Chương 9
Phóng viên vây kín khu nhà trụ sở của Đội University. Bãi đậu xe chật ních, lề đường đầy các xe điện đài, vì vậy tôi phải lách xe đậu cạnh một xe khác nhét tờ thông báo “Xe của cảnh sát” xuống dưới cần gạt nước và chen qua đám đông bước vào, cố ý cúi đầu để không ai nhận ra mình. Nhưng cũng không thể giấu được; tôi nghe có tiếng “Bucky!” và “Bleichert” gọi tôi và ngay lập tức hàng loạt cánh tay túm lấy tôi. Túi áo tôi bị xé rách toạc và tôi buộc phải xô đám phóng viên kia ra để bước vào.
Cửa vào cũng đầy các cảnh sát mặc sắc phục xanh canh gác. Cánh cửa đi sang phòng họp ồn ào của Đội đang mở. Chân tường phòng họp vẫn còn các giường nhỏ để ngủ tạm; tôi thấy Lee đang nằm trên một trong những chiếc giường đó, dưới chân cậu ta đầy các loại báo, chuông điện thoại reo ầm ĩ xung quanh và cơn đau đầu của tôi lại xuất hiện, lần này dữ dội hơn. Ellis Loew đang dán thông báo lên bảng tin; tôi vỗ rất mạnh vào vai anh ta.
Loew quay lại và tôi nói: “Tôi muốn được rút khỏi vị trí này. Tôi là sỹ quan điều tra chứ không thuộc biên chế của Phòng trọng án và tôi cũng có những tên tội phạm cần ưu tiên điều tra của mình. Tôi muốn được rút lui, ngay bây giờ.”
Loew rít lên: “Không được. Cậu làm việc cho tôi và tôi muốn cậu tham gia vụ cô Short này. Chỉ có vậy, không thay đổi gì cả. Và tôi cũng không thể chịu đựng thêm được sự thay đổi bất thường của cậu. Cậu hiểu chưa?”
“Ellis, khỉ gió.”
“Cậu cần có đăng ten ở cổ áo mới có thể gọi tôi như vậy được Bleichert ạ. Nhưng bây giờ thì chỉ có Ngài Loew này được quyền như vậy thôi. Đi đọc báo cáo của Millard ngay đi.”
Tôi lao xuống phía cuối phòng. Russ Millard đang ngủ gật trên ghế làm việc, hai chân gác lên bàn. Tấm bảng trên tường treo bốn tờ giấy đánh máy. Tôi đọc:
Báo cáo tóm tắt thứ nhất
187P.C., Nạn nhân: Short Elizabeth Ann, nữ. Ngày sinh 29/07/1924.
Báo cáo ngày 17/01/194 7 lúc 06.00.
Kính thưa quý vị
Đây là báo cáo tóm tắt thứ nhất về E. Short, ngày tìm thấy xác chết, 15/01/1947 ở góc đường số 39 và đường Norton, khu công viên Leimert.
1. Đến thời điểm hiện tại đã có 33 cuộc điện thoại từ máy bàn và bốt điện thoại trả tiền trước gọi đến nhận đã gây ra vụ đó. Tất nhiên những người tự nhận nhưng vô tội đã được tha, còn những người chưa điều tra rõ được vẫn đang bị giam giữ ở nhà giam của thành phố chờ chứng xác minh chứng cớ ngoại phạm. Những tên có thái độ bất thường đang được bác sỹ De River cùng với thám tử p thẩm vấn. Chưa có gì chắc chắn.
2. Kết quả khám nghiệm tử thi bước đầu cho thấy: nạn nhân chết do mất quá nhiều máu vì vết thương bị rạch ở miệng. Không có cồn hoặc chất ma tuý trong máu vào thời gian bị giết (Chi tiết xem hồ sơ vụ án số 14-187-47).
3. Sở cảnh sát Boston đang điều tra về tiểu sử E. Short, gia đình, bạn trai cũ và những nơi cô đã có mặt vào thời điểm bị giết. Cha (C. Short) có chứng cớ ngoại phạm chắc chắn - ông ta được loại bỏ khỏi danh sách nghi ngờ.
4. Chỉ huy trại lính Camp Cooke đang kiểm tra báo cáo về việc đánh đập E. Short của viên lính đã làm việc ở trạm bán hàng vào tháng 9/1943 E. Short bị bắt tháng 9/1943 vì tội uống rượu trước tuổi. Chỉ huy ở đó nói hiện tại những người lính mà cô ấy có quan hệ đều đang ở nước ngoài, Vì vậy họ cũng được loại bỏ khỏi danh sách nghi ngờ.
5. Tất cả các ống cống và máng thoát nước trên toàn thành phố đang được kiểm tra để tìm quần áo nạn nhân. Tất cả các loại quần áo của phụ nữ tìm thấy sẽ được phân tích ở Phòng kỹ thuật hình sự. (Chi tiết xem báo cáo của Phòng kỹ thuật hình sự.)
6. Báo cáo thẩm vấn trên địa bàn toàn thành phố từ 12/01/1947 đến 15/01/1947. Đọc và so sánh đối chiếu. Sự việc: Một phụ nữ gọi điện nói có nghe thấy tiếng “hét lạ” ở khu vực H. W. Hills vào các đêm 13/01 và 14/01. Kết quả xác minh: Chỉ là đám nhậu nhẹt gây tiếng ồn. Ý kiến của các sỹ quan điều tra ngoài địa bàn: Bỏ qua sự việc này.
7. Từ các cuộc điện thoại đã được kiểm tra xác minh: Tháng 12/1946, E. Short sống ở San Diego với gia đình bà Eleva French. Nạn nhân gặp con gái bà Erench, cô Dorothy tại một rạp chiếu phim nơi Dorothy làm việc và nói (chưa xác minh) rằng nạn nhân đang bị chồng ruồng bỏ. Gia đình cho E. Short ở nhờ và nạn nhân kể những chuyện trái ngược nhau: cô ta là góa phụ của một thiếu tá không quân; có bầu với một phi công của bên hải quân; đính hôn với một phi công khác của lục quân. Nạn nhân có rất nhiều các cuộc hẹn hò với bạn trai trong thời gian sống ở gia đình nhà French. (Chi tiết xem các cuộc phỏng vấn số 14-187-47.)
8. E. Short rời khỏi gia đình nhà French vào ngày 09/01/1947 để chạy theo một người đàn ông tên là “Red” (Miêu tả: Đàn ông, đến từ miền Tây, khoảng 25-30 tuổi, cao, “đẹp trai”, nặng 170-180 pound, tóc đỏ, mắt xanh). “Red” tự nhận là người bán hàng. Đi chiếc Sedan hiệu Dodge có biểu tượng của công viên Huntington. Xác minh phương tiện cho thấy đăng ký thuộc về “Red”.
9. Thông tin đã xác minh: Val Gordon (nữ) ở Riverside, bang California gọi điện đến nói là em gái của thiếu tá phi công đã chết tên là Matt Gordon. Val Gordon nói E. Short đã viết thư cho cô ấy và bố mẹ cô ấy vào mùa thu năm 1946, ngay sau khi thiếu tá Gordon bị chết trong một tai nạn máy bay. Nạn nhân nói dối là vợ chưa cưới của Gordon và đòi tiền. Bố mẹ và cô Gordon từ chối.
10. Hành lý của E. Short được tìm thấy ở văn phòng đường sắt tốc hành trong thành phố Los Angeles. Nhân viên đường sắt nói nhìn thấy tên và ảnh của nạn nhân trên báo và cho biết hành lý của nạn nhân ở đó từ cuối tháng 11/1946. Hành lý đã được kiểm tra. Cả thảy 100 bức thư tình gửi cho rất nhiều bạn trai (chủ yếu là những người thuộc lực lượng vũ trang) và có vài thư (rất ít) gửi lại cho nạn nhân. Rất nhiều ảnh E. Short chụp với các quân nhân. Các lá thư đang được đọc, tên và miêu tả ngoại hình của những người đàn ông đang được so sánh đối chiếu.
11. Điện thoại gọi đến đã được xác minh: Cựu trung tá không quân J.G. Fickling gọi bằng điện thoại di động đến từ Atlanta khi thấy tên và ảnh E. Short xuất hiện trên báo. Fickling nói: anh ta và nạn nhân có “chuyện liên quan nhỏ” với nhau ở Boston vào cuối năm 1943, “cô ta có khoảng 10 cậu bạn trai khác cùng một lúc”. Fickling có chứng cớ ngoại phạm đã được kiểm chứng. Loại bỏ khỏi danh sách nghi ngờ, chưa từng đính hôn với E. Short.
12. Rất nhiều người gọi điện cho các đơn vị thuộc Sở cảnh sát Los Angeles và Văn phòng cảnh sát trưởng đưa ra gợi ý. Những cuộc gọi không bình thường đã được loại bỏ, các cuộc khác được chuyển lên Phòng điều tra án mạng. Tất cả gợi ý đều đang được xem xét.
13. Thông tin về địa chỉ đã kiểm tra: E. Short sống ở những địa chỉ sau trong năm 1946. (Tên đi liền với địa chỉ là tên người gọi hoặc những người dân ở cùng địa chỉ đã được kiểm tra. Tất cả các trường hợp ngoại trừ trường hợp của Linda Martin đều được kiểm tra thông tin qua Cục quản lý ôtô, môtô). Số 13-A-1611 Bắc Orange Dr., Hollywood. (Harold Costa, Donald Leyes, Marjorie Graham) 6024 đại lộ Carlos, Hollywood. 1842 Bắc Cherokee, Hollywood (Linda Martin, Sheryl Saddon) 53 Linden, Lotig Beach.
14. Kết quả kiểm tra các khu đất trống ở khu vực công viên Leimert: Không có quần áo phụ nữ, rất nhiều loại dao lớn nhỏ được tìm thấy nhưng tất cả đều rất cùn, không thể làm vũ khí giết người. Không tìm thấy vết máu.
15. Kết quả điều tra trong khu vực công viên Leimert (với bức ảnh chân dung của E. Short): không có gì (không ai nhìn thấy).
Kết luận: Tôi cho rằng nên tập trung hướng điều tra vào những đối tượng có quen biết E. Short, đặc biệt là những đối tượng là bạn trai của nạn nhân. Trung uý Sears và tôi sẽ đến San Diego để thẩm vấn những người liên quan đã xác định được. Thông báo cho toàn bộ lực lượng các thông tin về “Red” và thẩm vấn những người liên quan đã xác định được ở Los Angeles, chúng ta sẽ rút ra được thông tin cần thiết.
Russell A. Millard
Số hiệu 493 Phòng điều tra án mạng
Tôi quay lại và thấy Millard đang nhìn mình. Millard lên tiếng: “Cậu nghĩ sao?”
Tôi chỉ chiếc túi áo rách toạc của mình hỏi. “Liệu cô ta có xứng đáng phải được ưu tiên điều tra như vậy không, thưa thượng úy?”
Millard mỉm cười và tôi nhận ra rằng bộ quần áo nhàu và bộ râu mấy ngày chưa cạo kia không thể làm nhụt khí phách của anh ta. “Tôi nghĩ vậy và bạn của cậu cũng nghĩ vậy.”
“Lee đang phải đuổi bắt một thằng ba bị thưa thượng úy.”
“Cậu có thể gọi tôi là Russ, cậu biết thế mà.”
“Vâng, thưa anh Russ.”
“Cậu và Blanchard đã khai thác được gì từ ông bố?”
Tôi đưa cho Millard bản báo cáo của mình. “Không có gì cụ thể cả. Chỉ là những thông tin khẳng định thêm cuộc sống lang thang của nạn nhân. Tại sao lại gọi cô nàng này là Thược dược đen?”
Millard vỗ tay xuống thành ghế: “Chúng ta phải cảm ơn Bevo Means vì điều này. Cậu ta đã phải mò đến tận Long Beach để nói chuyện với nhân viên lễ tân ở khách sạn mà cô gái đã ở mùa hè năm ngoái. Nhân viên lễ tân nói Betty Short luôn mặc những chiếc váy đen bó sát người. Bevo nghĩ đến bộ phim có sự tham gia của Alan Ladd mang tên Thược dược xanh và nghĩ ra ý tưởng đó. Tôi nghĩ biệt hiệu đó rất hay, chả thế mà có biết bao tên tự gọi điện đến nhận tội về mình. Đúng như lời Harry nói khi cậu ấy mới chỉ nghe xong vài lời thú tội: ‘Không ai tống vào mặt mày thì chính Hollywood sẽ tống vào mặt mày.’ Cậu là người thông minh, Bucky. Cậu nghĩ thế nào?”
“Tôi nghĩ tôi nên quay lại với công việc điều tra của mình. Anh có thể nói chuyện này với anh Loew được không?”
Millard lắc đầu. “Không được. Cậu trả lời câu hỏi của tôi đi.”
Tôi chả thèm yêu cầu hay nài nỉ gì nữa. “Cô ta là đứa lang chạ, đi lại với hết người này đến người khác ở bất kỳ đâu vào bất kỳ thời điểm nào. Chính vì bản chất con người cô ta như vậy cho nên tôi nghĩ thật ngớ ngẩn khi chúng ta phải lao vào truy tìm tên thủ phạm kia.”
Millard đứng dậy vươn vai: “Bây giờ cậu xuống Đội phụ trách Hollywood gặp Bill Koenig và cả hai cậu sẽ đến thẩm vấn những người thuê nhà ở Hollywood theo địa chỉ trong báo cáo. Cần đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố bạn trai của cô ta. Cần quản lý Koenig thật chặt và cậu phải là người viết báo cáo vì cậu ta chả khác gì tên mù chữ cả. Báo cáo tại đây cho tôi khi các cậu xong việc.”
Chứng đau đầu của tôi bây giờ biến thành chứng đau nửa đầu, tôi tuân lệnh. Những lời cuối cùng tôi nghe thấy trước khi bước xuống đến đường là tiếng cười của một đám cảnh sát khi đọc những bức thư tình của Betty Short.
Tôi đón Koenig ở Đội phụ trách Hollywood và cùng cậu ta đến địa chỉ ở đại lộ Carlos. Dừng xe trước nhà số 6024, tôi nói: “Cậu là sỹ quan có phẩm cấp, Sarge. Theo cậu chúng ta phải làm thế nào?”
Koenig hắng giọng rất to và nuốt luôn cả miệng đờm. “Fritzie thường đặt câu hỏi nhưng hôm nay anh ấy lại bị ốm nằm ở nhà. Hay là cậu hỏi đi, tôi sẽ hỗ trợ.” Cậu ta vạch áo khoác cho tôi xem chiếc dùi cui trong bao da đeo ở cạp quần. “Theo cậu có cần dùng đến sức mạnh không?”
Tôi nói: “Chỉ nói chuyện thôi,” và bước ra khỏi xe.
Một phụ nữ đã có tuổi đang ngồi trước hiên nhà số 6024, ngôi nhà 3 tầng màu nâu làm theo kiểu ván che có biển báo CHO THUÊ PHÒNG cắm trên bãi cỏ. Nhìn thấy tôi đi vào bà ta gấp cuốn Kinh thánh lên tiếng: “Xin lỗi các cậu nhưng tôi chỉ cho các cô gái có nghề nghiệp và nguồn gốc rõ ràng thuê phòng.”
Tôi chìa phù hiệu ra và nói: “Chúng tôi là cảnh sát thưa bà. Chúng tôi đến đây để hỏi chuyện về Betty short.”
Bà ta nói: “Tôi thường gọi cô ấy là Beth,” và đảo mắt nhìn Koenig đang đứng trên bãi cỏ lén lút gãi mũi.
Tôi nói: “Cậu ta đang tìm manh mối.”
Bà ta nói to: “Cậu ta không thể tìm thấy trong cái mũi to đến thế kia đâu. Ai giết Beth Short, thưa anh?”
Tôi lấy bút và sổ tay ra. “Đó chính là lý do chúng tôi có mặt ở đây. Xin cho biết tên bà là gì?”
“Tôi là cô Loretta Janeway. Tôi gọi cho cảnh sát khi nghe nhắc đến tên của Beth trên radio.”
“Thưa cô Janeway, Elizabeth Short sống ở đây vào thời gian nào?”
“Tôi kiểm tra lại ngay sau khi nghe bản tin. Beth ở phòng phía sau trên tầng ba từ 14 tháng 9 đến 19 tháng 10 năm ngoái.”
“Có ai chỉ cho cô ấy đến đây không?”
“Không. Tôi nhớ điều đó rất rõ vì Beth là cô gái rất đáng yêu. Cô ấy gõ cửa và nói đang trên đường đến Gower thì nhìn thấy tấm biển thông báo của tôi. Cô ấy nói là một diễn viên có tiềm năng và cần thuê căn phòng với giá phải chăng để chờ thời cơ toả sáng. Tôi nói tôi đã nghe nói đến chuyện đó một lần rồi và rằng cô ấy đã giấu giọng gốc Boston của mình rất tốt. Beth chỉ mỉm cười và nói với thứ giọng không thuộc về vùng nào cả: ‘Bây giờ là thời đại mà tất cả mọi người phải giúp đỡ nhau’. Sau đó cô ấy nói: ‘Cứ xem tôi sẽ hành động như thế nào!’ Cô ấy rất nóng lòng muốn tôi cho thuê căn phòng mặc dù phương châm của tôi là không cho những người có liên quan đến phim ảnh thuê.”
Tôi ghi lại những thông tin cần thiết và hỏi: “Beth có phải là người thuê nhà tốt không?”
Bà Janeway lắc đầu: “Thật khủng khiếp, cô ấy làm tôi thất vọng vì đã thay đổi nguyên tắc của chính mình khi cho những người liên quan đến phim ảnh như cô ấy thuê. Lúc nào cô ấy cũng chậm tiền thuê nhà và thường phải cầm cố đồ trang sức để có tiền ăn tiêu, cô ấy còn ép tôi phải cho cô ấy trả tiền thuê theo ngày thay vì theo tuần. Cô ấy chỉ muốn trả có một đô la một ngày! Tôi sống thế nào được nếu tất cả những người thuê nhà ở đây đều làm như vậy?”
“Beth có hoà đồng với những người thuê nhà khác không?”
“Lạy Chúa, không. Phòng phía sau ở tầng ba có cầu thang riêng nên Beth không phải đi chung lối trước với những cô gái khác. Cô ấy không bao giờ tham gia những buổi uống cà phê tôi tổ chức cho các cô gái sau khi đi lễ nhà thờ về vào Chủ nhật. Cô ấy cũng chả bao giờ đi lễ nhà thờ và thậm chí còn nói với tôi: ‘Con gái thì thường thích nói chuyện phiếm khi buồn nhưng với tôi thì cứ cho tôi một anh chàng nào đó’.”
“Đây là câu hỏi quan trọng nhất của tôi thưa bà Janeway. Beth có cậu bạn trai nào trong thời gian ở đây không?”
Bà ta cầm cuốn Kinh thánh lên ôm sát vào người. “Anh sỹ quan này, nếu họ đi vào bằng lối cửa trước giống như các cô gái khác thì tôi đã nhìn thấy. Vì vậy chỉ có thể nói rằng tôi nghe thấy rất nhiều tiếng bước chân trên cầu thang của Beth vào những giờ hoàn toàn không bình thường.”
“Beth có bao giờ nhắc đến kẻ thù hay cậu bạn trai nào đó mà cô ấy sợ không?”
“Không.”
“Bà gặp cô ấy lần cuối cùng là khi nào?”
“Cuối tháng 10, vào ngày mà cô ấy chuyển đi. Cô ấy nói: ‘Tôi đã tìm được chỗ ở tốt hơn rồi,’ bằng thứ giọng California rất chuẩn.”
“Cô ấy có nói sẽ chuyển đi đâu không?”
Bà Janeway nói: “Không,” và nhoài người sang phía tôi chỉ Koenig đang vừa chạy vừa nhảy cẫng lên về chỗ xe đậu, tay ôm đũng quần. “Cậu nên dạy bảo cậu ta cách giữ vệ sinh. Nói thật, tôi thấy làm như vậy thật kinh khủng.”
Tôi nói: “Cảm ơn bà Janeway,” và đi ra xe ngồi vào sau vô lăng. Koenig cằn nhằn: “Mụ thối tha đó nói gì về tôi?”
“Bà ấy nói cậu rất đáng yêu.”
“Vậy sao?”
“Đúng thế.”
“Bà ấy còn nói gì nữa?”
“Rằng những người đàn ông như cậu có thể làm bà ấy trẻ lại.”
“Thật thế à?”
“Thật. Tôi nói với bà ấy là quên cậu đi vì cậu đã có vợ.”
“Tôi đã cưới vợ đâu.”
“Tôi biết.”
“Vậy tại sao cậu còn nói với bà ấy như thế?”
Tôi lái xe ra đường. “Cậu có muốn bà ấy gửi thư tình cho mình đến cơ quan không?”
“Ồ, tôi hiểu rồi. Thế bà ấy nói gì về Fritzie?”
“Bà ấy biết Fritzie sao?”
Koenig nhìn tôi như nhìn người thiểu năng về trí tuệ. “Rất nhiều người nói về Fritzie sau lưng anh ta.”
“Họ nói gì.”
“Họ bảo anh ta nói dối.”
“Nói dối về chuyện gì?”
“Những chuyện xấu.”
“Cậu có thể ví dụ không?”
“Chẳng hạn như anh ta bị giang mai khi còn làm bên Phòng quản lý hành chính. Hay việc anh ta phải nghỉ làm một tháng để đi điều trị bệnh thủy đậu. Hoặc là việc anh ta được lên vị trí hiện tại cũng là nhờ những thành tích đó. Những lời nói dối thật xấu xa, thậm chí còn xấu xa hơn thế nữa.”
Tôi cảm thấy lạnh buốt sống lưng. Rẽ vào đường Cherokee, tôi hỏi tiếp, “Chẳng hạn như…?”
Koenig ghé sát vào tai tôi: “Cậu đang khai thác tôi đấy à? Cậu muốn biết những tật xấu để nói về Fritzie phải không?”
“Không. Chỉ là tò mò thôi.”
“Tò mò có thể giết người đấy. Cậu nên nhớ điều đó.”
“Tôi sẽ nhớ. Kỳ sát hạch lên trung úy vừa qua của cậu thế nào, Bill?”
“Tôi không biết.”
“Sao lại thế?”
“Fritzie làm cho tôi. Tôi lại phải nhắc cậu về tính tò mò đấy nhé, Bleichert. Tôi không muốn người khác nói xấu về bạn mình.”
Số 1842, căn hộ xây bằng gạch vữa xuất hiện. Tôi đậu xe phía trước và lẩm bẩm: “Lại phải hỏi chuyện,” và đi thẳng vào hành lang.
Danh sách người ở dán trên tường có S. Saddon và tên chín người khác nhưng không có ai tên là Linda Martin ở phòng số 604. Tôi đi thang máy lên tầng sáu. Dọc hành lang vẫn phảng phất mùi cần sa và tôi đánh liều gõ cửa. Tiếng chuông vang lên, cửa mở và một phụ nữ mặc quần áo kiểu Ai Cập rất diêm dúa xuất hiện, tay cầm chiếc khăn trùm đầu bằng giấy bồi. Cô ta hỏi. “Anh có phải là lái xe của hãng RKO[36] đến không?”
Tôi nói: “Tôi là cảnh sát.” Cô ta đóng sầm cửa ngay trước mặt tôi. Tôi nghe có tiếng nước xối trong toilet và một lát sau cô ta xuất hiện. Tôi bước vào phòng mà không cần đợi lời mời. Phòng khách khá cao ráo, trần làm theo kiểu mái vòm. Quanh tường là hàng loạt giường ghép với nhau. Vali, túi xách vứt tràn cả ra cửa phòng để đồ. Một chiếc bàn trải khăn kê chéo với mấy chiếc giường ngủ chả có ga đệm gì. Trên bàn xếp đầy các loại đồ trang sức và gương; nền nhà lát gỗ bên dưới chiếc bàn đầy bụi phấn hồng và phấn mặt dùng để trang điểm.
Cô gái hỏi ngay: “Có phải anh đến đây vì mấy chiếc vé phạt giao thông mà tôi chưa nộp tiền không? Nghe này, tôi còn ba ngày nữa cho bộ phim Lời nguyền của xác chết dưới mồ với hãng RKO, khi nhận được tiền thù lao tôi sẽ chuyển qua séc cho các anh được không?”
Tôi nói: “Tôi đến đây vì chuyện của Elizabeth Short thưa cô…”
Cô gái thốt lên tiếng rên rỉ rất to như đang đóng phim. “Tên tôi là Saddon. Sheryl Saddon. Sáng nay tôi có nói chuyện với một cảnh sát, một trung uý hay gì đó nói lắp. Anh ta hỏi tôi đến hàng ngàn câu hỏi về Betty và hàng ngàn cậu bạn trai của cô ấy, và tôi cũng phải trả lời anh ta hàng ngàn lần rằng có rất nhiều cô gái thuê phòng ở đây và họ hẹn hò với rất nhiều bạn trai, chủ yếu là khách qua đêm. Tôi đã nói với anh ta là Betty sống ở đây từ đầu tháng 11 đến đầu tháng 12 và cô ta cũng trả một đô la một ngày giống như hầu hết chúng tôi và tôi cũng không thể nhớ tên người bạn trai nào hẹn hò với cô ấy cả. Tôi có thể đi được chưa? Người của hãng phim có thể đến đón tôi bất cứ lúc nào, và tôi cần có công việc này.”
Sheryl Saddon thở hổn hển vã mồ hôi. Tôi chỉ một chiếc giường và nói. “Ngồi xuống và trả lời câu hỏi của tôi nếu không tôi sẽ buộc tội cô vì những điếu thuốc cuộn cần sa cô vừa xả xuống toilet.”
Cô nàng Nữ hoàng Cleopatra ngoan ngoãn vâng lời và nhìn tôi với ánh mắt có thể làm Julius Caesar phải khuất phục. Tôi nói: “Câu hỏi đầu tiên. Linda Martin có sống ở đây không?”
Sheryl Saddon chộp gói Old Golds trên giường châm lửa hút. “Tôi đã trả lời viên trung sỹ nói lắp kia rồi. Betty có vài lần nhắc đến Linda Martin. Cô ấy có thuê phòng cùng với Betty ở một chỗ khác ở đường De Longpre và Orange. Và chắc anh biết muốn bắt giữ ai thì phải có chứng cớ.”
Tôi lấy bút và sổ tay ra. “Cô có biết gì về kẻ thù của Betty không? Chẳng hạn như những lời đe doạ cô ấy?”
“Vấn đề rắc rối của Betty không phải là kẻ thù mà là vì cô ấy có quá nhiều bạn. Anh hiểu ý tôi không? Bạn theo nghĩa là bạn trai.”
“Quả là cô gái có duyên. Có ai trong số đó đe doạ cô ấy không?”
“Theo tôi biết thì không. Xin anh hỏi nhanh lên.”
“Bình tĩnh nào. Betty đã làm gì trong thời gian ở đây?”
Sheryl Saddon gắt gỏng châm biếm. “Diễn viên hài kịch. Cô ấy không làm việc, cũng không như các cô gái khác ở đây. Công việc chính là theo dân chơi bời đi ăn nhậu. Có vài lần cô ấy đi đến mấy ngày, mang tiền về và nói dối nguồn gốc của nó. Cô ấy là kẻ nói dối có hạng và chúng tôi không bao giờ tin cho dù một lời.”
“Cô hãy nói về những câu chuyện của cô ấy. Cô ấy nói dối thế nào?”
Sheryl dập điếu thuốc và lập tức châm luôn điếu khác. Cô ta im lặng rít thuốc một lát và tôi có thể nhận thấy hứng diễn viên của cô ta đang nổi lên khi tái hiện bức tranh biếm hoạ về Betty Short. Cuối cùng thì cô ta cũng lên tiếng: “Anh biết tất cả về cô nàng Thược dược đen này qua báo chí rồi phải không?”
“Đúng.”
“Betty luôn mặc đồ đen như để quảng cáo chính mình với các đạo diễn phim ngay cả khi cô ấy chuyện trò với các cô gái khác, nhưng việc này không thường xuyên lắm vì Betty hay ngủ đến tận trưa. Nhưng cũng có lúc cô ta lại nói mặc đồ đen để tưởng niệm ông bố của mình hay cậu bạn trai nào đó đã chết trong chiến tranh. Thế rồi ngay ngày hôm sau cô ấy lại nói bố mình vẫn còn sống. Khi đi vài ngày và quay về với rất nhiều tiền, cô ta nói với người này rằng ông bác nào đó chết và để lại tài sản thừa kế nhưng lại nói với người kia rằng cô ta thắng bạc ở Gardena[37]. Cô ta nói dối đến hàng nghìn lần rằng đã kết hôn với hàng nghìn các anh hùng trong chiến tranh khác nhau. Anh đã hình dung được về cô ta chưa?”
Tôi nói: “Rất sống động, chúng ta chuyển sang chủ đề khác.”
“Được thôi. Chúng ta nói chuyện về tài chính quốc tế nhé?”
“Về các bộ phim. Các cô đang rất muốn đi vào lĩnh vực này là gì?”
Sheryl nhìn tôi có vẻ quyến rũ. “Tôi đang hoạt động trong lĩnh vực này rồi. Tôi đã đóng phim Người đàn bà Cougar[38], Vụ tấn công của con ma Gargoyle và Lời ngọt ngào sẽ trở thành cây kim ngân.”
“Xin chúc mừng cô. Betty đã bao giờ đóng phim nào chưa?”
“Có thể. Có thể có một lần nhưng cũng có thể không bởi vì Betty là người chuyên nói dối.”
“Tiếp tục đi.”
“Vào dịp Lễ tạ ơn, tất cả bọn trẻ ở tầng sáu tụ họp ăn bữa tối đạm bạc. Betty rủng rỉnh mang về tới hai thùng bia. Cô ta ba hoa đã tham gia đóng phim và khoe khoang chiếc kính ngắm rồi nói rằng đạo diễn cho cô ta. Rất nhiều cô gái có kính ngắm mà các nam diễn viên tặng cho họ nhưng loại của cô ta là loại đắt tiền, có dây đeo và bao nhung. Tôi còn nhớ hôm đó Betty như bay bổng trên chín tầng mây, nói chuyện huyên thuyên cả đêm.”
“Cô ta có nói ra tên của bộ phim đó không?”
Sheryl lắc đầu. “Không.”
“Cô ấy có nhắc đến tên ai liên quan trong bộ phim đó không?”
“Nếu có nhắc thì tôi cũng không nhớ được.”
Tôi nhìn quanh căn phòng, đếm có tổng số mười hai chiếc giường thuê một đô la một đêm và nghĩ đến tay chủ nhà béo ú. “Cô có biết thế nào là hành động nhử mồi đạo diễn không?”
Ánh mắt của cô Cleopatra giả trở nên giận dữ. “Không phải tôi, chết tiệt.”
“Thế còn Betty Short?”
“Có thể.”
Có tiếng còi xe, tôi bước ra cửa sổ nhìn xuống. Một chiếc ôtô tải sàn phẳng chở hàng chục các Cleopatra và Pharaoh phía sau đang đậu ngay sau xe của tôi. Tôi quay lại định thông báo với Sheryl nhưng cô ta đã ra khỏi phòng từ lúc nào.
Địa chỉ cuối cùng theo danh sách của Millard là nhà số 1611 ở đường North Orange Drive, đó là ngôi nhà màu hồng xây bằng gạch dành cho khách du lịch thuê nằm ngay cạnh trường cấp ba Hollywood. Koenig giật bắn người tỉnh giấc khi tôi phanh xe trước ngôi nhà và chỉ hai gã đàn ông đang ngồi đọc báo trên bậc thang. “Tôi sẽ chăm sóc bọn chúng còn cậu đi hỏi chuyện bọn kia. Cậu đã biết tên bọn họ chưa?”
“Có thể là Harold Costa và Donald Leyes. Nhìn cậu có vẻ mệt mỏi đấy Sarge ạ. Cậu có thích đi làm công việc thế này không?”
“Tôi chán lắm rồi. Tôi nên hỏi bọn họ những gì?”
“Để tôi hỏi cho.”
“Cậu nên nhớ câu chuyện về nạn nhân của sự tò mò. Điều tương tự sẽ xảy ra với những kẻ dám coi thường tôi khi Fritzie không có ở bên. Bây giờ tôi sẽ khai thác gì ở bọn chúng?”
“Sarge…”
Koenig nói phọt cả nước bọt vào người tôi. “Khỉ gió, tôi có cấp bậc hẳn hoi đấy! Trả lời đi!”
Thấy Koenig nổi nóng tôi đành hạ giọng: “Kiểm tra chứng cớ ngoại phạm và hỏi họ xem Betty Short đã bao giờ hành nghề mại dâm chưa”. Thay vì trả lời, Koenig cười khúc khích. Tôi chạy luôn qua bãi cỏ về phía bậc thang trước cửa nhà, hai người đàn ông tránh sang bên cho tôi vào trong. Cửa phía trước mở, phía trong là phòng khách đã cũ nát. Một nhóm thanh niên đang ngồi quanh quẩn hút thuốc và đọc tạp chí điện ảnh. Tôi nói: “Cảnh sát đây. Ai là Linda Martin, Marjorie Graham, Harold Costa, và Donald Leyes?”
Một cô nàng tóc hung trong bộ vét rộng thùng thình giơ cuốn tạp chí lên nói. “Tôi là Marjorie Graham, Hal và Don đang ở bên ngoài.”
Đám người còn lại đứng hết lên tản ra hành lang như muốn tránh mặt kẻ xấu. Tôi nói: “Chuyện liên quan đến Elizabeth Short. Có ai biết cô ta không?”
Rất nhiều người lắc đầu có vẻ sợ sệt. Bên ngoài tôi thấy Koenig đang quát tháo: “Mày phải nói thật. Short đã bao giờ làm gái điếm chưa?”
Marjorie Graham nói: “Tôi chính là người gọi cho cảnh sát, thưa sỹ quan. Tôi nói với họ tên của Linda vì tôi biết cô ấy cũng biết Betty.”
Tôi chỉ tay ra cửa. “Thế còn hai thằng ngoài kia?”
“Don và Harold phải không? Họ cũng đã từng hẹn hò với Betty. Harold gọi cho anh vì anh ta biết các anh đang đi tìm manh mối. Người đàn ông đang quát tháo họ kia là ai?”
Tôi không trả lời mà ngồi xuống lấy bút và sổ ra. “Cô kể cho tôi những chuyện về Betty mà tôi chưa biết đi. Tôi cần số liệu. Tên những cậu bạn trai của cô ấy, đặc điểm ngoại hình, ngày tháng cụ thể, kẻ thù của cô ấy, và động cơ của kẻ giết người.”
Cô nàng có vẻ lưỡng lự, tôi nhận ra mình đang to tiếng nên lập tức hạ giọng và hỏi. “Bắt đầu từ ngày tháng. Betty sống ở đây khi nào?”
“Đầu tháng 12,” Marjorie Graham nói. “Tôi nhớ rõ là bởi vì hôm đó chúng tôi cũng đang ngồi đây nghe một chương trình trên radio nhân dịp 5 năm ngày xảy ra vụ Trân Châu Cảng thì cô ấy vào làm thủ tục.”
“Như vậy đó là ngày 7 tháng 12?”
“Vâng.”
“Cô ấy ở đây bao lâu?”
“Chỉ khoảng một tuần thôi.”
“Tại sao cô ấy biết chỗ này mà đến thuê?”
“Tôi nghĩ Martin đã nói với cô ấy.”
Báo cáo của Millard khẳng định hầu như cả tháng 12 cô ấy sống ở San Diego. Tôi nói: “Nhưng cô ấy chuyển đi ngay sau đó phải không?”
“Vâng.”
“Tại sao vậy, thưa cô Graham? Theo chúng tôi được biết thì trong khoảng thời gian đó Betty sống ở ba nơi - tất cả đều ở Hollywood. Tại sao cô ấy lại di chuyển liên tục như vậy?”
Marjorie Graham lấy một mảnh vải nhỏ trong túi vò trong tay. “Tôi cũng không biết rõ lắm.”
“Cô ấy có anh bạn trai nào hay ghen không?”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Cô Graham, vậy thì cô nghĩ gì?”
Marjorie thở dài. “Anh cảnh sát này, Betty lợi dụng mọi người. Cô ấy vay tiền của mọi người và bịa ra đủ thứ chuyện nói dối họ. Ở đây có rất nhiều người tinh ý và tôi nghĩ họ chẳng khó khăn gì mà không nhận ra bản chất của Betty.”
Tôi nói: “Cô kể cho tôi nghe về Betty đi. Cô cũng đã từng quý cô ấy phải không?”
“Vâng. Cô ấy nhẹ nhàng, tỏ ra tin cậy và không tọc mạch vào chuyện người khác nhưng… rất cảm tính. Đó là bản năng của cô ấy, có thể tạm gọi như vậy. Cô ấy tìm đủ mọi cách để được mọi người quý mến và thường bắt chước kiểu cách của những người mà cô ấy quan hệ. Tất cả mọi người ở đây đều hút thuốc và Betty cũng hút thuốc để hoà đồng mặc dù biết rõ nó rất có hại với bệnh hen suyễn của mình và bản thân cô ấy cũng ghét thuốc lá. Và điều buồn cười là cô ấy lại tập đi, tập nói như phong cách của anh, nhưng chỉ những khi ở một mình cô ấy mới làm như vậy. Cô ấy thường tự gọi mình là Betty hay Beth hay bất kỳ nickname nào khác mà cô ấy nghe được.”
Tôi cố xua đi cảm giác buồn tự nhiên xâm chiếm trong đầu. “Cô và Betty thường nói chuyện về chủ đề gì?”
Marjorie nói: “Chủ yếu là tôi nghe cô ấy nói. Chúng tôi thường ngồi đây nghe radio và Betty kể chuyện. Những câu chuyện tình với những anh hùng trong chiến tranh - trung tá Joe và thiếu tá Matt, rất nhiều chuyện. Tôi biết đó chỉ là những chuyện cô ấy tưởng tượng ra. Có khi cô ấy kể về ước mơ trở thành ngôi sao điện ảnh và tất cả những gì cần làm là luôn luôn xuất hiện trên đường trong những chiếc váy dài màu đen và chẳng sớm thì muộn người ta cũng nhận ra cô ấy. Ý tưởng đó làm tôi bực mình vì tôi đã phải theo học các khoá đào tạo ở nhà hát Pasadena và tôi biết đóng phim là công việc rất nặng nhọc.”
Tôi vẫn ghi chép những câu hỏi và câu trả lời của Sheryl Saddon. “Cô Graham, có phải Betty nhắc đến việc mình đóng phim vào cuối tháng 11 không?”
“Vâng. Đêm đầu tiên chuyển về đây ở cô ấy đã ba hoa chuyện đó. Cô ấy nói có đóng chung một vai và đi khoe khoang chiếc kính ngắm. Vài cậu con trai tò mò hỏi chuyện và có lúc cô ấy nói đóng phim cho hãng Paramount, có lúc lại nói đóng cho hãng Fox. Tôi nghĩ cô ấy chỉ bịa chuyện để gây sự chú ý.”
Tôi ghi chữ “Tên” sang một trang giấy mới và gạch chân đến mấy lần. “Cô Marjorie, cho tôi biết tên những cậu bạn trai hay những người mà cô nhìn thấy cô ấy đi lại với họ.”
“Tôi biết cô ấy có đi chơi với Don Leyes và Harold Costa, có một lần tôi nhìn thấy cô ấy đi chơi với một thủy thủ và tôi…”
Marjorie ngập ngừng, tôi bắt gặp ánh mắt bối rối của cô ta. “Chuyện gì vậy? Cô kể đi.”
Giọng Marjorie trở nên nhẹ nhàng. “Ngay trước khi chuyển đi, tôi thấy Betty cùng với Linda Martin đứng nói chuyện với người đàn bà lớn tuổi rất to béo này trên đại lộ. Bà ta mặc quần áo và tóc cắt ngắn như đàn ông. Tôi chỉ nhìn thấy họ một lần duy nhất đó, có thể như thế không có nghĩa là…”
“Ý cô muốn nói người đàn bà kia là lesbian[39]?”
Marjorie ngẩng lên rồi lại cúi xuống với tay lấy hộp mỹ phẩm Kleenex; Bill Koenig bước vào ngoắc tay gọi tôi. Tôi bước lại và cậu ta thì thầm: “Tôi đã bắt chúng phải nói ra rồi. Tên khốn nạn kia đã hành hạ thể xác cô ấy khi cô ấy bị trói. Tôi đã gọi cho sếp Loew. Anh ấy bảo phải giữ kín chuyện này vì sẽ có mẹo hay nếu cô ấy là hạng gái gọi trẻ trung đáng yêu.”
Tôi kiềm chế không nói ra manh mối mà mình vừa khai thác được về mụ đàn bà kia vì sợ ông phó ủy viên công tố quận kia và kẻ tôi tớ của ông ta sẽ bác bỏ ngay tức khắc. Tôi nói: “Tôi cũng đã hỏi được mấy nội dung ở đây rồi. Cậu khai thác xong hai gã kia rồi chứ?”
Koenig lại cười khúc khích và bước ra. Tôi bảo Marjorie ngồi chờ và đi xuống cuối hành lang. Ở đó có bàn đăng ký và cuốn sổ đang mở để bên trên. Tôi lật tìm cho đến khi thấy tên “Linda Martin” và dòng chữ “phòng 14” in bên cạnh.
Căn phòng nhỏ chật hẹp không có gì khác ngoài một chiếc giường bừa bộn. Tôi kiểm tra tủ quần áo nhưng bên trong hoàn toàn trống rỗng. Giá báo còn vài tờ của ngày hôm qua và dừng bài: “Tên giết người dã mãn”; bất giác tôi nghĩ Linda Martin chính là kẻ đang trốn tránh pháp luật. Tôi cúi xuống quờ tay vào gầm giường. Có vật gì đó dẹt bên trong và tôi lấy ra.
Đó là chiếc ví bằng nhựa màu đỏ. Bên trong có hai penny[40], một hào và tấm thẻ của trường cấp ba Cornhusker ở Cedar Rapids, bang Iowa. Tấm thẻ được cấp cho Lorna Martilkova, sinh ngày 19/12/1931. Tấm ảnh cô gái trẻ khá xinh nằm ngay dưới tiêu ngữ của trường; tôi biết mình đã phát hiện ra một người có liên quan đang bỏ chạy.
Marjorie Graham xuất hiện ở cửa. Tôi chìa tấm thẻ ra và cô ta nói ngay. “Đó là Linda. Lạy Chúa, nó mới mười lăm tuổi.”
“Nếu là tuổi đóng phim thì đã đến độ trung niên rồi. Cô gặp cô ta lần cuối là khi nào?”
“Sáng nay. Tôi nói với nó là đã gọi điện cho cảnh sát và họ sẽ đến hỏi chuyện chúng tôi về Betty. Như thế có gì sai không anh cảnh sát?”
“Cô không biết được đâu. Và cảm ơn cô.”
Marjorie mỉm cười và tôi thầm cầu mong cho cô ta sớm tìm đường mà thoát khỏi mảnh đất điện ảnh này. Tôi cũng mỉm cười đáp lại cô ta và bước ra. Ngoài hành lang, Bill Koenig đang đứng nghỉ trong khi Donald Leyes và Harold Costa nằm ườn ra trên ghế với ánh mắt sợ hãi, có lẽ là vì đã bị ăn vài quả đấm.
Koenig nói: “Bọn nó không gây ra vụ đó.”
“Khỉ gió, không. Sherlock.”
Koenig nói: “Tên tôi không phải là Sherlock.”
Tôi nói: “Không, khỉ gió.”
Koenig hỏi lại: “Cái gì?”
Ở Đội cảnh sát Hollywood, tôi thực hiện đặc quyền của một cảnh sát điều tra đưa người chưa đến tuổi trưởng thành vào đối tượng nghi can đang bỏ trốn, xác định nhân chứng đối với trường hợp của Lorna Martilkova/Linda Martin, và làm báo cáo nộp cho sếp phụ trách điều tra, thông báo toàn lực lượng sẽ được phát đi trong vòng một giờ nữa và cảnh sát cũng sẽ được tăng cường đến nhà số 1611 để thẩm vấn những người thuê nhà về những nơi mà Linda/Lorna có thể đến. Có người đảm đương phần việc kia tôi yên tâm ngồi viết báo cáo về loạt câu hỏi mà tôi đã thực hiện, đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh Betty Short có tật nói dối và cô ta có tham gia đóng bộ phim nào đó trong năm 1946. Trước khi hoàn thành báo cáo, tôi phân vân không biết có nên đưa vấn đề người phụ nữ có ngoại hình giống con trai kia vào hay không. Nếu Loew biết được thì rất có thể anh ta sẽ gạt phắt cùng với thông tin về việc nạn nhân có làm nghề mại dâm nhưng không chuyên nghiệp. Cuối cùng tôi quyết định không đưa vào báo cáo mà chỉ nói miệng với Millard.
Tôi dùng điện thoại của Đội gọi cho Hội diễn viên và phụ trách vai diễn hỏi thông tin về Elizabeth Short. Một nhân viên nói với tôi không có ai tên như vậy tham gia, tên rút gọn từ đó cũng không, rất có thể cô ta không đóng phim cho một hãng sản xuất nào đó hợp pháp của Hollywood. Tôi gác máy và nghĩ đến việc Betty bịa đặt ra chuyện đóng phim và dùng chiếc kính ngắm kia để thuyết phục mọi người.
Chiều đã muộn. Thoát được Koenig như thoát khỏi căn bệnh ung thư và ba cuộc thẩm vấn về Betty/Beth Short dường như quá sức đối với tôi. Mệt và đói, tôi quyết định lái xe về nhà kiếm chút bánh sandwich bỏ vào dạ dày và ngủ một giấc - và sẽ bước vào một giai đoạn khác của công việc điều tra vụ Thược dược đen này.
Kay và Lee đang đứng cạnh bàn trong nhà ăn xem các bức ảnh hiện trường chụp ở góc đường số 39 và đường Norton. Có ảnh chụp đầu, bộ ngực bị cắt xẻ, phần thân dưới trống không và đôi chân giạng ra của cô ấy - tất cả đều là ảnh trắng đen. Kay rít thuốc liên tục có vẻ sợ hãi và chỉ thỉnh thoảng mới liếc nhìn những bức ảnh. Lee cúi nhìn chăm chú, mặt co giật - biểu hiện của tình trạng thiếu thuốc Benzedrine. Không ai nói một lời; và tôi đứng đó như một diễn viên gợi chuyện trong bộ phim nhàm chán nhất lịch sử thành phố Los Angeles này.
Cuối cùng Kay cũng lên tiếng: “Chào anh Dwight” và Lee run rẩy chỉ một bức ảnh. “Công việc không đơn giản chút nào, anh biết. Vern Smith nói thằng nào đó bắt cô ấy trên đường đưa đi chỗ khác tra tấn sau đó vứt vào bãi đất trống. Chó chết, thằng này chắc chắn phải vô cùng căm ghét cô ấy vì một lý do nào đó và hắn muốn cả thế giới này phải biết lý do đó. Em yêu, em có học qua về y tế, theo em thằng này có hiểu biết về y học không? Liệu hắn có phải là thằng bác sỹ điên khùng nào đó không?”
Kay dập điếu thuốc và nói. “Anh Lee, Dwight về rồi,” Lee quay lại.
Tôi nói: “Chào bạn…”. Lee uể oải chớp mắt và mỉm cười.
Tôi thấy biểu hiện của cậu ta vô cùng đau đớn. “Bucky này, nghe Kay nói đi, tớ biết tớ cho cô ấy đi học đại học không hề uổng phí mà,” tôi buộc phải nhìn đi chỗ khác.
Giọng nói của Kay rất nhẹ nhàng, nhẫn nại. “Em nghĩ giả thuyết sẽ chả đi đến đâu cả nhưng dù sao em cũng sẽ nói ra nếu các anh chịu ăn chút gì đó cho bình tĩnh lại.”
“Em cứ nói đi.”
“Chỉ là phỏng đoán của em nhưng rất có thể có hai tên giết người bởi vì vết cắt tra tấn thì rất vụng về nhưng vết cắt ở rốn và bụng được thực hiện khi cô ấy đã chết thì rất gọn gàng. Cũng có thể chỉ là một tên; sau khi giết cô ấy, hắn bình tĩnh lại đôi chút rồi mới rạch bụng cô ấy. Bất cứ người nào cũng có thể lấy được nội tạng đi khi cơ thể đã bị cắt làm đôi. Em nghĩ giả thuyết một bác sỹ điên khùng nào đó chỉ xuất hiện trong các bộ phim. Anh yêu, anh phải bình tĩnh lại. Anh không được uống những viên thuốc kia nữa và anh phải ăn chút gì đi. Anh Dwight cũng sẽ nói với anh điều đó.”
Tôi quay sang nhìn Lee. Cậu ta nói: “Anh quá xúc động nên không thể ăn được,” và chìa tay ra như thể tôi vừa mới bước vào nhà. “Bạn này, hôm nay đã điều tra được gì về cô gái của chúng ta chưa?”
Tôi định nói với cậu ta là tôi biết Betty Short không đáng để chúng tôi phải lao tâm khổ tứ đến như vậy; tôi định cho cậu ta biết manh mối về mụ đàn bà tóc ngắn kia và bản chất dối trá của Betty Short để cậu ta không quá xúc động. Nhưng vẻ mặt não nề của Lee khiến tôi buộc phải nói: “Không có gì đáng để phải tra tấn mình như vậy. Chuyện cũng chỉ đơn giản như khi cậu tống một cô gái điếm vào trại giam Quentin và cô ấy bỏ trốn. Thử tưởng tượng xem em gái của cậu sẽ nghĩ thế nào khi nhìn thấy bộ dạng cậu thế này. Nó sẽ…”
Tôi không thể nói thêm vì nước mắt Lee đã giàn giụa và bây giờ thì đến lượt cậu ta đứng đó như diễn viên gợi chuyện nhưng lại không có ai để gợi chuyện cả. Kay đứng vào giữa đặt tay lên vai chúng tôi. Tôi bước ra ngoài vì không muốn nhìn thấy Lee nức nở.
Đội University cũng là nơi thể hiện sự nghiện ngập lợi dụng vụ án Thược dược đen này.
Một bảng danh sách cá độ được dựng lên trong phòng thay quần áo với đủ các kiểu tỷ lệ khác nhau “Phá được - một ăn hai,” “Do tình dục vô độ - một ăn bốn,” “Không phá được - hoà tiền,” “Do bạn trai gây ra - bốn ăn một,” và “Do tên ‘Red’ gây ra - không có tỷ lệ trừ phi nghi phạm bị bắt.” Người cầm trịch cá độ là trung uý Shiner và số lượng tập trung đánh cá nhiều nhất là “do bạn trai gây ra” với hàng chục sỹ quan ký nhận đánh cược, tất cả đều chấp nhận tỷ lệ năm mươi ăn hai.
Phòng họp của Đội còn nực cười hơn. Ai đó đã treo hai nửa chiếc váy đen ngay trước cửa ra vào. Harry Sears nửa tỉnh nửa say đang nhảy nhót quanh cô dọn vệ sinh người da màu, giới thiệu cô ta là Thược dược đen thực tế. Harry cầm chiếc bình rót rượu cho mọi người, các sỹ quan cảnh sát khác phải dùng tay bịt tai còn lại trong khi nói chuyện điện thoại.
Công việc điều tra cũng thật điên khùng. Người ta lần mò với những thông tin đăng ký do Cục quản lý ôtô, môtô cung cấp và danh bạ điện thoại ở khu vực công viên Huntington cố tìm cách để có được manh mối về gã “Red” nào đó đã cùng Betty Short rời khỏi San Diego. Những người khác thì đang đọc các bức thư tình của cô ấy, hai sỹ quan đang liên lạc với Cục quản lý ôtô, môtô lấy thông tin về những biển số đăng ký mà Lee thu được đêm hôm qua khi phục kích căn nhà thuê của Nash. Millard và Loew không có mặt vì vậy tôi bỏ bản báo cáo của mình vào một khay lớn có ghi BÁO CÁO CỦA CÁC THÁM TỬ NGOÀI ĐỊA BÀN và rời khỏi phòng trước khi mấy anh hài mặc sắc phục kia bắt tôi phải tham gia trò hề.
Còn một mình tôi lại nghĩ đến Lee, nhưng nghĩ đến cậu ta tôi lại muốn quay lại phòng họp của Đội để dù sao thì cũng tìm được chút gì đó hài hước về cô gái đã chết kia. Và nghĩ đến Lee tôi lại nghĩ đến tên Nash khốn nạn, hắn là tay súng thiện xạ còn đáng sợ hơn cả hàng mấy chục những tên ghen tuông giết người. Bực mình, tôi lại trở về với công việc cảnh sát điều tra vốn có của mình và đến công viên Leimert lùng sục thay cậu ta.
Nhưng tôi vẫn không thể lẩn trốn được vụ Thược dược đen này.
Đi qua đường số 39 và đường Norton, tôi thấy đám người tò mò đang quanh quẩn trong khu vực bãi đất trống trong khi những người bán kem và xúc xích rong phân phát thức ăn; một bà già đang rao bán những bức ảnh chụp Betty Short trước cửa quán bar ở góc đường số 39 và đường Crenshaw và tôi phân vân không biết có phải gã Cleo Short đã cung cấp những phiên bản này để kiếm lời hay không. Tôi cố xua đuổi ý nghĩ trớ trêu đó ra khỏi đầu để làm việc.
Tôi mất năm giờ liền đi bộ dọc xuống phía Nam đường Crenshaw rồi lại vòng lên phía Tây Nam, tay cầm bức ảnh chân dung của Nash và đặt câu hỏi về thói hiếp dâm các cô gái da màu của hắn. Nhưng tất cả những câu trả lời tôi có được đều là “Không” và câu hỏi “Sao anh không đi mà điều tra về cô gái Thược dược đáng yêu kia?” Đến khoảng 9 giờ tối, tôi đành phải tự nhủ với mình rằng có thể Nash đã cao chạy xa bay khỏi Los Angeles. Và mặc dù vẫn bực mình tôi cũng đành phải quay lại với đám diễn hài ở Đội University.
Sau khi ngốn vội vàng chiếc hamburger cho bữa tối, tôi quay số gọi Phòng quản lý hành chính hỏi thông tin về những nơi thường tập trung bọn lesbian. Nhân viên ở đó kiểm tra hồ sơ và đọc cho tôi tên ba địa điểm bán cocktail, tất cả đều ở một khu nhà trên đại lộ Ventura thuộc khu Valley: Quầy Dutchess, Swank Spot và La Vern’s Hideaway. Tôi vừa định gác máy thì anh nhân viên kia nói thêm tất cả các khu vực đó đều không thuộc phạm vi quản lý của Sở cảnh sát thành phố Los Angeles mà thuộc quyền kiểm soát của cảnh sát trưởng hạt.
Tôi chả thèm nghĩ đến việc mấy địa điểm đó có thuộc quyền kiểm soát của mình hay không khi lái xe đến khu Valley. Tôi nghĩ đến những người đàn bà đi cùng nhau, không phải loại lesbian mà là những người ủy mỵ đi với những người có vẻ cứng rắn. Qua dốc Cahuenga, tôi lại thử mường tượng hình ảnh các cặp đi với nhau nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra chỉ là những hình ảnh về thân thể họ, mùi dầu gió và cảm giác từ chiếc ghế xe mà tôi đang ngồi chứ chả có hình ảnh nào về khuôn mặt. Tôi liên tưởng kết hợp giữa hình anh Betty/Beth và Linda/Lorna, những bức ảnh chân dung và bức ảnh trên tấm thẻ của trường cấp ba với thân thể những cô gái mà tôi còn nhớ được trong những trận đấu chuyên nghiệp của mình trước đây. Càng lúc trí tưởng tượng của tôi càng sinh động, còn sinh động hơn cả khi khu nhà mang số 11000 trên đại lộ Ventura xuất hiện trong tầm nhìn và những người phụ nữ đi với nhau.
Mặt tiền của quầy cocktail Swank Spot khá dài với hai chiếc cửa quay trông giống như cảnh trong các bộ phim. Khu bên trong được bố trí rất hẹp và tối, tôi phải mất một lúc lâu mới quen được với ánh sáng bên trong. Và khi nhìn rõ được, tôi thấy ngay đến mấy chục cô ả đang nhìn tôi trừng trừng.
Một số nhìn đặc sệt phong cách đàn ông trong bộ áo sơ mi kaki và quần dài hiệu GI, một số khác là những cô nàng ẻo lả mặc váy và áo len. Một cô nàng lực lưỡng đứng nhìn tôi dò xét từ đầu đến chân; cô bé mảnh dẻ tóc đỏ đứng cạnh ngả đầu vào vai cô kia tay vòng qua ôm eo. Cảm thấy người đã bắt đầu ướt mồ hôi tôi quay ra quầy bar tìm ả cầm đầu để hỏi chuyện. Tôi nhận ra phía cuối phòng của một khu vực trống kê bàn ghế làm bằng tre xếp đầy các loại rượu. Tôi bước lại và các cặp tình nhân nữ chỉ đứng tránh nhường vừa đủ đường cho tôi đi qua.
Một ả lesbian đứng sau quầy rót một ly whisky đầy đặt trước mặt tôi và nói: “Anh là người của bên kiểm soát các loại đồ uống à?” Cặp mắt của cô ta rất sáng và dữ dằn. Tự nhiên tôi có cảm giác cô ta đọc được những suy nghĩ của tôi trên đường đến đây.
Uống một hơi hết ly rượu tôi nói. “Tôi là nhân viên điều tra các vụ án mạng của Sở cảnh sát thành phố Los Angeles”; cô nàng lesbian đốp ngay, “Đây không phải địa bàn của anh, nhưng đứa nào bị khử?” Tôi chìa bức ảnh Betty/Beth và tấm thẻ có hình của Lorna/Linda ra. Ly rượu whisky làm giọng tôi có vẻ trơn hơn: “Cô đã bao giờ nhìn thấy ai trong số họ chưa?”
Cô ả nhìn hai bức ảnh ngước lên nhìn tôi. “Anh bảo cô nàng Thược dược kia là con gái à?”
“Đấy là cô nói.”
“Vậy thì tôi sẽ nói với anh rằng tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ta ngoại trừ trên báo. Cô bé con kia cũng chưa bao giờ bởi vì những cô gái của tôi ở đây không cặp bạn với người chưa đến tuổi. Đồng ý chứ?”
Tôi chỉ chiếc ly đã cạn và cô gái rót thêm một ly. Tôi uống hết, cảm thấy người ấm hơn nhưng rồi lại lập tức cảm thấy lạnh. “Đồng ý khi những cô gái của cô nói với tôi điều đó và tôi tin họ.”
Ả phục vụ quầy bar huýt sáo và ngay lập tức khu vực chỗ tôi đứng chật kín người. Tôi cầm mấy bức ảnh đưa cho cô nàng đang ôm eo một “quý bà” trông như tay thợ đốn củi. Họ xem qua, lắc đầu và chuyển cho một “quý bà” khác trong bộ quần áo nhảy dù của phi công. Cô ta xem xong và nói: “Không, nhưng Bộ nông nghiệp Mỹ thì có thể có,” tôi lại chuyến cho một cặp khác đứng cạnh. Bọn họ cầm bức ảnh lầm bầm: “Thược dược đen” vẻ sợ hãi lộ rõ trong giọng nói. Cả hai cùng nói: “Không,” cô ả mang phong cách đàn ông còn nói thêm: “Không, cả hai đều không, và cũng không phải mẫu người của tôi.” Cô ta vội vã trả lại mấy tấm ảnh cho tôi và nhổ bọt luôn xuống sàn nhà. Tôi nói: “Chúc ngủ ngon, các quý bà,” và bước ra cửa, phía sau tôi vẫn còn văng vẳng tiếng thì thầm “Thược dược”.
Kết quả điều tra của tôi ở quầy cocktail Dutchess còn tệ hại hơn. Nhiều người tỏ ra hằn học với tôi hơn và câu trả lời “Không” cũng nhiều hơn - tất cả đều bằng thứ tiếng Anh cổ. Bước sang quầy La Vern’s Hideaway tôi cảm thấy vô cùng bực tức nhưng không hiểu vì lý do gì.
Không gian bên trong cũng tối, đèn nhỏ gắn vào các lỗ trên trần nhà soi sáng lờ mờ những bức tường dán đầy tranh cây cọ rẻ tiền. Các cặp lesbian đang thậm thụt với nhau trong những buồng quây tạm; có hai cô ả đang hôn nhau say đắm khiến tôi ngạc nhiên nhìn trừng trừng nhưng rồi để mặc họ và bước đến quầy bar.
Quầy bar được bố trí thụt vào mé tường bên trái, ánh đèn màu như biến nó thành cảnh tượng trên bãi biển Waikiki[41]. Không có người phục vụ, cũng không có ai ngồi trên các ghế cao kê xung quanh. Tôi bước ra phía sau cố ý hắng giọng để các cặp “tình nhân” kia thoát khỏi chín tầng mây mà trở về với trái đất. Chiến thuật của tôi có tác dụng ngay; tiếng rên rỉ chút chít im bặt và những cặp mắt tức giận quay ra nhìn tôi.
Tôi nói: “Cảnh sát điều tra án mạng của thành phố Los Angeles đây,” và đưa mấy bức ảnh cho một cặp gần nhất. “Người tóc đen là Elizabeth Short hoặc Thược dược đen nếu các cô đã đọc báo. Người kia là bạn cô ấy. Tôi muốn biết có ai đã từng nhìn thấy họ chưa, và nếu có thì nhìn thấy ai?”
Mấy bức ảnh được chuyển qua hết buồng này đến buồng khác; tôi nhìn chăm chú phản ứng của họ và nhận thấy mình phải sử dụng dùi cui mới có thể lấy được câu trả lời có hoặc không. Không ai nói một lời; tất cả những gì tôi thấy trên nét mặt họ là sự tò mò xen lẫn với cảm giác tiếc nuối thèm thuồng vì bị ngắt quãng giữa chừng. Mấy bức ảnh lại quay về với tôi. Tôi nhận lại và bước ra ngoài. Thấy có một phụ nữ sau quầy bar đang đánh giày, tôi dừng lại.
Tôi bước đến chìa mấy tấm ảnh và ngoắc tay gọi cô ta. Cô nàng cầm tấm ảnh lên và nói. “Tôi chỉ nhìn thấy cô ấy trên báo thôi.”
“Thế còn cô gái này? Tên cô ấy là Linda Martin.”
Cô nhân viên phục vụ cầm tấm thẻ có ảnh lên nhìn chăm chú, tôi thấy có vẻ cô ta nhận ra điều gì đó. “Không, xin lỗi anh.”
Tôi đứng dựa vào quầy gằn giọng. “Đừng nói dối tôi. Cô ấy mười lăm tuổi và cô phải nói ra đi nếu không muốn tôi sử dụng đến sức mạnh và cô sẽ mất năm năm ở Tehachapi[42] mà điều trị đấy.”
Cô nàng giật nảy mình, tôi tưởng cô ta sẽ đi lấy chai rượu và đập thẳng vào đầu tôi. Không dám ngước lên nhìn tôi, cô ta nói: “Nó có đến đây. Hình như hai hay ba tháng trước gì đó. Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô nàng Thược dược kia cả, và tôi nghĩ cô bé có vẻ thích con trai hơn. Ý tôi nói là nó chỉ đến đây quanh quẩn xin đồ uống của các chị.”
Tôi thoáng thấy có một cô nàng vừa định ngồi xuống bàn thì giật mình chộp ví bước ra cửa, hình như cô ta nghe thấy những lời tôi nói với cô phục vụ quầy bar. Ánh sáng yếu ớt soi vào mặt cô ta và tôi thoáng thấy có nét gì đó giống Elizabeth Short.
Tôi vơ mấy tấm ảnh và lao theo cô ta, vừa kịp ra đến xe thì tôi cũng thấy cô ta mở khoá chiếc Packard trắng toát đậu mé trên cách xe tôi vài xe. Cô ta nổ máy chạy đi, tôi đếm đến năm và bám theo.
Cô ta chạy quay lại đại lộ Ventura, dốc Cahuenga, và quay vào Hollywood. Ban đêm xe cộ đi lại khá vắng vẻ nên tôi để cho chiếc Packard kia chạy phía trước cách vài xe khi chúng tôi chạy xuống phía Nam, ra khỏi Hollywood vào khu vực quận Hancock Park. Vào đến đường số 4, người phụ nữ kia rẽ trái và chẳng mấy chốc chúng tôi đã ở giữa công viên Hancock - nơi mà cảnh sát Wilshire gọi là “Công viên nằm dưới kính.”
Chiếc Packard r