợ người kia chiếm mất cái gia tài mà cả hai cùng thèm muốn.
Ban nãy, được tin bà Ba ngất đi, nhà sư hấp tấp đến thăm, trong lòng băn khoăn nửa mừng nửa lo.
Việc đầu tiên của nhà sư là đốt dấu và thư phù vào bát nước mưa rồi đưa cho bà Ba uống sau khi đã ngầm bỏ vào đấy một ít bột thuốc “giải nhiệt tán” mua ở một hiệu bào chế Tàu. Rồi khi bà Ba đã thuật lại cho nghe đầu đuôi câu chuyện vừa xảy ra, nhà sư khéo não nuột thở dài và phàn nàn:
- Lạy Phật tổ, thực các ông, các bà ấy không biết điều một tí nào, chỉ làm phiền cụ lớn.
Bấ Ba cũng thở dài phàn nàn:
- Bạch cụ, lắm lúc tôi chán gia đình quá. Đấy cụ coi cảnh gia đình nhà quan án tôi. Các cụ bỏ cửa bỏ nhà đi tu thực cũng phải... Gia đình như thế thà chẳng có gia đình còn hơn.
- Dạ, đức Phật Thích Ca là con vua mà cũng bỏ nhà đi tu đấy ạ.
- Bạch cụ, đức Phật là Phật là Giời, tôi chẳng dám ví nhưng trong cảnh gia đình nhà tôi lắm lúc tôi cũng thấy tôi khổ như đức Phật.
Câu chuyện ngớ ngẩn của hai người chẳng ăn nhập gì với hoàn cảnh hiện tại. Sự thực, cả hai cùng đương theo đuổi một ý nghĩ thầm kín: bà Ba cốt tỏ với sư cụ rằng mình coi hai người con chồng như con mình. Còn sư cụ thì muốn đưa bà Ba tới chỗ “vào hậu”, tới chỗ đem gia sản cúng chùa. Vì thế, sư cụ đáp lại bà Ba:
- Bẩm cụ lớn, gia đình thực phiền phức, thực khó chịu như lời cụ lớn truyền, bẩm cụ lớn nghĩ mà xem, ông Thanh Hương thì ông ấy thiếu gì cháu. Anh ông ấy con đàn cháu đống, hai em ông ấy cũng gia đình đông đúc. Thế mà ông ấy có thiết gì đến gia đình! Giời bắt hiếm hoi, ông ấy có nuôi cháu để cho ăn thừa tự đâu? Ông ấy chỉ nghĩ đến làm việc phúc, hết cúng chùa này, lại xây dựng chùa kia, rồi nào đúc chuông, nào tô tượng, thôi thì đủ các việc phúc việc đức. Ông ấy bảo chúng tôi rằng để tiền cho các cháu chúng nó chơi bời lêu lổng, không bằng đem dâng cúng Phật...
Bất giác bà Ba mỉm cười. Bà thấy sư cụ quá vụng về. Bà hiểu thấu sư cụ cũng như hiểu thấu bọn con chồng. Nhưng bà vẫn tưởng sư cụ là người rất mực khôn ngoan, khéo léo, chứ có đâu lại tán tiền một cách trống trải như thế? Người đời, lúc nào bà cũng nhìn thấy họ quay cuồng, lừa lọc. Lòng người, bà thường trông thấy rõ các màu của nó hiện ra trong cuộc thí nghiệm.
- Bạch cụ, cụ nói rất phải.
Câu nói như buột miệng thốt ra. Bà Ba đã để cả tâm trí vào việc khác, vào việc đối phó với bọn con chồng. Vì lúc ấy, bà nghe thấy tiếng giầy anh em Trình trên thang gác.
* * * * *
Một lát sau, nhà sư về chùa. Một phút im lặng. Rồi bà Ba bắt đầu:
- Phúc đức quá, năm nay cụ sáu mươi bảy tuổi đầu mà vẫn khỏe mạnh... như hạng trẻ giai.
Chuyên mỉm cười rất xược, chừng để mai mỉa tiếng trẻ giai mà bà Ba đã dùng một cách rất tự nhiên và thẳng thắn.
- Người ta đồn sư cụ có chán con đấy.
Bà Ba cặp mắt trợn trừng:
- Chết! Bậy quá. Tội chết... Sao chị nỡ....
Chuyên chẳng chịu nhụt:
- Thưa cô, thì tôi cũng nghe thấy người ta đồn thế... Vả thời buổi này, như thế là thường.
- Sao chị biết?
Lòng căm tức khiến bà Ba ném ra câu trào phúng gọn gàng ấy. Nhưng bà chợt nghĩ lại và nói lảng ngay:
- Sư cụ chùa ta thật là một vị chân tu đắc đạo. Đấy, hai chị coi, từ ngày cụ về tu ở chùa ta, cụ đã tu bổ chùa hai lần rồi. Lại tậu được thêm ruộng, thêm vườn.
Khoa mỉm cười, nghĩ thầm:
“Vậy ra tậu ruộng tậu vườn, là chân tu đắc đạo”?
Thấy câu chụyện đã trở nên nhạt nhẽo, buồn tẻ, Trình đứng dậy chào xin về. Ba người kia đứng lên theo. Tức thì bà Ba lại nhớ đến vở kịch đương đóng giở và mếu máo nói:
- Khổ quá, nào tôi đã nói xong câu chuyện với hai anh, hai chị đâu mà đòi về được.
Bốn người đưa mắt nhìn nhau. Bà Ba nói luôn:
- Thì mời các anh, các chị hãy cứ ngồi xuống một tí nữa đã nào.
Bà quay bảo bà lý Thuận chắp tay đứng phía sau:
- Chị lý, chị đưa hộ tôi hộp bích quy.
Rồi mở nắp ra mời:
- Anh chị xơi tạm. Ăn thừa các cháu cũng chẳng sao, phải không?
Trình và Khoa cùng đỡ lấy chiếc bánh và cùng lí nhí nói:
- Cám ơn cô.
Còn Tính và Chuyên thì cùng giơ tay ra gạt:
- Cám ơn, cô.
Chuyên tiếp luôn:
- Tôi hơi đau bụng.
Bà Ba tươi cười:
- Cả hai chị cùng đau bụng? Khéo bảo nhau nhỉ?
Đương chuyện ấy, bà nhảy ngay sang chuyện khác:
- Hai chị ạ, lắm lúc tôi chán quá, tôi định đem hết tài sản cúng vào chùa, cúng hết vào chùa.
Rồi bà lại cười:
- Kìa hai anh xơi nữa đi chứ.
- Xin đủ ạ.
- Đủ gì mà đủ! Anh phải ăn nữa.
Vừa nói, bà vừa ấn vào tay mỗi người đàn ông một cái bánh.
Chờ mãi không thấy bà Ba, trong câu chuyện huyên thiên, quay về việc thừa tự và nhất là việc cúng hết tài sản vào chùa, hai người đàn bà lại đứng dậy chào:
- Thôi, chúng tôi xin về.
Bà Ba cũng đứng dậy theo:
- Các anh các chị nhất định về à? Vâng thì các anh các chị về. Thỉnh thoảng sang chơi nhé!
Lần này bà quả quyết không giữ nữa.
IVBà Ba giục giã Cúc sửa soạn để đi Hà Nội. Bà vừa nhận được tin trúng tuyển của con rể, trong một bức điện tín dài giòng: “Đậu cử nhân luật hạng bình. Sẽ xin về Giáp bái yết me và thăm em Cúc - Phan”.
Để chiều cái tính háo danh của bà Ba, Phan đã không tiếc tiền, và đã coi thường nụ cười chế nhạo của người giữ việc đánh dây thép ở sở Bưu chính, khi người ấy nhẩm đọc cái văn chương khoe khoang của chàng.
- Thế cậu ấy đề gửi chọ me hay cho con?
Bà Ba vui vẻ hỏi miệng mụm mĩm cười với bóng mình trong gương đứng, vì bà đương đội khăn. Cúc bẽn lẽn, đỏ ửng hai gò má.
- Cậu ấy đề gửi cho con à?
- Không... gửi cho me.
- Đề thế nào cơ, hử con?
Cúc cầm bức điện tín đọc:
- “Cụ lớn án, làng Giáp...”
Sung sướng tràn ngập trong lòng, và lộ ra trên nét mặt bà Ba.
- Người có học thức bao giờ cũng giữ lễ độ. Me đến ghét những đứa học hành dở dang chẳng biết phép tắc phép tiếc gì cả. Viết thư cho người An Nam với nhau mà đề bà đầm nọ bà đầm kia là cái nghĩa lý quái gì? Lại mấy cái thằng nhãi ranh con dì phán cả nữa, lần nào viết thư cho mình, cũng bày vẽ bà đầm vơ bà đầm viếc nhắng nhít lên. Còn lão phán, thằng bố chúng nó thì chẳng biết kiêng nể gì, có lần nó đề toẹt ngay tên thầy con lên phong bì. Me đã mắng cho mất mặt đi...
- Bẩm me, theo cách đề phong bì của người Tây...
Bà Ba bĩu môi:
- Tây với Tàu! Có tây nửa mùa ấy! Cậu Cử dễ cậu ấy không thuộc pháp luật tây à? Thế sao cụ ấy không đề bà đầm Thân?
Bà Ba là người đa nghi. Giá lúc khác, và giá người khác gửi thư cho bà mà ngoài phong bì viết dài giòng như cái điện tín của Phan, thì chắc, trong thâm tâm, bà đã ngờ vực rằng người ấy nịnh hót bà, tuy ngoài mặt bà vẫn phớn phở sung sướng. Nhưng người gửi là Phan vừa đậu xong cử nhân, nên bà không kịp nghĩ ngợi xa gần: cái mừng con gái sắp được thực thọ lên bà lớn đã chiếm lấy cả tâm hồn bà, làm bà mê man, cuống quýt.
Song, không phải vì nóng được mừng con rể mà bà Ba vội vàng đi Hà Nội. Vả bức điện tín của Phan cũng chỉ chứng thực cái tin đã hầu chính thức: Anh người nhà trên Hà Nội, mà bà Ba cho chầu chực bên cạnh Phan trong những ngày thi, đã về làng Giáp từ hôm trước để báo tin cho bà biết rằng Phan vào xong các kỳ vấn đáp rồi và kỳ nào cũng rất khá.
Bà Ba vẫn đi lại hay cho người nhà lại hỏi thăm săn sóc đến Phan một cách thân mật, cảm động như thế. Ngay từ hôm chạm mặt, bà đã coi Phan là chàng rể của bà rồi, nay cho thức này, mai cho thức nọ. Sau lễ hỏi, Phan đã được phép nói chuyện với Cúc ở trước mặt bà, làm thế để ra vẻ con nhà gia giáo cũng có, nhưng nhất là để bà có thể nâng đỡ con trong câu chuyện thử thách hay khoe khoang. Buổi đầu Phan còn cố ý làm ra ngượng ngập, bẽn lẽn.. Nhưng sau thấy bà Ba luôn luôn xưng me với mình, chàng trở nên mạnh bạo, kêu bà là me và gọi Cúc là em bằng một giọng rất tự nhiên, âu yếm nữa.
Vậy bà Ba hấp tấp đi Hà Nội, ngay sau khi nhận được bức điện tín, thực không phải vì sự đắc thắng của Phan mà bà đã chắc từ trước. Chỉ vì bà không muốn để Phan về làng Giáp. Trong những câu chuyện với con rể, bà thường nói đến gia đình ông án, cố tỏ cái oai quyền của bà trong đám con chồng bang cách xưng hô hách dịch, bằng cách khoe mẽ quá đáng. “Bẩm me con thế này, con thế nọ”. Có khi bà lại đi quá xa trong sự hãnh diện đối với con rể “Thằng Khoa, nó thế mà khá hơn thằng Trình. Tôi không đẻ ra nó, chỉ có công nuôi nấng nó thôi, nhưng nó coi tôi chẳng khác gì mẹ nó”.
Vì có những lời khoác lác ấy, nên bà Ba rất sợ cuộc gặp mặt của Phan với bọn con chồng. Còn đâu là thể diện của bà, nếu đứng trước mặt chàng rể, Khoa thốt một câu vô lễ, hay Trình lộ vẻ mặt lạnh lùng. Nói gì đến Tính và Chuyên nhất là Chuyên! Bọn ấy đương lập tâm hạ bà xuống, bêu xấu, bêu nhuốc bà, thì nhân dịp chàng rể về làng, họ nể nang gì mà không giở hết cái tàn ác thô lỗ của họ ra.
Những điều ấy bà Ba thường lo sợ nghĩ tới. Và việc thừa tự bà nêu ra không hẳn không phải là một mưu kế khôn ngoan để dứ bọn kia mà bà ngờ rằng có thể làm khó dễ cho nhân duyên của con gái bà.
“Quý hồ công việc xong xuôi đã! Sau này dù bọn chúng nó có định tác ác, mình cũng chẳng cần. Mình sẽ bảo Phan rằng mình tuyệt tình với chúng nó, ‘từ’ chúng nó vì một câu chuyện bất bình gì đó. Rồi cấm hẳn vợ chồng Phan không cho lai vãng chơi bời với chúng nó. Thế là ổn thỏa... Nhưng bây giờ thì thế nào cũng phải giữ kín... cũng phải khôn khéo lắm mới được...”
Cái tính giả dối, trí trá, cái lòng ác nghiệt lúc nào cũng định phá hoại việc này, mưu xử việc khác đã làm cho bà Ba trở nên đa nghi, luôn luôn tưởng tượng trông thấy những cạm bẫy người ta ngầm đặt chung quanh cuộc hôn thú của Phan và Cúc.
- Cúc!
- Dạ.
Cúc vẫn không ngừng tay đánh phấn.
- Con cũng chẳng cần nói cho ai biết rằng Phan đã đỗ xong cử nhân luật, nghe?
Cúc bẽn lẽn không đáp, tuy lòng bồng bột sung sướng.
- Nhất với các anh, các chị ấy con lại càng không nên nói.
Bà Ba sợ hãi, sợ hãi vô căn cứ. Nhưng bà cũng cố xoay thành một bài luân lý, - cái tính giả dối của con người ta không mấy khi bỏ qua một dịp nào có thể biểu lộ được mà lại không biểu lộ ra:
- Chả nên để ai ghen ghét mình, con ạ. Ở đời nhũn nhặn thì thường tránh được lòng tức tối của quân tiểu nhân.
Cúc hơi có giọng gắt:
- Con nói làm gì!
- Thì me cũng dặn con thế.
- Với lại cần gì phải giấu diếm. Tức tối thì tức tối! Tức tối, dễ các anh các chị ấy ăn thịt được con hay sao?
Bà Ba im lặng ngồi suy nghĩ. Bà ngờ vực tưởng đến những bức thư nặc danh mà người ta có thể gửi cho Phan để nói xấu mình và con mình, để hòng phá việc hôn nhân của Cúc.
Cúc bỗng cười sằng sặc:
- Me tính giấu nổi ai? Hôm nọ anh Lung ở Hà Nội về, anh ấy bảo chắc Phan đỗ thủ khoa...
Cúc lại cười, trong lòng khoái trá. Tiếng máy ô-tô vào sân. Bà Ba giục:
- Xong chưa, cô cử? Sắp sửa đi thôi chứ, đứng đấy mà cười mãi à?
Thằng San và cái Tĩu, mỗi đứa đội một cái va-li đi xuống gác. Bà Ba và Cúc theo liền xuống.
Một lát sau, cái xe hòm yên lặng ra khỏi làng Giáp. Những người láng giềng nghe thấy tiếng còi điện, mới biết rằng bà Ba đi Hà Nội.
Ngồi trên xe, bà Ba vẫn còn áy náy, lơ đãng trông ra hai bên đường, chẳng kịp nhớ như mọi lần thét mắng lũ trẻ chạy theo bám vào tai xe, hay định nhảy lên cái hòm chứa ở phía sau.
Nhưng chỉ khoảnh khắc bà đã cười, nói một mình:
- Rõ mình cũng lẩn thẩn.
Cúc quay lại hỏi:
- Me bảo gì cơ ạ?
- Không, con ạ.
Bà Ba vừa chợt nghĩ đến cái tính nhu nhược bọn con chồng. Và bà thấy bà quá sợ viển vông: “Cứ xếp ngay họ vào một xó là xong. Ngữ ấy thì còn làm nổi trò trống gì?”
Một câu nói của Cúc kéo bà sang việc khác, việc thiết thực hơn:
- Cái xe của me kêu dữ quá, mẹ ạ.
Bà Ba mỉm cười nhìn con gái yêu:
- Chà, đi được thì thôi! Dùng tám năm rồi còn gì.
- Hôm nọ anh cử anh ấy bảo tài xế bẩm me sắm cái xe khác.
Chính Phan đã xui Cúc xin bà Ba đổi xe mới. Nhưng nàng nói chệch đi là Phan bảo tài xế. Bà Ba lặng thinh không đáp. Bà tưởng tới người con rể. Câu bắn tin của Phan khiến bà nghĩ ngợi: “Chưa cưới mà cậu ta đã đòi ngầm thứ nọ thứ kia rồi!” Nhưng bà tự trấn tĩnh ngay: “Chừng đó cũng là một câu nói cho vui miệng!”
- Giá me đổi cho hiệu lấy cái xe mới...
Bà Ba trừng trừng nhìn Cúc:
- Đổi lấy xe mới?
- Vâng, chỉ các độ hơn một nghìn là cùng.
- Hơn một nghìn! Thì hãy hơn một nghìn. Làm gì ra hơn một nghìn bây giờ?
Cúc phụng phịu nhìn qua bên cửa kính ra bên đường. Ba Ba cũng nhìn theo, và giơ tay trỏ bảo con:
- Kia kìa mày trông, người ta đi chân còn được, nữa là.
Rồi bà trở nên nhân đức:
- Con phải biết mình có cái xe mà đi đã là sung sướng lắm rồi. Ở đời có bao nhiêu người khó nhọc, khổ sở, sao con không nghĩ đến người ta, mà chỉ nghĩ đến mình?
Cúc cười xòa, nũng nịu:
- Con vẫn nghĩ đến người ta, nhưng con nghĩ cả đến cái xe ô-tô mới của me nữa.
Bà Ba nói dỗi:
- Thì nhà đấy, vườn ruộng đấy, cô bán đi lấy tiền mà mua ô-tô. Chứ tiền sẵn thì tôi không có. Cô tưởng một nghìn bạc ít lắm hay sao! Cô đã trông thấy đấy, bán thóc nài mỏi mồm mới được mỗi thùng thêm một trinh... Đấy rồi cô ra giao thiệp với đời, cô mới biết rằng kiếm được đồng tiền là khó khăn. Khôn khéo cũng có, nhẫn nại cũng có, nhiều khi phải thật thà mà nhiều khi cũng phải lừa lọc.
Bà Ba nói đến mánh khóe làm ăn để lảng chuyện sắm ô-tô mới. Ít lâu nay bà hơi nhu nhược đối với con gái, nhất từ khi con chính thức trở nên vị hôn thê một sinh viên trường luật sắp sửa thi đậu cử nhân.
Mới tháng trước bà đã phải bỏ ra hơn hai trăm bạc mua cho Cúc một cái nhẫn kim cương và một cái vòng ngọc thạch, vì Cúc nằng nặc đòi cho bằng được.
Cúc ngồi chú ý lắng tai nghe những lời chí thú của bà Ba. Nhưng lúc bà ngừng nói, nàng lại quay về việc ô-tô:
- Giá cứ ở lỳ xó làng Giáp thì cũng chả sao. Nhưng vác cậi ô-tô tã này đi Hà Nội... con tính chả tiện tí nào... Con thấy người ta đứng lại nhìn xe nhà chạy qua, mà con ngượng ngượng là.
- Cô ngượng thì cô đừng ngồi nữa... Chờ khi nào chồng cô đi làm quan, có tiền bỏ ra mà mua xe đẹp... Chứ gái già này chỉ có thế.
Cúc im hẳn, đương tìm chuyện để nói lảng thì bà Ba lại tiếp luôn:
- Với lại, cô phải biết, đó là cái kỷ niệm của thầy, nên tôi muốn giữ nó hết đời tôi. Mỗi lần ngồi vào xe tôi lại nhớ đến thầy. Cô thì cô biết gì. Cô chỉ nghĩ đến sang, đến ăn, đến chơi. Ngày giỗ thầy cô chả được lấy một giọt nước mắt. Rồi nay mai về nhà chồng, cô quên nốt cả tôi đi... là xong.
Bà Ba cảm động, hai giòng lệ trào ra hai bên má.
Hơn ba giờ sau, xe tới Hà Nội. Bà Ba mặt hơi tái, run lập cập bước xuống dìa hè, bảo Cúc:
- Mới sang tháng Mười mà đã rét thế.
- Chắc lại bão rớt đấy, me ạ. Tháng trước chẳng rét mấy hôm rồi lại nóng ngay đấy thôi.
Cúc mỉm cười nói tiếp:
- Với lại cũng một phần vì cái xe hở lung tung gió mới lùa vào. Ấy là không kể cái tội dầu khét, đóng kín cửa thì ngạt hơi không thở được, mà mở cửa thì rét.
Bà Ba không thèm để ý đến những lời dai dẳng của Cúc nữa. Bà hớn hở chào lại bà cả! Cấp vừa cùng hai đứa con nhỏ và bọn người nhà chạy ra cửa đón bà.
- Dì cả đấy à?
Cúc chắp tay và hai nghiêng đầu:
- Lạy dì ạ.
Bà cả Cấp là em cùng mẹ khác cha với bà Ba. Chồng bà ta làm thư ký ga Hà Nội, trước nhà ở gần nhà bà Ba. Nhưng từ khi góa mà lại thường phải xa vắng Hà Nội, bà này đã bảo vợ chồng em đến ở hẳn nhà mình cho vui.
- Thế nào dì, hai bát họ dì vẫn đóng cho tôi đấy chứ?
- Vâng, em vẫn đóng.
- Món nợ đằng hàn Tư dì có thúc cho tôi không?
- Đã, bà ta hứa mai kia đem đến nộp chị.
Cúc vội hỏi:
- Món nợ bao nhiêu thế, dì?
- Cữ hai nghìn, cháu ạ. Bà hàn giựt tạm để mua tơ.
Cúc vỗ tay reo:
- A! Thế me mua ô-tô mới nhé!
Bà Ba quắc mắt lườm con:
- Mua vái bán gì! Tiền làm ăn của người ta đấy.
Rồi bà quay sang bảo bà Cả:
- Có phải không dì, nó muốn đi ô-tô sang thì rồi nó bảo chồng nó mua cho nó. Chúng mình, già rồi, dùng ô-tồ móm mém cũng được.
Bà Cả chợt nhớ ra:
- A, thưa chị, cụ huyện vừa cho người lại hỏi đường đất đi làng Giáp. Nghe đâu cụ định mai cùng đi với cậu cử về Giáp thăm chị.
- Thế à! Vậy dì cho người lại ngay nói với cụ huyện rằng tôi đã lên Hà Nội, và mời cụ lại chơi nhé?
- Vâng. Em xin cho đi ngay... A, em nghe nói chị định nuôi vợ chồng cậu Khoa làm... thừa, tự, phải không?
- Ai bảo dì thế?
- Việc ấy người ta đồn ầm cả lên. Hôm nọ bà Hai, bà mối ấy mà, đến chơi, bà ấy hỏi em, em cũng bảo chị chưa định ra sao, mà cũng chưa bao giờ ngỏ cho em biết, em nói thế có được không?
- Dì nói thế, phải đấy. Vậy dì cho nó đi báo tin cụ huyện biết ngay rằng tôi đã lên Hà Nội nhé!
- Vâng.
Bà Ba theo bọn người nhà khuân vác hòm siềng và va-li lên gác, vì mỗi lần đi Hà Nội hay về làng Giáp, bà thường đem theo đủ các thức cần dùng xếp chật ních lên cái ô-tô cũ.