← Quay lại trang sách

Chương 32

Vụ E. Short đúng là lại nóng lên. Nhưng chỉ với tôi thôi.

Sau hàng giờ đi dò hỏi các quán bar ở Medford, tôi chứng minh được rằng Betty đúng là cô nàng dễ dãi lẳng lơ như lời Tommy Gilfoyle nói. Nửa đêm tôi quay lại Los Angeles và gọi điện ngay cho Russ Millard. Anh ta đồng ý: Ông bác sỹ mà gã người Pháp kia nhắc đến rất có thể có vấn đề. Russ nói sẽ gọi điện lại cho bên cơ quan điều tra hình sự của lục quân ở Fort Dix xin thêm thông tin về anh chàng hạ sỹ quan bị sa thải này, sau đó sẽ cử một nhóm đi điều tra tất cả các phòng khám tập trung quanh khu vực khách sạn Havana, nơi Dulange ăn nằm với Betty. Tôi gợi ý với Russ rằng tên bác sỹ rất có thể là tay hay la cà ở các quán bar, người chuyên nạo phá thai, hoặc một lang băm. Russ đồng ý và nói sẽ gọi điện cho bên quản lý hồ sơ cá nhân và nguồn cung cấp tin cho anh ta. Russ cùng với Harry Sears cũng sẽ đích thân đi điều tra trong khoảng một giờ nữa. Chúng tôi phân khu vực: Trong khu giữa quận Figueroa và quận Hill, từ đường số 6 đến đường số 9 tôi sẽ phụ trách; từ đường số 1 đến đường số 5 hai người bọn họ phụ trách.

Tôi xé trộm một trang niên giám của bưu điện và lập danh sách: các bác sỹ y khoa hành nghề hợp pháp; thầy thuốc trị bệnh bằng dược thảo; những người điều trị bằng thủ thuật - bọn hút máu người chuyên bán lương tâm phẩm giá dưới vỏ bọc “bác sỹ”. Cuốn niên giám cũng có danh sách vài bác sỹ sản khoa và phụ khoa nhưng bản năng cho tôi biết tay bác sỹ mà Joe Dulange tìm được chỉ rất tình cờ chứ hắn không hề có ý định từ trước là sẽ tìm một bác sỹ để trấn an Betty. Sau khi đã uống Adrenalin[70], tôi bắt tay vào việc.

Hầu hết các bác sỹ mà tôi gặp vừa mới bắt đầu công việc trong ngày và tất cả đều lịch sự từ chối khi biết tôi là cảnh sát. Và cũng sau những cuộc nói chuyện với họ mà tôi nhận ra tên ông bác sỹ mà thằng người Pháp kia tìm đến phải có biểu hiện mạo danh gì đó. Ngốn vội vàng bữa trưa, tôi lao vào tìm những tay bác sỹ giả dạng.

Tất cả các thầy thuốc trị bệnh bằng dược thảo đều là người Trung Quốc. Những người trị bệnh bằng phương pháp thần bí thì như nửa nam nửa nữ. Tất cả đều có chung một câu trả lời là không biết và tôi tin họ. Tôi nghĩ những người này chắc chắn sẽ không dám nhận lời đề nghị của gã người Pháp kia. Vừa định tiếp tục lùng sục các quán bar để tìm mấy tay bác sỹ nghiện rượu hay lảng vảng ở đó thì cơn mệt ập đến. Tôi đành phải quay về “ngôi nhà” của mình ở khách sạn El Nido và chợp mắt 20 phút.

Trong lòng vẫn tức tối nên tôi không ngủ tiếp mà cố tập trung chắp nối lại các sự kiện. Lúc đó đã là sáu giờ chiều, các phòng khám chắc đang đóng cửa trong khi đó muốn kiểm tra các quán bar thì phải đợi ít nhất ba giờ nữa. Russ và Harry sẽ gọi tôi ngay nếu họ có tin tốt. Tôi lại mở hồ sơ ra đọc.

Thời gian trôi đi, những cái tên, ngày tháng, địa điểm ghi theo ngôn ngữ của cảnh sát làm tôi tỉnh táo. Tôi chợt chú ý đến một thông tin mà tôi đã đọc qua hàng chục lần nhưng bây giờ mới nhận ra ý nghĩa của nó.

Đó là hai đoạn ghi chú:

Ngày 18/01/1947: Gọi cho Buzz Meeks bảo anh ta gọi điện tìm hiểu xem E. Short có tham gia đóng phim với hãng nào không, Bleichert nói cô bé này rất thích trở thành ngôi sao điện ảnh. Không được để Loew biết việc này - Russ.

Ngày 22/01/1947: Russ - Meeks không nói gì cả. Quá tồi tệ. Anh ta lo sợ nên không dám nói gì - Harry.

Được cũng cố thêm chi tiết Betty thích đóng phim đến gàn dở khiến tôi thấy tỉnh táo hơn, hai đoạn ghi chú có nội dung hoàn toàn khác nhau. Tôi còn nhớ có lần Russ đã nói với tôi anh ta sẽ thẩm vấn Meek, người phụ trách an ninh của hãng phim Hughes và là “kênh liên lạc không chính thức” của cảnh sát với các hãng phim. Vào thời gian này Loew đang cố tình gạt bỏ những chứng cớ cho rằng Betty là con người lẳng lơ dễ dãi để đánh bóng thêm hình ảnh của anh ta khi đưa vụ án ra xét xử. Ngoài ra, trong cuốn sổ nhỏ của Betty có nhắc đến tên vài người có liên quan đến phim ảnh - những người này đã được kiểm tra năm 1947 trong chiến dịch điều tra tất cả những người được nhắc đến trong cuốn sổ.

Một câu hỏi lớn được đặt ra: Nếu Meek thực sự kiểm tra thì tại sao anh ta không phát hiện ra ít nhất là một vài tên có đề cập trong cuốn sổ địa chỉ kia và chuyển cho Russ?

Tôi ra ngoài gọi điện cho bên phụ trách an ninh của hãng Hughes. Giọng một cô gái vang lên như hát. “Bộ phận an ninh đây. Tôi có thể giúp gì được anh không?”

“Xin cho tôi gặp Buzz Meeks.”

“Xin lỗi, anh Buzz Meeks không có ở văn phòng lúc này. Tôi sẽ nói với anh ấy là ai đang gọi đến, thưa anh?”

“Thám tử Bleichert, cảnh sát Los Angeles. Khi nào thì anh ấy quay lại?”

“Khi xong cuộc họp bàn về ngân sách. Xin lỗi, tôi có thể biết có chuyện gì không?”

“Có chuyện liên quan đến cảnh sát. Nhờ cô nói với anh ta tôi sẽ có mặt ở văn phòng anh ta trong nửa giờ nữa.”

Tôi gác máy và 25 phút sau thì có mặt ở khu Santa Monica. Nhân viên bảo vệ cho tôi vào và chỉ luôn phòng bảo vệ nằm phía cuối một dãy các khu nhà chứa máy bay. Tôi đậu xe và xuống gõ cửa. Cô gái ban nãy ra mở. “Anh Meek nói anh đợi ở đây. Anh ấy sẽ đi không lâu đâu.”

Tôi bước vào còn cô gái bước ra, nét mặt có vẻ vui vì ngày làm việc đã kết thúc. Tường căn phòng dán đầy các bức vẽ máy bay của hãng phim Hughes, nghệ thuật quân sự bây giờ chỉ được xếp ngang tầm với mấy mô hình vẽ trên hộp ngũ cốc. Văn phòng của Meeks nhìn có vẻ khá hơn: ảnh các phi công vạm vỡ tóc húi của chụp chung với rất nhiều các tài tử Hollywood - những cô diễn viên hình như tôi mới gặp lần đầu.

Tôi kéo ghế ngồi và vài phút sau thì anh chàng vạm vỡ kia xuất hiện, tay chìa ra tự nhiên như phong cách của người quan hệ cộng đồng chứ không phải anh chàng phụ trách bảo vệ. “Chào cậu. Cậu là thám tử Blyewell phải không?”

Tôi đứng dậy bắt tay, tôi nhận ra là Meeks có vẻ ngạc nhiên khi nhìn bộ râu đã ba ngày không cạo và bộ quần áo hai ngày chưa giặt của tôi. “Tôi là Bleichert.”

“Tất nhiên rồi. Tôi có thể giúp gì cho cậu?”

“Tôi có vài câu hỏi liên quan đến một vụ xảy ra trong quá khứ mà anh đã có dịp được giúp đỡ bên điều tra án mạng.”

“Tôi hiểu rồi. Bây giờ cậu vẫn làm bên đó hay sao?”

“Hiện tại tôi là cảnh sát điều tra phụ trách khu vực Newton.”

Meek ngồi xuống sau bàn làm việc. “Có vẻ việc này hơi ngoài phạm vi của cậu đúng không? Cô thư ký của tôi còn nói cậu là thám tử.”

Tôi đóng cửa và đứng tỳ lưng lên đó. “Đây là chuyện cá nhân của tôi.”

“Vậy đã bao giờ cậu nghe ai nói cảnh sát mà tính chuyện riêng tư thì có ngày sẽ chết đói chưa?”

“Họ đã nói với tôi và tôi cũng nói với họ chẳng qua đó là vì trách nhiệm với quê hương. Anh đã làm tình với rất nhiều các cô diễn viên đang lên đúng không, Meeks?”

“Tôi đã làm chuyện đó với Carol Lambard. Tôi sẽ cho cậu số của cô ấy nhưng cô ấy chết rồi.”

“Anh có làm chuyện đó với Elizabeth Short không?”

Meeks giận dữ đỏ mặt chỉ mấy tờ báo để trên bàn, nhưng vẫn không dấu nổi vẻ xảo trá, gian dối. Giọng anh ta khản đặc. “Hình như cậu đã được hậu đãi quá mức sau trận đấu với Blanchard phải không? Con điếm Short đó chết rồi.”

Tôi gạt áo ra sau cố tình để cho Meeks nhìn thấy khẩu 45 tôi mang bên mình. “Đừng gọi cô ấy như thế.”

“Được thôi. Cứ coi như cậu nói với tôi những gì cậu muốn. Thế rồi chúng ta thỏa thuận và kết thúc luôn trò chơi trước khi mọi việc vượt quá tầm kiểm soát. Cậu hiểu không?”

“Năm 1947, Harry yêu cầu anh hỏi bên các hãng phim những người quen Betty Short. Anh báo lại là không có ai cả. Anh đã nói dối. Vì sao vậy?”

Meeks nhặt chiếc dao mở thư lên. Anh ta vuốt tay dọc theo sống dao rồi lại đặt xuống. “Tôi không giết cô ta và tôi cũng không biết ai là thủ phạm cả.”

“Anh phải thuyết phục được tôi nếu không tôi sẽ gọi cho Hedda Hopper[71] và ngay số báo sáng ngày mai sẽ có bài. Anh thấy tiêu đề này thế nào: ‘Kẻ theo đóm ăn tàn của Hollywood cố tình dấu chứng cớ về vụ Thược dược bởi vì…’ Anh sẽ là người phải điền nốt vào chỗ tôi chưa nói hết kia, hoặc nếu không thích thì anh gọi điện thẳng cho Hedda mà nói với cô ấy cũng được. Anh hiểu không?”

Meeks vẫn cố tỏ ra can đảm. “Bleichert, cậu đang tìm nhầm người rồi đấy.”

Tôi rút khẩu 45 kiểm tra lại ống hãm thanh và buồng đạn. “Không, chính là anh đấy.”

Meek lấy chai rượu trên bàn tự rót một chén và nốc hết luôn. “Những gì tôi có chỉ là một manh mối duy nhất đã không còn giá trị. Nhưng nếu cậu quá cần thì tôi sẽ cung cấp.”

Tôi túm vành cò đu đưa khẩu súng. “Mẹ kiếp, nói đi.”

Meeks mở ngăn kéo bàn lấy ra một tập giấy. Anh ta đọc lại một lượt rồi xoay ghế ngồi quay vào tường nói. “Tôi phát hiện ra Burt Lindscott, phụ trách sản xuất của hãng Universal, có một thằng rất ghét thằng bạn Scotty Bennett của Lindscott đã nói với tôi. Scotty là tay phe gái và hắn cung cấp số điện thoại nhà riêng của Lindscott ở Malibu cho tất cả các cô gái trẻ muốn đăng ký tham gia đóng phim với hãng Universal. Cô gái tên Short kia cũng là một trong số đó và cô ta gọi điện cho Lindscott.

“Phần còn lại, những cuộc hẹn và những chuyện liên quan khác thì chính Lindscott kể cho tôi. Đêm ngày 10 tháng 1, cô gái này gọi cho anh ta từ khu phố chỗ khách sạn Biltmore. Burt bảo cô ta tự miêu tả về mình và anh ta thấy thích cô nàng ngay. Anh ấy nói sẽ cho cô gái thử việc vào sáng hôm sau. Cô nàng bảo không còn chỗ nào để ở tạm chờ đến sáng hôm sau, vì vậy Lindscott gọi cô ta đến cho ở nhờ nhà mình - cậu bé coi nhà của anh ấy sẽ cho cô ta ăn và giám sát cô ta. Cô gái kia đi xe buýt đến Malibu và cậu bé giúp việc - bị đồng tính - đã giám sát cô ta. Ngày hôm sau, vào khoảng buổi trưa thì Lindscott cùng với ba cậu bạn thân về nhà trong tình trạng say mềm.

“Đám bạn kia nghĩ chắc sẽ có trò hay nên cho cô gái thử diễn đọc một kịch bản mà Burt bịa ra. Cô ta diễn không đạt và bị đám người kia trêu chọc, Lindscott đưa ra đề nghị: Cô ấy phục vụ bốn người bọn họ, đổi lại anh ta sẽ cho cô ấy tham gia một vai diễn trong bộ phim sắp tới. Cô gái vẫn còn tức vì bị họ trêu nên trút cơn giận để trả đũa. Cô ấy gọi bọn họ là đồ mưu mô phản bội không xứng đáng để trở thành những người lính. Khoảng hai rưỡi chiều hôm đó thì Burt tống cổ cô bé ra khỏi nhà. Cậu bé coi nhà nói cô ta không còn xu nào trong túi và sẽ quay ra phố.”

Có nghĩa là Betty đi bộ hoặc nhờ xe ai đó ra phố sau đó gặp Sally Stinson và Johnny Vogel ở hành lang khách sạn Biltmore khoảng sáu giờ sau đó. Tôi nói: “Meek, tại sao anh không báo cáo tin này?... Quay sang nhìn tôi đi.”

Meeks quay lại vẻ mặt có vẻ xấu hổ. “Tôi đã liên lạc với Russ và Harry nhưng lúc đó hai người bọn họ lại đang ở ngoài địa bàn vì vậy tôi gọi cho Ellis Loew. Anh ta yêu cầu tôi phải báo cáo toàn bộ những gì tôi phát hiện ra và đe dọa sẽ rút lại giấy phép bảo vệ an ninh của tôi. Sau đó tôi mới biết được là Lindscott là nhân vật quan trọng của phe Cộng hòa và anh ta hứa sẽ ủng hộ Loew tranh chức trưởng ủy viên công tố quận. Vì vậy Loew không muốn anh ta dính líu đến vụ Thược dược.”

Tôi nhắm chặt mắt để không phải nhìn người đàn ông trước mặt. Tôi nghĩ đến cảnh Betty bị chế giễu, phải làm gái điếm phục vụ bọn người kia và bị tống cổ ra đường. “Bleichert, tôi đã kiểm tra Lindscott, cậu bé coi nhà và đám bạn của anh ta. Họ đều là những người biết tuân thủ pháp luật nên chắc chắn họ không phải là thủ phạm. Tất cả đều chỉ ở nhà hoặc ở chỗ làm việc trong khoảng thời gian từ 12 đến hôm thứ Sáu ngày 17. Không ai trong số họ có thể là thủ phạm được, và cho dù ai trong số họ có gây ra chuyện đó thì tôi cũng không phải chịu trách nhiệm gì cả. Tôi có bằng chứng ở đây, tôi sẽ cho cậu xem.”

Tôi mở mắt; Meek đang xoay mở khóa chiếc két sắt chôn trong tường. Tôi nói: “Loew đã trả anh bao nhiêu để đổi lấy sự im lặng?”

Meek nói ngay: “Một nghìn,” và co rúm người lại như sợ bị đấm. Tôi kinh tởm đến mức chả thèm động vào người anh ta mà im lặng bỏ đi.

Tôi đã thu thập được một nửa số thông tin giải thích những ngày Elizabeth Short mất tích:

Red Manley thả cô ấy xuống khách sạn Biltmore lúc chập tối ngày thứ Sáu, ngày 10 tháng 1; E. Short gọi cho Lindscott từ đó và ở lại khu Malibu cho đến 2:30 chiều hôm sau. Buổi tối cô ấy quay lại khách sạn Biltmore và gặp Sally Stinson cùng với Johnny Vogel ở hành lang, làm tình với Johnny cho đến nửa đêm sau đó lại ra đi và gặp tên hạ sỹ Joseph Dulange ngay đêm đó hoặc sáng sớm ngày hôm sau ở quán bar Night Owl - cách khách sạn Biltmore hai dãy nhà. Cô ta ở đó với Dulange sau đó là khách sạn Havana cho đến tận buổi chiều hoặc buổi tối ngày Chủ nhật, ngày 12 tháng 1, khi hắn đưa cô ta đi gặp tên bác sỹ kia.

Tôi lái xe quay lại khách sạn El Nido nhưng bây giờ không còn thấy mệt nữa. Đi qua một bốt điện thoại tôi chợt nhớ ra: Nếu Betty gọi điện cho Lindscott ở Malibu thì chắc chắn thông tin còn lưu lại ở công ty Pacific Coast Bell[72]. Thậm chí nếu cô ta có gọi cuộc nào khác nữa vào ngày 11 thì Pacific Coast Bell cùng vẫn có thông tin lưu - họ cần lưu thông tin các cuộc gọi trả tiền trước để tính toán chi phí và giá cả.

Chả còn nghĩ đến mệt nhọc, tôi bám theo mé đường, vượt cả đèn đỏ về khách sạn El Nido. Tôi đậu xe cạnh một vòi nước và chạy thẳng lên phòng lấy cuốn sổ tay. Vừa định nhảy ra buồng điện thoại trả tiền trước ngoài hành lang thì chuông trong đó reo làm tôi giật mình.

“Tôi nghe đây?”

“Anh Bucky phải không? Anh yêu, có phải anh không?”

Madeleine gọi.

“Nghe này, anh chưa thể nói chuyện được với em lúc này.”

“Chúng ta có một cuộc hẹn ngày hôm qua, anh quên sao?”

“Anh phải rời khỏi thành phố. Công việc mà.”

“Lẽ ra anh phải gọi điện cho em. Nếu em không biết anh có chỗ đó để ẩn náu thì chắc em sẽ nghĩ anh chết rồi.”

“Lạy Chúa, Madeleine!”

“Anh yêu, em cần gặp anh. Ngày mai người ta sẽ tháo tấm biển ở khu Hollywoodland và phá vài ngôi nhà do cha em xây. Bucky, việc này là của thành phố, nhưng cha em lại mua chỗ đất đó và xây nhà đứng tên mình. Ông ấy sử dụng những loại vật liệu xấu nhất, và một điều tra viên của Hội đồng thành phố đang xem xét việc nộp thuế của cha em. Có người trước kia là kẻ thù của cha em giờ đã tự tử và để lại cho Hội đồng thành phố một bản tố cáo các tài sản của cha em…”

Giọng Madeleine cứ đều đều bên tai - ông bố gặp rắc rối, tìm lời động viên an ủi của ông bạn Bucky. Tôi nói: “Nghe này, anh không thể nói chuyện được với em lúc này,” và gác máy.

Bây giờ thì đúng là tôi đang làm công việc của một thám tử. Tôi để sẵn sổ tay và bút bên cạnh sau đó trút hết số tiền xu tôi tích bốn ngày nay vào máy - khoảng 2 đô la, đủ gọi bốn mươi cuộc. Trước tiên tôi gọi cho người phụ trách trực đêm của công ty Pacific Coast Bell xin danh sách các cuộc gọi trả tiền trước thực hiện tại các máy điện thoại ở khu vực khách sạn Biltmore vào các buổi tối ngày 10, 11, và 12 tháng 1 năm 1947; tên và địa chỉ của người nhận cuộc gọi và thời gian chính xác diễn ra các cuộc gọi.

Tôi hồi hộp cầm ống nghe đứng đợi trong khi người phụ nữ làm việc, chả thèm để ý đến những người xung quanh đang muốn vào gọi điện. Khoảng nửa giờ sau cô ta lên tiếng trở lại.

Trong số các cuộc gọi diễn ra hôm 10/1 có số và địa chỉ của Lindscott nhưng ngoài ra không còn gì đáng nghi ngờ. Tuy nhiên tôi vẫn ghi lại thông tin. Sau đó khi người phụ nữ bắt đầu đọc các cuộc gọi vào hôm 11/1 - đúng vào thời điểm Betty gặp Sally Stinson và Johnny Vogel ở hành lang khách sạn Biltmore: Bốn cuộc gọi đến phòng khám các bác sỹ sản khoa ở khu Beverly Hills. Tôi ghi lại tên, địa chỉ và số dịch vụ trả lời ban đêm của họ cùng với các cuộc gọi trả tiền trước thực hiện sau đó. Không có gì đáng chú ý nhưng tôi vẫn lưu lại. Xong xuôi tôi bỏ tiếp một vốc tiền xu nữa vào máy và gọi đến khu vực Beverly Hills.

Mất toàn bộ số tiền xu đổi ra tôi mới đạt được mục đích của mình. Tôi nói với các nhân viên tổng đài là cảnh sát có việc khẩn cấp cần gặp, họ nối máy cho tôi gọi đến nhà riêng của các bác sỹ. Họ cử thư ký đến văn phòng kiểm tra lại hồ sơ lưu và gọi đến khách sạn El Nido cho tôi. Toàn bộ công việc mất hai giờ và cuối cùng tôi có được những thông tin sau:

Vào lúc chập tối ngày 11 tháng 1 năm 1947, “bà Fickling” và “bà Gordon” nào đó gọi đến bốn phòng khám bác sỹ sản khoa khác nhau ở khu Beverly Hills xin khám thai. Nhân viên phòng khám hẹn họ vào sáng ngày 14 và 15 tháng 1. Thượng úy Joseph Fickling và thiếu tá Matt Gordon là hai vị anh hùng chiến tranh mà Betty đã hẹn hò và giả vờ là kết hôn với họ; cuộc hẹn đó không bao giờ diễn ra vì vào ngày 14 cô ấy đã bị tra tấn đến chết; và vào ngày 15 thì Betty chỉ còn là đống thịt bị cắt xẻ vứt ở góc đường số 39 và đường Norton.

Tôi gọi điện đến văn phòng tìm gặp Russ Millard, một giọng khàn khàn nào đó nghe rất quen vang lên. “Đội án mạng đây.”

“Cho tôi gặp thượng úy Millard.”

“Anh ấy đang dẫn độ một tù nhân đến Tucson.”

“Harry Sears cũng đi sao?”

“Đúng. Cậu thế nào, Bucky? Dick Cavanaugh đây.”

“Rất ngạc nhiên vì cậu còn nhận ra giọng tôi.”

“Harry Sears nói với mình là cậu sẽ gọi đến. Anh ấy để lại danh sách các bác sỹ cho cậu nhưng mình không tìm thấy. Có phải đúng là cậu cần những thứ đó không?”

“Đúng, và tôi cần nói chuyện với Russ nữa. Khi nào thì anh ấy quay lại?”

“Mình nghĩ phải chiều tối mai. Mình sẽ gọi cho cậu ở đâu khi tìm thấy bản danh sách kia?”

“Tôi di chuyển liên tục. Tôi sẽ gọi cho cậu.”

Tôi gọi cho mấy ông bác sỹ sản khoa còn lại nhưng thông tin họ đưa ra không đủ độ tin cậy. Tôi quyết định ra phố tìm ông bác sỹ bạn của Dulange.

Tôi lần mò đến tận nửa đêm ở các quán bar quanh góc đường số 6 và đường Hill, hỏi chuyện những người lang thang ở đó, mua đồ uống và cho họ vài đồng khi họ nói ra những thông tin nghe có vẻ logic.

Lại một đêm nữa không ngủ, tôi đi hết quán này đến quán khác, trong xe lúc nào cũng mở radio cho đỡ buồn ngủ. Tin tức liên tục đưa về vụ Hollywoodland, vụ bê bối đất đai lớn nhất trong lịch sử. Cái tên Mack Sennett và khu đất Hollywoodland của ông ta chiếm hầu hết thời lượng phát sóng, một nhà hát ở Hollywood đang chiếu lại các bộ phim hài câm Keystone Kops do ông ta sản xuất.

Đến khoảng thời gian các quán bar đóng cửa, tôi thấy mình cũng chả khác gì Keystone Kops, râu tóc bơ phờ, quần áo nhếch nhác. Cơn say ngấm vào người, tôi đành lái xe vào một bãi đỗ bỏ không và đánh luôn một giấc.

Tiếng bước chân làm tôi tỉnh giấc. Tôi lao vội ra khỏi xe đi tìm điện thoại. Một xe tuần tra của cảnh sát đậu bên cạnh không biết từ lúc nào, gã tài xế nheo mắt nhìn tôi. Có một bốt điện thoại ở góc đường và tôi quay số gọi cho Russ.

“Trung úy Cavanaugh, Đội án mạng nghe đây.”

“Dick, Bleichert đây.”

“Đúng người tôi đang cần nói chuyện. Tôi tìm thấy danh sách rồi. Cậu có bút chì ở đó chưa?”

Tôi lấy cuốn sổ tay ra. “Đọc đi.”

“Được rồi. Đây toàn là những ông bác sỹ đã bị thu hồi giấy phép. Harry nói năm 1947 thì bọn họ còn hoạt động. Một, Gerald Constanzo, địa chỉ 1841, đường Breakwater, khu Long Beach. Hai, Melvin Praeger, số 9661, đường North Verduo, khu Glendale. Ba, Willis Roach, gã Roach này đang bị quản thúc ở trại cải tạo Wayside Honor vì tội bán morphine…”

Tôi giật mình nhớ đến Dulange kể. “Vì vậy tôi đưa Thược dược xuống phố gặp ông ‘bác sỹ diệt gián’ đó. Tôi nhét vào tay ông ta tờ mười đô la và ông ta giả vờ xét nghiệm cho cô ấy.”

Cố nén tiếng thở gấp tôi nói: “Dick, Harry có ghi lại địa chỉ chỗ ông bác sỹ Roach kia bị quản thúc không?”

“Có. Số 614 đường South Olive.”

Khách sạn Havana chỉ cách chỗ tôi có hai dãy nhà. “Dick, gọi cho trại quản thúc Wayside nói với quản giáo là tôi đến ngay lập tức để thẩm vấn Roach về vụ giết Elizabeth Short.”

“Chó má.”

“Quá chó má.”

Tôi quay về khách sạn tắm gội, cạo râu và thay quần áo. Bây giờ thì nhìn dáng tôi đã giống một thám tử hơn rồi; hơn nữa, Dick Cavanaugh đã gọi điện báo trước thì còn ai dám nghi ngờ tôi nữa. Tôi đi theo đại lộ Angeles Crest lên thẳng phía Bắc trong đầu thầm đánh cược tỷ lệ 50-50 cho việc tay bác sỹ Willis Roach này giết Thược dược.

Khoảng hơn một giờ sau thì tôi có mặt. Viên gác cổng kiểm tra chứng minh và phù hiệu của tôi, anh ta còn cẩn thận gọi điện vào trong xác minh rồi mới cho tôi vào; không biết anh ta được thông báo gì nhưng thái độ đột nhiên tỏ ra lễ phép làm động tác chào mời tôi vào. Cánh cổng buộc thép gai được mở ra, tôi lái xe thẳng vào trước ngôi nhà to xây theo phong cách Tây Ban Nha phía trước có mái lợp ngói. Một viên đại úy thuộc Sở cảnh sát Los Angeles bước ra bắt tay. “Chào thám tử Bleichert. Tôi là trưởng quán giáo Patchell.”

Tôi bắt tay và đấm nhẹ vào sườn anh ta tỏ vẻ thân thiện như Lee Blanchard. “Rất vui được gặp anh, thưa trưởng quản. Roach đã được thông báo gì chưa?”

“Chưa. Anh ta đang ngồi ở phòng thẩm vấn đợi anh. Theo anh có phải anh ta giết Thược dược không?”

Tôi bước đi, Patchell đi bên phải. “Tôi cũng chưa biết. Anh ta có điểm gì đáng chú ý không?”

“Bốn mươi tám tuổi, là bác sỹ gây mê bị bắt năm 1947 vì bán morphine cho các sỹ quan cảnh sát Los Angeles nghiện ngập. Anh ta bị kết án năm năm và đã thực hiện xong một năm ở nhà tù Quentin rồi. Chúng tôi đưa anh ta đến đây bởi vì bệnh xá của trại đang cần người. Bên quản lý trại giam cũng cho rằng trường hợp anh ta không quá nguy hiểm. Trước đây chưa hề bị bắt lần nào và chấp hành án phạt cũng rất tốt.”

Chúng tôi rẽ vào một ngôi nhà thấp xây bằng gạch nâu, kiểu “nhà công vụ” đặc trưng có hành lang dài phía trước, cửa làm bằng thép có gắn số bên trên nhưng không có tên. Đi qua một loạt các cửa số lắp kính nhìn một chiều, Patchell nắm tay tôi chỉ. “Đây rồi. Bác sỹ Roach ở phòng này.”

Tôi nhìn chằm chằm vào trong. Một người độ tuổi trung niên dáng người xương xẩu mặc quần áo tù đang ngồi ở bàn đọc tạp chí. Nhìn ông ta khá sáng sủa - trán cao lớt phớt chút tóc điểm bạc, mắt sáng, đôi tay hằn lên các mạch máu như thường thấy ở các bác sĩ. Tôi nói: “Anh có muốn ngồi đây theo dõi không, thưa trưởng quản?”

Patchell mở cửa. “Không nên bỏ qua cơ hội này.”

Roach ngẩng mặt lên và Patchell giới thiệu. “Bác sỹ, đây là thám tử Bleichert. Anh ấy là người của cảnh sát Los Angeles và muốn hỏi anh vài chuyện.”

Roach đặt cuốn tạp chí xuống - cuốn Bác sĩ gây mê người Mỹ. Tôi và Patchell ngồi đối diện với ông ta, ông bác sỹ bán ma túy nói: “Tôi sẵn sàng phục vụ,” giọng nói kiểu miền Đông rất có học thức.

Tôi vào thẳng vấn đề. “Bác sỹ Roach, tại sao ông giết Elizabeth Short?”

Roach chậm rãi mỉm cười. “Tôi nghĩ các anh phải đến tìm tôi từ năm 1947. Kể từ khi biết tin Dulange khai ra chuyện đáng buồn đó tôi luôn nghĩ các anh sẽ đến gõ cửa bất cứ lúc nào. Thế mà phải hai năm rưỡi sau chuyện đó mới xảy ra.”

Tôi bắt đầu cảm thấy người ngứa ngáy nóng ran. “Không có sự lặp lại cố định nào trong các vụ án giết người cả.”

Điệu cười của Roach biến mất và thay vào đó là ánh mắt rất nghiêm túc, tay bác sỹ đóng kịch này chuẩn bị thông báo tin xấu đây. “Thưa hai anh, hôm thứ Hai, ngày 13 tháng 1 năm 1947, tôi bay đến San Francisco và ở khách sạn Saint Francis, chuẩn bị cho bài diễn văn quan trọng của tôi vào tối thứ Ba trong buổi họp thường niên của Học viện gây mê Mỹ. Tối thứ Ba tôi có bài phát biểu đó và được cử làm phát ngôn viên cho bữa tiệc chia tay sáng hôm sau. Sáng thứ Tư, ngày 15 tháng 1, tôi ở cùng với các đồng nghiệp đến hết buổi chiều, tôi ngủ cùng với bà vợ cũ của tôi ở khách sạn Saint Francis cả đêm thứ Hai và đêm thứ Ba. Nếu các anh muốn kiểm tra cứ gọi thẳng cho Học viện đó và bà vợ cũ của tôi là Alice Carstairs Roach ở San Francisco CR - 1786.”

Tôi nói: “Phiền anh kiểm tra thông tin đó giúp tôi, thưa trưởng quản.”

Patchell rời đi, ông bác sỹ nói tiếp: “Nhìn anh có vẻ thất vọng.”

“Ông giỏi lắm Willis. Bây giờ tôi muốn nghe ông kể về quan hệ của ông với Dulange và Elizabeth Short.”

“Anh sẽ thông báo với Ban quản ngục là tôi hợp tác với anh chứ?”

“Không, nhưng nếu ông không nói tôi sẽ bảo bên công tố lập hồ sơ ông về tội cản trở việc thực thi công lý.”

Roach đành phải mỉm cười đồng ý. “Rất hoan nghênh anh, thưa thám tử Bleichert. Chắc anh biết rằng tôi nhớ rất rõ và chi tiết những mốc thời gian và địa điểm đó là bởi vì vụ cô Short liên tục xuất hiện trên công luận. Vì vậy, xin anh hãy tin vào trí nhớ của tôi.”

Tôi lấy sổ tay và bút ra. “Ông kể đi.”

Roach bắt đầu kể: “Năm 1947 tôi tham gia bán thuốc ngoài luồng. Tôi bán chủ yếu ở các quán bar cho toán lính xa vợ. Chính vì vậy tôi gặp hạ sỹ Dulange. Tôi tiếp cận cậu ta nhưng Dulange nói chỉ thích rượu whisky Johnnie Walker đỏ của Scotland.”

“Ông gặp anh ta ở đâu?”

“Quán bar Yorkshire House, góc đường số 6 và đường Olive, gần phòng khám của tôi.”

“Tiếp tục đi.”

“Đó là hôm thứ Năm hoặc thứ Sáu gì đó trước khi xảy ra cái chết của cô Short. Tôi đã bất cẩn đưa cho Dulange tấm danh thiếp của tôi vì nghĩ rằng sẽ chẳng bao giờ gặp lại cậu ta, nhưng tôi đã sai.

“Đúng lúc đó tôi đang kẹt tiền nên phải ngủ lại phòng khám. Chập tối hôm Chủ nhật, ngày 12 tháng 1, hạ sỹ Dulange xuất hiện trước cửa phòng khám của tôi cùng với một cô gái khá xinh đẹp tên là Beth. Cậu ta đã say xỉn kéo tôi sang bên nhét vào tay tôi tờ mười đô la và nói rằng Beth rất thích có mang. Cậu ta nhờ tôi kiểm tra nhanh và thông báo với cô ấy tin đó.

“Tôi nhận lời. Dulange ngồi chờ ở phòng ngoài. Tôi kiểm tra huyết áp và bắt mạch cho Beth, sau đó nói với cô ấy đúng như vậy. Phản ứng của cô ấy rất lạ: vừa buồn vừa vui. Tôi đoán cô ấy muốn có cái gì đó làm bằng chứng cho thói lang chạ của mình và một đứa con có lẽ là lựa chọn tốt nhất.”

Tôi thở dài. “Và khi tin cô ấy bị giết lan ra, ông không đến trình báo cảnh sát vì ông sợ sẽ bị lộ tẩy chuyện bán thuốc chui?”

“Vâng, nhưng còn hơn thế. Beth xin gọi điện nhờ. Tôi đồng ý và cô ấy gọi cho ai đó ở Webster và xin được nói chuyện với Marcy. Cô ấy nói: ‘Betty đây,’ sau đó nghe một lúc rồi lại nói: ‘Vậy sao? Người có kiến thức về y học phải không?’ Tôi không nghe thấy phần còn lại của câu chuyện. Beth gác máy và nói: ‘Tôi có một cuộc hẹn.’ Cô ấy đi ra chỗ Dulange ngoài phòng chờ và hai người bỏ đi. Nhìn qua cửa sổ tôi thấy hai người chia tay nhau. Dulange biến mất còn Beth đi sang bên kia đường số 6 ngồi chờ ở bến xe buýt. Lúc đó khoảng 7 giờ 30, Chủ nhật, ngày 12. Chỉ có vậy thôi. Chuyện tiếp theo chắc anh biết rồi?”

Tôi ghi nốt mấy nội dung cần thiết. “Chưa, tôi chưa biết.”

“Anh sẽ nói với Ban quản lý là tôi cung cấp cho anh manh mối quan trọng chứ?”

Patchell mở cửa nói. “Đúng như thế, thưa anh Bleichert. Ông ấy trong sạch”

“Mẹ kiếp.” Tôi nói.

Lại một quãng thời gian nữa trong những ngày Betty mất tích được hé lộ; tôi quay lại khách sạn El Nido và lần này là để kiểm tra các số điện thoại bắt đầu bằng mã vùng ở Webster. Vừa tìm tôi vừa nhớ láng máng trong đầu số điện thoại nhà Sprague có mã ở Webster. Xe buýt đi Wilshire đi qua đường cách nhà họ có hai dãy nhà, và cái tên “Marcy” mà Roach nói kia có thể là anh ta nghe nhầm “Maddy” hoặc “Martha” gì đó. Nhưng thông tin này có vẻ không hợp lý - cả nhà họ đi Laguna vào tuần Betty mất tích, Roach nói có vẻ rất chắc chắn cái tên “Marcy” kia còn tôi thì đã moi hết tất cả những gì mà Madeleine biết về Thược dược rồi.

Nhưng ý nghĩ đó cứ quanh quẩn trong đầu như thôi thúc tôi muốn trả đũa thái độ hách dịch nhà họ. Tôi vẫn lật xem hồ sơ, suy nghĩ và bất chợt phát hiện ra: Khi Lee Blanchard mất tích, những tập hồ sơ đánh mã số “R”, “S”, “T” mất tích. Có thể hồ sơ về gia đình nhà Sprague nằm trong số đó.

Nhưng làm gì có file về gia đình nhà Sprague, Lee không hề biết gia đình nhà họ tồn tại, tôi giữ bí mật hoàn toàn chuyện quan hệ với Madeleine và việc nàng có mặt ở quán bar dành cho các lesbian kia.

Tôi xem hết lại một lượt hồ sơ, người vã mồ hôi. Không hề có đầu số khu Webster nào xuất hiện, và tôi bắt đầu cảm thấy hoảng hốt: Betty ngồi chờ xe buýt ở khu Wilshire lúc 7:30 tối ngày 12/01/1947, vẫy tay chào tạm biệt Bucky, chuẩn bị lao vào cõi vĩnh hằng. Tôi nghĩ đến việc điều tra bên xe buýt, hỏi thăm tất cả các tài xế lái xe trên tuyến đó, nhưng nếu có anh tài xế nào đó mà nhớ là đã cho Betty lên xe thì họ cũng phải lên tiếng khi nghe thấy tin loan trên các báo. Tôi lại nghĩ đến việc sẽ gọi nốt những số điện thoại mà tôi hỏi được bên công ty Pacific Coast Bell - nhưng cũng lại nhận ra họ chả liên quan gì đến nhau cả - những con số đó không giải thích cho tôi biết được là Betty đã ở đâu vào thời điểm đó. Tôi gọi điện về Đội cho Russ nhưng anh ấy vẫn ở Tucson còn Harry thì đã quay về kiểm soát đám đông ở khu Hollywoodland. Không hề có bất kỳ đầu số nào của khu vực Webster trong hồ sơ. Tôi nghĩ đến ý tưởng kiểm tra hồ sơ khám bệnh của bác sỹ Roach nhưng lại gạt bỏ ngay lập tức. Đây lại không phải là cuộc gọi trả tiền trước như các cuộc gọi thực hiện ở khu khách sạn Biltmore nên không có thông tin lưu lại.

Tôi chỉ còn thấy cảm giác xấu hổ bực bội: Phải từ bỏ, đầu hàng sao? Mình đã coi một người đàn bà tốt là con người đê tiện dâm ô, con người mình đã bị biến đổi rồi, những lời hứa khi kết thúc hiệp thi đấu thứ tám ở nhà thi đấu Academy rốt cuộc cũng chỉ là những lời hão huyền, sự sai lầm nhục nhã. Tạm biệt Betty, Beth, Betsy, Liz, tình bạn của chúng tôi chỉ là sự lừa dối, giá mà chúng ta đừng gặp nhau ở góc đường số 39 và đường Norton, có thể như thế sẽ tốt hơn, giá mà chúng tôi có thể chuộc lại được những sai lầm trong quá khứ.

Tôi đi xuống lấy xe bật còi hiệu và lao ra đường với hy vọng đèn và còi hiệu sẽ giúp tôi đi nhanh hơn. Qua đường Sunset và đường Vine, giao thông bắt đầu tắc nghẽn: cả đoàn xe đang quay lên phía Bắc ở ngã tư giữa đường Gower và Beachwood. Từ đằng xa tôi nhìn thấy tấm biển hiệu của khu Hollywoodland đã được bắc giàn giáo vây xung quanh, một nhóm người nhìn bé như con kiến đang leo lên đỉnh ngọn Mount Lee. Chính khoảng thời gian yên tĩnh chờ đợi này làm tôi bình tĩnh lại đôi chút và tôi tìm được chỗ cần đến.

Tôi tự động viên mình là mọi chuyện chưa phải đã hết, tôi sẽ lái xe đến văn phòng Đội và đợi Russ, với hai người chúng tôi sẽ lắp ghép lại mọi sự kiện, tất cả những tôi có thể làm lúc này chỉ là đi ra phố.

Giao thông mỗi lúc một tắc nghẽn thêm - những chiếc xe tải làm phim đang lao lên phía Bắc, các xe muốn đi sang hướng Tây và hướng Đông không hề nhúc nhích được chút nào. Trẻ con luồn lách qua các làn đường nhặt mảnh tấm biển khu Hollywoodland làm kỷ niệm và truyền tay nhau những lá truyền đơn. Tôi nghe có tiếng: “Keystone Kops ở nhà hát Admiral! Không khí rất mát mẻ! Hãy xem sự sống lại thần kỳ này!” Ai đó chìa một tờ báo vào xe tôi trên đó chỉ có mấy dòng chữ “Keystone Kops, Mack Sennett,” và “Nhà hát Admiral sang trọng có điều hòa không khí,” cùng với bức ảnh bên dưới in hình một người như đang la hét.

Hình ảnh Keystone Kops đứng giữa các cột lớn trông chả khác gì những con rắn cắn đuôi nhau, phía sau họ là một bức tường vẽ đầy các chữ tượng hình của Ai Cập. Một cô gái mới lớn nằm trên chiếc đivăng trải lông ở góc bên phải của bức tranh. Đúng là cảnh nền đã xuất hiện trong bộ phim khiêu dâm của Linda Martin/Betty Short.

Tôi cố kiềm chế để ngồi im, tự động viên mình rằng mặc dù Emmett Sprague biết Mark Sennett từ những năm 1920 và đã giúp ông ta xây rất nhiều nhà ở Edendale, điều đó không có nghĩa là ông ta có liên quan đến bộ phim khiêu dâm quay năm 1946 này. Linda Martin nói bộ phim đó được quay ở Tijuana, gã Duke Wellington còn giấu mặt kia thú nhận đã quay bộ phim này. Khi dòng xe bắt đầu di chuyển được một chút, tôi đánh lái tấp luôn xe vào mé đường bỏ ở đó. Khi tôi đến mua vé ở phòng bán vé rạp hát Admiral, cô gái bán vé giật mình ngạc nhiên và tôi nhận ra là người mình đã ướt đẫm mồ hôi, hơi thở phì phò.

Vào bên trong, điều hòa không khí làm tôi có cảm giác dễ chịu hơn nhưng quần áo thì lại lạnh như nước đá áp vào người. Danh sách các diễn viên xuất hiện trên màn hình, sau đó là những người phụ trách bộ phim. Tôi nhìn trừng trừng khi thấy cái tên “Emmett Sprague, trợ lý đạo diễn,” xuất hiện. Tôi cố nín thở chờ xem bộ phim được quay ở đâu. Lúc này đến phần lời giới thiệu mở đầu của bộ phim và tôi sẵn sàng đón xem.

Câu chuyện kể về Keystone Kops nhưng được thần thánh hóa, cảnh hành động đuổi nhau, ném bánh, đấu đá. Những hình ảnh trong bộ phim khiêu dâm xuất hiện một vài lần. Cánh quay ở bên ngoài nhìn giống cảnh ở khu Hollywood Hills, nhưng không có cảnh quay phối hợp trong ngoài để người xem phân biệt được cảnh đó được quay trong trường quay hay ở nhà riêng của ai đó. Tôi biết mình sẽ phải làm gì, nhưng vẫn muốn có thêm chi tiết để củng cố cho lập luận vững chắc thêm.

Bộ phim rất dài, tôi ngồi run rẩy vì quần áo lạnh ngấm vào người. Cuối cùng thì cũng xuất hiện dòng chữ “Quay ở Hollywood, U.S.A.,” ở cuối phim và những gì tôi còn phân vân đã được khẳng định.

Tôi ra khỏi nhà hát và lúc đó mới nhận thấy mình rời khách sạn El Nido mà không kịp mang theo khẩu 38 công vụ hoặc khẩu 45, tôi đi ngược trên vỉa hè quay lại khách sạn. Vừa về đến phòng thì có tiếng gọi: “Này anh bạn. Có phải anh là sỹ quan Bleichert không?”

Người thuê phòng cạnh tôi đang đứng ở hành lang, tay cầm ống nghe gọi. Tôi vội vàng lao đến giật ống nghe nói ngay. “Anh Russ phải không?”

“Harry đây. Tôi đang ở cuối đường Beachwood. Người ta đang tháo dỡ rất nhiều nhà và một cảnh sát tuần tra phát hiện ra một căn nhà tạm đầy vết máu. C…ó cả giấy giới thiệu đi điều tra địa bàn vào ngày 12 và ngày 13. T…tôi còn thấy…”

Emmett Sprague sở hữu ngôi nhà đó; và đó là lần đầu tiên tôi thấy Harry nói lắp vào buổi trưa. “Tôi sẽ mang thiết bị thu thập chứng cớ đến. Hai mươi phút nữa.”

Tôi gác máy, lấy bản tóm tắt về Betty Short trong tập hồ sơ và chạy xuống xe. Đường đã thông trở lại và từ xa tôi thấy hai chữ cuối cùng của tấm biển khu Hollywoodland đã bị tháo đi. Tôi rẽ sang phía Đông vào đường Bechwood và chạy thẳng lên phía Bắc. Vừa đến nơi tôi đã thấy một khu chăng dây thừng có cảnh sát đứng ngoài canh gác, tôi đậu xe cạnh một xe khác và thấy Harry Sears bước đến, phù hiệu gắn trên ngực áo khoác.

Hơi thở cậu ta nồng nặc mùi rượu nhưng không còn nói lắp nữa. “Lạy Chúa, may quá. Anh làm thuê này được giao giải tán bọn lang thang trước khi người ta phá ngôi nhà. Anh ta bước vào trong rồi ngay lập tức quay ra tìm tôi. Có thể bọn gái điếm có ra vào chỗ này từ năm 1947 đến nay nhưng tôi nghĩ cậu vẫn có thể lấy được dấu vân tay.”

Tôi cầm hộp dụng cụ và cùng Harry bước lên dốc đồi. Đám công nhân vẫn tiếp tục tháo những ngôi nhà ở mé bên kia đường Beachwood, bọn họ kêu ầm ĩ lên vì phát hiện ra gas bị rò rỉ. Xe cứu hỏa đậu ngay bên cạnh chĩa vòi rồng vào khu đổ nát. Máy ủi, máy xúc đậu nổi đuôi nhau ở mé đường, cảnh sát tuần tra đang giải tán người dân địa phương ra khỏi khu vực nguy hiểm. Ở phía trước mặt chúng tôi, một màn kịch vui đang diễn ra.

Một hệ thống ròng rọc được buộc từ đỉnh Mount Lee xuống cùng với hệ thống dàn dáo đỡ từ dưới lên. Chữ “A” trong tấm biển Hollywoodland cao tới năm mươi foot đang được đưa xuống trong khi các máy camera không ngừng quay, máy ảnh nháy liên tục còn các quan chức thì đứng uống champagne chúc mừng. Bụi bay tứ tung; ban nhạc của trường cấp ba Hollywood ngồi sẵn trên những chiếc ghế gập cách chân ròng rọc vài foot, và khi chữ “A” kia chạm xuống đất, họ lập tức nổi bài nhạc “Chúc mừng Hollywood.”

Harry nói: “Đi đường này.” Chúng tôi đi vào con con đường nhỏ đầy bụi đất dưới chân núi. Hai bên đường dày đặc các tán lá cây chìa cả vào lối đi. Harry đi trước dẫn đường, tôi theo sau, bụi cây bên đường quệt cả vào quần áo và mặt tôi. Leo được khoảng năm mươi yard thì đường đi thoai thoải chạy ngang sườn núi và chúng tôi thấy có một dòng nước nhỏ rất nông đang chảy. Cạnh đó là một ngôi nhà nhỏ xíu cửa mở toang.

Tôi bước vào. Tường hai bên dán đầy các bức ảnh khiêu dâm phụ nữ tàn tật. Những khuôn mặt đờ đẫn ngậm dương vật giả, những cô gái trẻ trần truồng da dẻ khô khan, hai chân giang rộng nằm nhìn thẳng vào ống kính với ánh mắt rất hung bạo. Dưới nền nhà là một tấm thảm vẫn còn từng lớp, từng lớp máu khô. Ruồi bọ nằm chết đầy trong đó. Mảng tường phía trong dán các bức ảnh màu như được cắt ra từ các tạp chí về phẫu thuật nào đó: Ảnh chụp cận cảnh các bộ phận cơ thể còn rỉ đầy máu, trên nền nhà có cả các vết máu bám thành từng giọt và các vết nhỏ li ti, cạnh chiếc thảm là một cây đèn ba chân có bóng chĩa xuống mặt thảm. Tôi phân vân không biết điện lấy từ đâu nên kiểm tra các thiết bị của cây đèn và phát hiện thấy có một hốc pin. Góc nhà có một chồng sách cũng dính đầy vết máu, chủ yếu là các tiểu thuyết khoa học viễn tưởng như Thuật giải phẫu tiên tiến của Gray, và cuốn Thằng cười của Victor Hugo.

“Bucky?”

Tôi quay lại. “Đi tìm Russ đi. Nói với anh ấy những gì chúng ta thấy ở đây. Tôi sẽ kiểm tra dấu vân tay.”

“Ngày mai Russ mới ở Tucson quay về. Nhưng anh bạn này, nhìn cậu không được khỏe đâu đấy…”

“Khỉ gió! Ra khỏi đây đi để tôi làm việc!”

Harry chạy ra ngoài, tôi nghĩ đến mối liên quan của nhà Sprague và ông George Tilden mơ mộng, gã ăn bám, con một nhà phẫu thuật nổi tiếng người Scotland. “Vậy sao? Người có kiến thức về y học?” Tôi mở hộp thiết bị và bắt đầu kiểm tra hiện trường và thu thập chứng cớ.

Tôi kiểm tra từ trên xuống dưới. Ngoài những vết bùn đất còn mới - chắc là vết chân của Harry, tôi còn phát hiện thấy có vết dây thừng nằm bên dưới tấm đệm. Tôi cẩn thận lấy những vết bám trông giống thịt người còn sót lại trên đó, dùng một túi nghiệm khác đựng số tóc dính trên tấm đệm. Tôi kiểm tra vết máu khô rất kỳ để phân biệt màu sắc nhưng tất cả đều có màu nâu đậm và tôi lưu lại khoảng chục mẫu khác nhau. Gạt mấy sợi dây thừng và mấy bức ảnh khiêu dâm bên dưới tấm đệm, tôi thấy có vết ủng của đàn ông hiện lên trên vết máu; tôi đo đạc và lấy mẫu lòng bàn chân vào một tờ giấy sạch.

Tiếp theo sẽ là công việc lấy dấu vân tay. Tôi rắc bột lên tất cả các chỗ tiếp xúc, những chỗ người ta thường sờ vào hoặc tỳ tay xuống, tôi rắc cả bột vào gáy và mấy trang đầu của những cuốn sách vứt trên sàn nhà. Trên các cuốn sách chỉ thấy hiện lên các vết sọc, những chỗ khác chỉ là vết bẩn, vết găng tay và hai nhóm dấu vân tay khác nhau. Xong đâu đó, tôi lấy bút khoanh tròn những con số trên cánh cửa, khung cửa, và trên tường. Tôi lấy kính lúp ra soi và vết dấu vân tay của Betty Short được phóng to lên đủ để so sánh.

Một điểm giống nhau; hai điểm; ba điểm - đủ để làm bằng chứng đưa ra tòa. Bốn, năm, sáu, và hai tay tôi run lẩy bẩy khi biết chắc đây là chỗ mà Thược dược đen bị hành hình. Tôi dùng dao lột cả máng cửa có bốn con số cho vào túi và lảo đảo bước ra ngoài. Tôi thấy chỗ rãnh nước chảy phía trước và biết tên giết người kia đã rửa xác cô ấy ở đâu. Tôi chú ý đến màu sắc khác lạ của mấy phiến đá nằm cạnh dòng nước.

Một chiếc gậy bóng chày, đầu đập bóng ố màu nâu đậm.

Tôi quay lại xe, trong đầu nghĩ đến cảnh Betty còn sống vui vẻ hạnh phúc và chuyện trò với những người sẽ không bao giờ lừa dối cô. Đi qua khu công viên, tôi ngước mắt lên và thấy tấm biển bây giờ chỉ còn là Hollywood; ban nhạc vẫn đang chơi. “Không việc nào giống việc biểu diễn.”

Tôi quay lại khu trung tâm. Phòng quản lý nhân sự và phòng quản lý di cư, nhập quốc tịch đã đóng cửa vì hết giờ làm. Tôi gọi cho phòng quản lý nhân khẩu hỏi thông tin về người có tên George Tilden sinh ra ở Scotland - và tôi biết phải đi xác minh dấu vân tay ngay lập tức. Tôi quyết định hoặc là phải tự đột nhập vào văn phòng hoặc là phải đút lót để được vào.

Nhớ ra ở cổng số ba có một người gác, tôi đi đến đó. Ông già nghe thấy tiếng tôi, nhận hai đô la và dẫn tôi vào tủ đựng hồ sơ. Tôi mở ngăn kéo có ghi dòng chữ: TÀI SẢN TỊCH BIÊN CỦA THÀNH PHỐ - NGOÀI GIỜ, tôi lấy kính lúp và miếng gỗ đã được rắc bột ra nín thở.

Tilden George Redmond, sinh ở Aberdeen, Scotland ngày 4/3/1896, cao 5,11 foot, nặng 185 pound, tóc nâu, mắt xanh. Không có địa chỉ, được coi là “người lưu lại ngắn ngày - có việc liên hệ qua E. Sprague, WE-4391.” Giấy phép lái xe do cảnh sát bang California cấp số #LA 68224, loại xe Ford sản xuất năm 1939, số đăng ký 6B119A, khu vực hoạt động vận chuyển rác từ Manchester đến Jefferson, từ khu Brea đến khu Hoover thuộc Los Angeles - góc đường số 39 và đường Norton nằm giữa khu vực này.

Dấu vân tay trái và phải ở cuối trang; một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín dấu khớp với dấu so sánh - ba dấu đủ để kết tội, sáu dấu còn lại để đưa hắn đến thẳng phòng đầu độc bằng khí gas. Xin chào Elizabeth nhé.

Tôi đóng ngăn kéo và cho thêm ông bảo vệ mười đô la nữa để ông ta giữ im lặng. Tôi thu thập tất cả các chứng cớ và bước ra ngoài, lúc đó đúng 8:10 tối, thứ Tư ngày 29/06/1949, buổi tối mà anh cảnh sát quèn phá được vụ án giết người nổi tiếng nhất trong lịch sử bang California. Tôi cúi xuống sờ lên mấy ngọn cỏ trên đường xem cảm giác có gì khác không, vẫy tay chào các nhân viên văn phòng đi qua mình và tưởng tượng ra hình ảnh tôi báo cáo toàn bộ sự việc với Thad Green và cảnh sát trưởng Horrall. Tôi thấy mình được quay lại trung tâm Sở làm việc và chức thượng úy kia chỉ một năm nữa là đến tay, chàng Nước đá đã vượt quá cả sự mong đợi của chàng Lửa và bản thân chàng Nước đá lúc đầu. Tôi thấy tên mình lại xuất hiện trên trang đầu của các báo và Kay bước đến với tôi; gia đình nhà Sprague bị kiệt quệ và tủi hổ vì liên quan đến vụ án, tất cả số tiền của họ trở nên vô nghĩa. Và nghĩ đến gia đình họ làm tôi giật mình: Tôi sẽ không thể che dấu được sự thực là tôi đã che dấu chứng cớ về Madeleine năm 1947. Có thể đây sẽ là một vinh quang lớn hoặc cũng có thể là tai họa đối với tôi. Thậm chí tôi có thể bị truy tố.

Tôi đi đến khu công viên Hancock. Chiếc Cadillac của Ramona và chiếc Lincoln của Martha không còn trong lối đi và chỉ còn chiếc Chrysler của Emmett và chiếc Packard của Madeleine. Tôi đậu chiếc Chevy xoàng xĩnh của mình bên cạnh hai chiếc xe nhà họ, bánh xe sau của tôi chớm ra mép vườn lún xuống luống hoa hồng nhà họ. Cửa trước nhà họ đóng kín mít nhưng một cửa sổ mé bên thì vẫn mở. Tôi nhảy qua đó vào phòng khách.

Con chó Balto vẫn nằm đó bên cạnh lò sưởi bảo vệ mấy hộp gì đó đã đóng sẵn để dưới nền nhà. Tôi kiểm tra và thấy bên trong đã nhét đầy quần áo, đồ bạc và những loại đồ bằng ngà rất quý của Trung Quốc. Một hộp khác nằm trong cùng xếp đầy các loại váy đi dự tiệc, sự việc rất không bình thường. Giá vẽ dựng trong góc trên đó, còn một bức vẽ khuôn mặt rất nhiều phụ nữ. Tôi đang nghĩ đến cô nàng họa sỹ Martha thì có tiếng trên lầu.

Tôi bước lên, khẩu 45 cầm sẵn trong tay, khẩu tự động 38 nằm ép sát trong thắt lưng. Tiếng thì thầm phát ra từ phòng ngủ: Giọng nói đầy âm “r” của Emmett và tiếng bĩu môi hờn dỗi của Madeleine. Tôi đứng nép sát người vào hành lang cúi thấp người lắng nghe.

“… ngoài ra, một quản đốc còn nói những đường ống khốn kiếp kia cũng bị rò gas rồi. Sẽ mất rất nhiều tiền con ạ. Không chỉ là những vi phạm về an toàn và sức khỏe đâu. Đã đến lúc bố buộc phải đưa ba mẹ con con về Scotland rồi và để cho ông bạn Do Thái Mickey C. của cha thể hiện khả năng quan hệ của mình. Ông ấy sẽ đổ lỗi tất cả sang cho Mack hay đám người ủng hộ cánh tả kia, hoặc bất kỳ người nào đó có thể, bố tin là ông ấy sẽ làm được. Khi mọi việc êm xuôi chúng ta sẽ quay lại đây.”

“Nhưng con không muốn đến châu Âu. Trời ơi, Scotland. Con chưa bao giờ thấy bố nói chuyện về nơi đó mà không thể hiện thái độ kinh tởm.”

“Có phải con nhớ anh chàng nhiều răng kia không? A, đúng rồi. Vậy thì để bố làm cho trái tim con được thanh thản nghỉ ngơi nhé. Thành phố Aberdeen không thiếu những anh chàng chất phác khỏe mạnh, vạm vỡ còn hơn anh chàng kia nhiều. Bố đảm bảo với con là con sẽ không thiếu những con người như vậy. Chuyện chúng ta tìm đến Bleichert xảy ra lâu rồi, bây giờ con níu kéo anh ta chỉ gây nguy hiểm thôi. Thậm chí có thể dính dáng đến pháp luật.”

“Ôi, bố. Con không…”

Tôi bước vào phòng. Madeleine đang nằm trên chiếc giường lớn có trướng bên trên đầu gối trên lòng cha, còn Emmett thì đang vỗ về cô con gái. Ông bố nhận ra tôi trước tiên, Madeleine nhỏm dậy khi không thấy cha vỗ về nữa. Thấy tôi cô nàng giật mình thét lên.

Emmett vội vàng bịt miệng cô con gái lại. Ông ta nói: “Đây không phải hành động bất chính, anh chàng ạ. Đó là tình cảm bố con và chúng tôi có quyền làm như vậy.”

Vẫn giọng nói đặc sệt như khi ngồi ăn tối mấy năm trước. Tôi nói rất bình thản: “George Tilden giết Elizabeth Short. Vào ngày 12 tháng 1 cô ấy gọi điện đến đây và một người trong gia đình ông sắp xếp cho cô ấy gặp George. Cô ấy tự đi xe buýt đến Wilshire gặp ông ta. Bây giờ thì ông nói nốt phần còn lại đi.”

Madeleine trợn tròn mắt run rẩy trong tay cha mình. Emmett nhìn chằm chằm khẩu súng đang chĩa vào mình. “Tôi không phủ nhận điều đó và tôi cũng không muốn cản trở anh thực thi pháp luật. Anh có muốn tôi chỉ cho anh chỗ tìm George không?”

“Không, trước tiên tôi muốn ông nói về hai người, sau đó là sự sắp đặt của ông.”

“Không phải như vậy. Tôi sẽ chúc mừng thành công của cậu, sẽ nói cho cậu biết George hiện đang ở đâu và chúng ta cứ để mọi chuyện dừng lại ở đó. Không ai trong chúng ta muốn Maddy bị tổn thương và động chạm đến những chuyện nghiêm trọng trong gia đình sẽ tác động tiêu cực tới nó.”

Như để chứng minh cho lời nói của mình, Emmett thả tay bịt miệng Madeleine. Cô nàng lau vết son hoen trên má và thì thầm. “Bố, ngăn anh ta lại đi.”

Tôi nói: “Có phải bố cô sai cô làm tình với tôi không? Có phải bố cô sai cô mời tôi đến ăn tối để tôi không để ý đến chứng cớ ngoại phạm của gia đình cô không? Có phải cô nghĩ chút thái độ thân thiện và vài lần tình tự sẽ giũ bỏ được mọi thứ cho cô không? Có phải…”

“Bố ngăn anh ta lại đi!”

Đôi tay rắn chắc của Emmett lại giơ ra và Madeleine chúi vào đó. Gã Scotland lại tiếp tục dụ dỗ. “Hãy bình tĩnh để chúng ta cùng nói chuyện nào. Cậu hãy quên chuyện gia đình nhà Sprague này đi. Cậu muốn gì?”

Tôi nhìn quanh phòng ngủ nhà họ và nhận ra những tấm thẻ ghi tên và địa chỉ mà có lần Madeleine đã khoe với tôi. Bức tranh sơn dầu của Picasso trị giá 120 ngàn đô la treo phía trong. Hai bình hoa cổ thời nhà Minh ở Trung Quốc, mỗi chiếc trị giá 70 ngàn đô la đặt trên chiếc tủ gương nhỏ. Bức họa kiệt tác của Hà Lan trị giá 200 ngàn đô la treo trên đầu giường; bức tượng cổ thời tiền Colombus theo phong cách điêu khắc Gô-tích trị giá 12.500 đô la đặt trên chiếc bàn kê cạnh giường.

Emmett mỉm cười. “Cậu thích những thứ đẹp. Tôi trân trọng điều đó. Tất cả những thứ này sẽ là của cậu. Cậu thích gì cứ nói.”

Tôi bắn bức họa của Picasso trước. Khẩu 45 của tôi chỉ suýt lên một tiếng và bức tranh rách làm đôi. Mục tiêu tiếp theo là hai chiếc bình cổ thời nhà Minh, tiếng mảnh vở rơi loảng xoảng trên sàn nhà. Phát thứ ba tôi bắn trượt bức tượng Gô-tích nhưng chiếc gương khung bằng vàng phía sau phải trả giá. Tôi chĩa súng sang bức họa của Rembrandt hay Titian gì đó. Viên đạn làm rách toác một lỗ trên bức tranh cùng với mảng tường phía sau. Khung tranh rơi vào vai Emmett, khẩu súng nóng ran trong tay nhưng tôi vẫn cố nắm chặt.

Mùi thuốc súng, khói và nhựa cháy mù mịt trong phòng. Bốn trăm ngàn đô la tan thành từng mảnh. Hai cha con nhà Sprague vẫn quấn lấy nhau trên giường. Emmett không chịu nổi, một tay vẫn ôm Madeleine một tay dụi mắt nhìn tôi.

Tôi chĩa súng vào đầu ông ta. “Ông, George và Betty. Nói ngay nếu không tôi sẽ phá nát ngôi nhà này.”

Emmett ho và vuốt mái tóc lơ thơ của Madeleine. Tôi nói: “Ông và cô con gái của ông.”

Cô gái kiêu ngạo của tôi bây giờ mới ngước mắt nhìn lên. Cô nàng không còn khóc nữa, vết son và vết bẩn dính đầy mặt. “Bố không phải bố thật của em và cũng chưa bao giờ… chuyện đó không sai.”

Tôi quát: “Người đó là ai?”

Emmett quay lại nhẹ nhàng đẩy tay súng tôi sang bên. Ông ta không tỏ thái độ giận dữ cũng không thất vọng mà đó là vẻ mặt của một thương gia đang chuẩn bị đàm phán cho một hợp đồng khó khăn. “Ông George mơ mộng kia mới là bố thật của Maddy, Ramona là mẹ cô ấy. Anh có muốn nghe chi tiết hay như thế là đủ rồi?”

Tôi ngồi xuống chiếc ghế thêu kim tuyến cách họ vài foot. “Nói toàn bộ câu chuyện đi và ông nên nhớ rằng nói dối tôi sẽ phát hiện ra.”

Emmett đứng dậy xốc lại quần áo nhìn căn phòng có vẻ tiếc nuối. Madeleine đi vào phòng tắm và một lát sau tôi thấy có tiếng nước xối. Emmett ngồi cạnh giường, hai tay bó đầu gối đúng phong cách hai người đàn ông chuẩn bị nói chuyện với nhau. Tôi biết ông ta nghĩ có thể thoát tội khi nói ra những gì mình muốn, và tôi cũng biết tôi có thể bắt ông ta nói hết sự thực cho dù đó là chuyện gì.

“Giữa những năm 1920, Ramona muốn có con. Tôi thì không muốn vì lúc đó thực sự tôi không muốn bị vướng bận chuyện con cái. Một đêm tôi bị say và thầm nghĩ: ‘Mẹ mày muốn có con, tôi sẽ cho mẹ mày một đứa giống hệt