← Quay lại trang sách

Chương 34

Tôi xin nghỉ ốm một tuần và ở lì trong khách sạn El Nido. Suốt ngày tôi nghe nhạc jazz, cố không nghĩ đến tương lai của mình, tôi đọc đi đọc lại tập hồ sơ mặc dù biết rằng vụ án đã kết thúc. Hình ảnh cô bé Martha Sprague trẻ con, Lee và đôi khi cả bức tranh trong phòng khách nhà bà Jane tìm đến tôi trong những giấc mơ.

Tôi mua tất cả các số báo của Los Angeles ra hàng ngày và đọc từ đầu đến cuối. Vụ rắc rối đất đai đã lắng xuống nhưng không hề thấy đả động gì đến cái tên Emmett Sprague. Toà án tiến hành điều tra những ngôi nhà có sai phạm trong xây dựng và tôi cảm thấy có gì đó khuất tất trong chuyện này.

Tôi ngồi hàng giờ nhìn bốn bức tường, trong đầu không hề nghĩ đến chuyện gì nhưng cuối cùng tôi cũng phát hiện ra. Tôi có linh cảm mập mờ rằng Emmett Sprague lợi dụng tôi và Lee để giết George Tilden. Với tôi ông ta nói rất thẳng thắn: “Tôi sẽ cho cậu biết George đang ở đâu.” - hoàn toàn đúng với tính cách của ông ta, tôi sẽ càng nghi ngờ nếu ông ta vòng vo. Ông ta cho Lee biết George là kẻ giết người ngay sau khi bị Lee cho ăn đòn. Có phải ông ta muốn trút hết cơn giận dữ của Lee sang kẻ giết Thược dược kia? Có phải ông ta biết những thứ mà George ăn trộm về kia và muốn chúng tôi phát điên lên mà giết hắn? Có phải ông ta muốn mượn thân xác George gây thêm mâu thuẫn để hoặc là bản thân ông ta hoặc là hai anh chàng cảnh sát một tham lam, một phiền phức kia phải trả giá? Tại sao như vậy? Ông ta muốn tự bảo vệ mình bằng cách đó?

Nhưng còn một vấn đề: Liệu Emmett có cả gan đến mức khó hiểu như vậy? Ông ta không phải con người liều mạng.

Với việc George Tilden - kẻ giết Thược dược đen bị phát hiện - chả còn lý do gì mà theo đuổi ông ta. Nhưng tôi vẫn linh cảm có điều gì đó còn mờ ám đằng sau những tình tiết đó.

Lần đầu tiên gặp Madeleine năm 1947 cô ta nói để lại rất nhiều lời nhắn cho Betty Short ở các quán bar: “Người giống cô muốn gặp cô.” Tôi nói việc làm đó có thể sẽ gây tác hại cho cô ta và Madeleine nói: “Em sẽ để ý đến chuyện đó.”

Nhưng có vẻ như người duy nhất “để ý” lại là một cảnh sát - tôi thì không. Và, rất đúng trình tự thời gian, Madeleine tiết lộ chuyện đó vào thời điểm lần đầu tiên Lee tống tiền nhà họ.

Giả thuyết rất mập mờ, ngẫu nhiên. Có thể chỉ là lời nói dối, hoặc cô ta chỉ tiết lộ một nửa sự thực, hoặc thậm chí đưa ra những thông tin vô bổ. Giả thuyết mập mờ được một cảnh sát vừa thoát khỏi cơn đói khát đưa ra trong khi bản thân anh ta sống trong vô vàn những lời nói dối. Đó là lý do duy nhất tôi có thể bám vào để đuổi theo bóng ma vô hình kia, không theo đuổi vụ này tôi chả còn gì để làm.

Tôi dành trọn ba ngày ba đêm mượn xe tuần tra của Harry Sears đi theo dõi hoạt động của các thành viên gia đình Sprague. Ngày nào Martha cũng đi làm rồi về nhà; Ramona ở lì trong nhà; Emmett cùng với Madeleine đi mua sắm và lang thang cùng nhau. Hai hôm đầu cả bốn người đều về nhà buổi tối, nhưng đến tối thứ ba thì Madeleine lại đóng giả Thược dược đen lẻn đi.

Tôi theo cô ta đến quán bar Zimba Room trên đường số 8, xem cô ta đàn đúm với một toán thủy thủ và sau đó đến nhà trọ Irolo tình tự với một tên lính thủy. Lần này thì tôi không còn cảm giác ghen tức, cũng không thấy ham muốn tình dục với cô ta nữa. Tôi ngồi ở phòng số 12 nghe nhạc, tấm cửa chớp lật đóng xuống và tôi không nhìn thấy gì nữa. Hai giờ sáng Madeleine mới từ giã gã nhân tình về nhà. Một lúc sau thì đèn trong phòng ngủ của Emmett bật sáng.

Hôm sau, khi trời vừa tối hẳn tôi lại xuất hiện trên đường Muirfield. Vừa bước ra khỏi xe định thả bộ cho thoáng đãng thì có tiếng gọi. “Bucky, có phải cậu không?”

Bà Jane Chambers đang dắt con chó giống xpanhlon[75] đi vệ sinh. Tôi lúng túng như đứa trẻ bị bắt quả tang ăn vụng. “Chào cô Jane.”

“Chào cậu. Cậu đang làm gì ở đây? Theo dõi hay chờ đón cô nàng Madeleine?”

Tôi nhớ lại câu chuyện đã có lần ngồi nói với bà ta về gia đình nhà Sprague. “Cháu muốn đi dạo một lát cho thoáng đãng. Như thế có được không?”

“Không giấu được tôi đâu. Cậu có muốn qua nhà tôi uống nước không?”

Tôi quay nhìn sang ngôi nhà nguy nga xây theo phong cách kiến trúc Tudor; bà Jane hỏi: “Cậu có chuyện gì quan tâm đến nhà Sprague phải không?”

Tôi cười và chợt thấy vết thương trên vai đau nhói. “Cậu biết nhà tôi rồi. Chúng ta về uống nước đi.”

Chúng tôi cùng đi sang đường số 6. Bà Jane tháo xích cho con chó, nó chạy tung tăng lúc trên vỉa hè lúc dưới lòng đường về thẳng ngôi nhà của gia đình nhà Chambers. Bà Jane mở cửa và tôi lại gặp hình ảnh trong những cơn mơ của mình - điệu cười ngoác đến mang tai của anh hề.

Tôi so vai. “Bức tranh khỉ gió.”

“Tôi gói nó lại cho cậu nhé?”

“Không, xin đừng.”

“Sau buổi nói chuyện với cậu tôi mới tìm hiểu nguồn gốc của nó. Tôi đã từ bỏ rất nhiều những đồ vật mà ông Eldridge để lại và tôi đang tính sẽ tặng bức tranh này cho tổ chức từ thiện nhưng nó quý quá. Nó là bức tranh nguyên bản của Frederick Yannantuono và chính nó là nguồn cảm hứng cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Thằng cười của Victor Hugo. Cuốn sách nói về…”

Có một cuốn Thằng cười trong căn nhà nơi Betty short bị giết. Tôi mãi nghĩ nên không nghe thấy bà Jane nói gì.

“… một nhóm người Tây Ban Nha từ thế kỷ thứ 15 và 16. Bọn chúng được gọi là Comprachico[76] chuyên bắt cóc và tra tấn trẻ con, sau đó rạch mặt chúng bán cho bọn quý tộc làm trò cười. Cậu thấy có ghê tởm không? Thằng hề trong bức tranh là nhân vật chính của cuốn sách tên là Gwynplain. Từ khi còn nhỏ nó đã bị rạch miệng đến tận mang tai rồi. Bucky, cậu có sao không?”

Rạch miệng đến tận mang tai.

Tôi lại so vai và cố mỉm cười. “Cháu không sao. Cuốn sách gợi cháu nhớ đến điều gì đó. Có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.”

Bà Jane nhìn tôi dò xét. “Nhìn cậu không ổn đâu. Và cậu có muốn nghe một sự trùng hợp ngẫu nhiên khác không? Eldridge không nói với bất kỳ ai trong nhà nhưng tôi tìm được hoá đơn. Chính Emmett Sprague đã bán bức tranh này cho ông ấy.”

Tôi có cảm giác như Gwynplain đang nhổ máu vào người mình. Và Jane nắm tay tôi hỏi. “Bucky, có chuyện gì vậy?”

“Cô nói chồng cô mua bức tranh đó hai năm trước đúng vào dịp sinh nhật phải không?”

“Đúng. Có gì…”

“Năm 1947 phải không?”

“Đúng. Bucky có gì…”

“Sinh nhật cô vào ngày nào?”

“15 tháng 1.”

“Cô cho cháu xem hoá đơn.”

Bà Jane lật tìm đống giấy tờ trên chiếc bàn kê cuối phòng không giấu được vẻ ngạc nhiên. Tôi nhìn Gwynplain và liên tưởng tới nụ cười của Betty Short. “Đây. Bây giờ thì cậu có thể cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra rồi chứ?”

Tôi cầm mẩu giấy màu đỏ tía có nét chữ như đàn ông. Nhận của Eldridge Chambers 35.000 đô la tiền bán bức tranh của Frederick Yannantuono: “Thằng cười”. Hoá đơn này chứng tỏ quyền sở hữu của ông Chambers. Ramona Cathcart Sprague, 15 tháng 1 năm 1947.

Nét chữ này giống hệt nét chữ mà tôi đọc được trong cuốn nhật ký trước khi giết George Tilden.

Ramona Sprague giết Elizabeth Short.

Tôi ôm chặt bà Jane và vội vàng bỏ đi trong sự ngạc nhiên sửng sờ của bà. Tôi quay lại xe và tiếp tục theo dõi ngôi nhà, đèn bật lên rồi lại tắt đi. Người tôi vã mồ hôi khi tái hiện lại: Ramona và George cùng tra tấn sau đó từng người cắt, xé lấy nội tạng, dùng hai xe đi đến khu Leimert Park. Tôi nghĩ đến tất cả những khả năng có thể, chắp lại từng đoạn ngắn các sự kiện. Nhưng tôi sẽ làm gì khi đối mặt với một mình Ramona?

8:19 Martha xuất hiện ở cửa chính tay cầm một tập giấy vẽ đi về hướng Đông trên chiếc Chysler.

10:37 Madeleine tay xách vali lên chiếc Packard, Emmett đứng ở cửa vẫy chào tạm biệt.

Tôi quyết định sẽ chờ thêm một tiếng nữa, hy vọng sẽ đến lượt ông ta rời đi hoặc nếu không sẽ gặp cả hai vợ chồng ông ta. Sau mười hai giờ ông ta đi ra, trên xe vọng ra tiếng nhạc opera.

Cả tháng trời ra vào ngôi nhà này giúp tôi nắm rõ quy luật hoạt động của những người giúp việc. Hôm nay, thứ Ba, người trông coi nhà và người làm vườn vắng mặt; đầu bếp thì phải 4:30 mới đến nấu nướng. Madeleine mang theo vali có nghĩa là cô ta sẽ ra đi trong một thời gian khá dài; Martha thì phải 6:00 mới về, chỉ còn duy nhất Emmett là tôi không nắm được quy luật.

Tôi bước sang đường quan sát. Cửa trước khoá, cửa sổ hai bên đều cài then. Hoặc là rung chuông hoặc là đột nhập vào.

Đúng lúc đó tôi thấy có tiếng động phía bên trong cửa và một bóng trắng lờ mờ đi ra phòng khách. Vài giây sau tiếng mở cửa trước vọng xuống lối đi và tôi đi lên.

Ramona đứng ở ngưỡng cửa mặc chiếc váy dài bằng tơ trắng không hề thêu hoa văn, tóc rối bời, vẻ mặt bơ phờ có lẽ vì khóc và mất ngủ. Cặp mắt nâu đen - giống màu mắt tôi - nhìn có vẻ rất cảnh giác, thận trọng. Bà ta chĩa khẩu tự động phụ nữ thường dùng vào người tôi và nói. “Chính cậu xui Martha rời bỏ tôi.”

Tôi đập vào tay bà ta và khẩu súng rơi xuống tấm thảm trải nền. Ramona bặm môi, ánh mắt thất thần. Tôi nói: “Martha đáng được đối xử tốt hơn kẻ giết người.”

Ramona xoa tay vào váy rồi đưa lên vò đầu, phản ứng đặc trưng của một kẻ nghiệm ma túy. Giọng bà ta lạnh lùng như tất cả các thành viên khác trong gia đình nhà Sprague. “Cậu không bảo nó làm thế thật chứ?”

Tôi nhặt khẩu súng đút vào túi và nhìn bà ta. Mấy chục năm trời nghiện ma tuý nhưng ánh mắt bà ta vẫn đen. “Bà không định nói với tôi là Martha không biết những việc bà làm đấy chứ?”

Ramona đứng sang bên có ý tránh đường cho tôi vào. “Emmett nói với tôi mọi chuyện đã êm. Cậu sẽ chỉ quan tâm đến George và sẽ không dám đến đây nữa. Martha nói với Emmett cậu sẽ không động đến chúng tôi nữa và ông ta cũng nói như vậy. Tôi tin Emmett, trong công việc lúc nào ông ấy cũng chính xác.”

Tôi bước vào. Trừ những thùng đồ đã đóng gói để trên nền nhà, căn phòng không hề có sự thay đổi nào. “Emmett mách chỗ cho tôi tìm George và bà không nghĩ là Martha biết bà giết Betty Short?”

Ramona đóng chặt cửa. “Đúng. Emmett muốn hướng sự chú ý của cậu sang George. Ông ấy tin chắc rằng cậu sẽ không biết đến sự dính líu của tôi. Emmett là thằng hèn, cậu biết rồi đấy. Ông ta không đủ can đảm làm chuyện đó nên gạt sang cho tôi. Lạy chúa, thực sự cậu có cho rằng Martha biết tôi làm chuyện đó không?”

Mụ giết người dã man sợ tôi sẽ phá hủy hình ảnh người mẹ của mụ ta. “Không sớm thì muộn cô ấy cũng phát hiện ra. Buổi tối hôm đó cô ấy có mặt ở đây và nhìn thấy George đi cùng Betty.”

“Martha đi thăm bạn khoảng một giờ sau đó. Tuần tới nó lại đi. Emmett và Maddy thì biết nhưng nó thì không. Lạy Chúa, nó không thể biết được.”

“Bà Sprague, bà có biết mình đã làm…”

“Tôi không phải là bà Sprague. Tôi là Ramona Upshaw Cathcart. Cậu không được nói với Martha những gì tôi đã làm nếu không nó sẽ bỏ tôi! Nó nói muốn có một căn hộ riêng và tôi thì không còn sống được bao lâu nữa!”

Tôi quay lưng bước đi quanh phòng, phân vân không biết phải làm gì. Tôi nhìn những bức tranh treo trên tường: Các thế hệ nhà Sprague, Cathcart đứng trước một khu vườn cam và mấy lô đất trống chuẩn bị xây dựng cắt băng khánh thành. Có cả ảnh cô bé Ramona hồi còn bé mặc chiếc coóc-xê bó đến nghẽn cả mạch máu. Emmett xoa đầu một đứa bé tóc đen vẻ mặt rất rạng rỡ. Ramona mắt xám thì trao cho một đứa bé khác bộ đồ chơi. Mack Sennett và Emmett trao sừng cho nhau tượng trưng cho việc mình bị cắm sừng. Trong cùng là bức ảnh George Tilden còn trẻ - khá đẹp trai, mặt không có vết sẹo nào.

Tôi thấy Ramona đến đứng phía sau run rẩy. Không cần quay lại, tôi nói. “Bà nói hết đi. Giải thích tại sao.”

Ramona ngồi xuống chiếc đivăng nói liền ba tiếng, giọng bà ta có lúc tức giận, có lúc điên cuồng đằng đằng sát khí, tay liên tục mân mê mấy bức tượng bằng sứ để trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh. Tôi ngồi nhìn những bức tranh trên tường - sự tái hiện lịch sử của gia đình này.

Bà ta gặp George và Emmett năm 1921 khi hai người di cư sang Hollywood. Bà ta căm ghét Emmett vì đối xử với George như kẻ tôi tớ và căm ghét chính mình vì không dám nói ra điều đó. Bà ta nói Emmett muốn cưới bà ta để được hưởng số tài sản ông bố để lại - Ramona biết ông chồng là người có triển vọng.

Emmett chính thức cầu hôn và Ramona nhận lời cưới chàng thầu khoán bất động sản trẻ đầy tham vọng, nhưng cũng từ cuộc hôn nhân đó mà bà ta dần dẫn căm ghét Emmett và ngấm ngầm theo dõi về ông ta.

George sống ở căn hộ tầng hai vào năm đầu khi họ cưới nhau. Ramona biết George thích sờ mó xác chết nhưng Emmett thì kịch liệt phản đối hành động này. Ramona đầu độc những con mèo đột nhập vườn nhà bà ta và giao xác cho George. Khi Emmett không muốn có con, bà ta tìm đến dụ dỗ George, hứa với George sẽ cho hắn cả người sống.

Bọn họ quan hệ không thường xuyên lắm nhưng vẫn có con - đó chính là Madeleine. Kể từ đó Ramona sống trong hoảng loạn và phải dùng đến thuốc phiện theo chỉ định của bác sỹ. Hai năm sau thì Martha ra đời và là sản phẩm của Emmett. Việc làm đó như sự phản bội với George và bà ta lại đầu độc động vật mang đến cho hắn. Có lần Emmett bắt quả tang Ramona làm chuyện đó và đánh đập thậm tệ vì tội đồng loã với hành động “bảo quản” của George.

Khi Ramona nói với George chuyện này, hắn xui bà ta tái hiện lại hành động hèn hạ của Emmett trong chiến tranh bằng những hoạt cảnh lịch sử. Ramona lợi dụng bọn trẻ con dựng lên những hành động rất khéo léo để Emmett không nhận ra mình bị bôi xấu.

Madeleine rất gần gũi với Emmett và Emmett yêu say đắm cô bé xinh đẹp này. Martha dần dần về phe với mẹ mặc dù chính cô ta mới là giọt máu cha Emmett. Emmett và Madeleine thường chê bai Martha là cô bé béo ị hay khóc nhè, còn Ramona thì đứng ra bảo vệ, dạy cô bé vẽ và mỗi lúc đêm về lại dỗ dành Martha không được ghét bố và chị. Ramona chỉ còn biết sống để bảo vệ Martha và dìu dắt cô bé trên con đường hội hoạ.

Khi Madeleine 11 tuổi, Emmett thấy cô bé rất giống George và rạch mặt hắn để người ngoài không nhận ra. Cũng từ đó Ramona yêu George thực sự và George ngày càng bị bóc lột thậm tệ về thể xác - bà ta cảm thấy giữa họ có sự đồng cảm.

Ramona chủ động gần gũi nhưng George khước từ. Tình cờ bà ta đọc tác phẩm Thằng cười của Hugo và cảm thông với cả bọn Camprachicos lẫn nạn nhân của bọn chúng. Ramona mua bức hoạ của Yannantuono và lén lút lấy ra ngắm nhìn, coi đó là sự hiện thân của George.

Khi Madeleine đến tuổi dậy thì, cô nàng chẳng thèm ý tứ, nói hết những điều thầm kín với Emmett, và hai người thường xuyên âu yếm nhau trên giường. Martha vẽ những bức tranh tục tĩu về cô chị gái đáng ghét. Ramona bắt cô bé phải vẽ những bức tranh phong cảnh để tránh phiền phức. Để bôi xấu Emmett, bà ta dựng lên những vở hoạt cảnh dài ngấm ngầm phản ánh thói hèn nhát, tham lam của chồng, bêu riếu sự gian lận của Emmett trong vụ sập nhà năm 1933, cho trẻ con mặc áo lính Đức để tái hiện hành động hèn hạ của Emmett trong chiến tranh. Hàng xóm thấy hành động của bà ta thái quá nên cấm con mình chơi với bọn trẻ nhà Sprague. Cũng vào khoảng thời gian đó, George bị tách ra khỏi đời sống nhà họ, chỉ được làm vườn, chở rác và sống trong những căn nhà bỏ không của Emmett.

Thời gian trôi đi, Ramona chỉ còn chú ý chăm sóc Martha, ép cô bé phải học xong cấp ba sớm và đóng tiền cho Học viện nghệ thuật Otis để Martha được hậu đãi. Martha tỏ ra rất xuất sắc ở đây. Ramona rất vui với thành công của mình, cảm thấy được động viên an ủi và lại nghĩ đến George, muốn được gần gũi, tình tự với hắn.

Giữa năm 1946, George quay lại. Ramona biết được là George hăm doạ bắt Emmett phải giao cô gái trong cuốn phim khiêu dâm cho hắn ta nếu không hắn sẽ nói ra hết những hành động bẩn thỉu của gia đình họ cả trong quá khứ lẫn hiện tại.

Ramona vừa ghen vừa ghét “cô gái đó” và khi Elizabeth Short xuất hiện trong nhà họ vào ngày 12 tháng 1 năm 1947, cơn điên của bà ta bùng phát. “Cô gái đó” giống Madeleine như đúc khiến Ramona coi đó là trò chế nhạo hiểm độc. Khi Elizabeth cùng George đi ra, Ramona thấy Martha đang bận chuẩn bị đồ đạc để ngày hôm sau đi thăm bạn, bà ta để mẩu giấy trên cửa tạm biệt cô con gái yêu, nói dối là đi ngủ. Ramona sang phòng Emmett vặn hỏi George cùng cô gái kia đi đâu.

Emmett nói có nghe George nhắc đến căn nhà bỏ không của ông ta ở Beachwood. Ramona lẻn ra cửa sau lấy chiếc Packard còn thừa đi tắt ra khu Hollywood đứng chờ. Vài phút sau thì George cùng cô gái kia đến khu chân núi Mount Lee và Ramona đi bộ theo họ lên căn nhà tạm trong rừng. Hai người đi vào trong bật đèn. Ánh sáng hắt ra ngoài soi vào vật gì đó bằng gỗ dựng vào thân cây - chiếc gậy bóng chày. Khi nghe tiếng cô gái cười khúc khích: “Có phải anh bị những vết sẹo đó trong chiến tranh không?” bà ta đi vào và chiếc gậy bóng chày vung lên.

Elizabeth cố chạy nhưng không được. Ramona bắt George trói cô ấy xuống đệm, đặt banh vào miệng. Ramona hứa sẽ cho George nội tạng của cô gái để bảo quản. Mụ ta lấy bản sao cuốn Thằng cười trong túi ra đọc to và thỉnh thoảng lại liếc nhìn cô gái đang bị trói trên đệm, hai chân giạng ra. Sau đó mụ ta dùng thuốc lá đốt người, dùng dao rạch người và gậy bóng chày đập Betty. Khi Betty ngất đi vì đau, mụ ta ngồi ghi vào cuốn nhật ký luôn mang bên mình. George ngồi xem và hai con ác thú cùng hò hét bài thánh ca của bọn Camprachicos. Sau hai ngày tra tấn, Ramona rạch mồm Elizabeth Short đến mang tai cho giống với Gwynplain để mụ ta không còn căm ghét sau khi cô đã chết. George cắt người Betty Short thành hai mảnh, mang ra dòng nước bên cạnh căn nhà rửa sạch và nhét vào xe của Ramona. Đêm đến, hai người lái xe đến khu đất trống ở góc đường số 39 và đường Norton - nơi George vẫn thường phụ trách dọn dẹp cho thành phố. Bọn họ bỏ xác Elizabeth Short ở đó để sau này trở thành Thược dược đen, lái xe đưa George về chỗ chiếc xe tải của hắn, sau đó mụ ta quay về nói với Emmett và Madeleine rằng chả bao lâu nữa hai người sẽ biết mụ ta ở đâu và sẽ phải khâm phục ý chí của mụ ta. Để giũ bỏ tội ác, mụ ta bán bức tranh Gwynplain cho ông Eldridge Chambers keo kiệt tôn thờ nghệ thuật. Sau đó là những chuỗi ngày mụ ta lo sợ Martha sẽ phát hiện ra hành động đó và căm ghét mình. Ramona càng dùng nhiều cồn thuốc phiện, côđein và thuốc ngủ hơn.

Tôi đang ngồi ngắm những bức hoạ của Martha được đăng trên các tạp chí thì Ramona ngừng lời. Sự im lặng bất ngờ làm tôi gai người, câu chuyện của mụ ác thú cứ tuần tự tái hiện trong đầu tôi. Căn phòng có máy lạnh nhưng người tôi ướt đẫm mồ hôi.

Bức tranh đoạt giải nhất do Hội đồng nghệ thuật trao cho Martha năm 1948 vẽ một người đàn ông đẹp trai trong bộ comple nhăn đang đi dạo trên bãi biển nhìn hau háu một phụ nữ tóc nâu tắm nắng. Anh chàng say mê nhìn ngắm đến nỗi quên hết xung quanh và sắp bị một cơn sóng lớn cuốn đi. Chú thích trên đầu bức tranh ghi: “Đừng lo! Chỉ tối nay thôi anh chàng bảnh bao sẽ ve vãn cô nàng ở câu lạc bộ!” Cô gái nhìn rất béo tốt - phiên bản của Martha. Ngôi nhà bao quanh bởi cây cọ của gia đình nhà Sprague làm nền cho bức tranh.

Ramona phá tan sự im lặng. “Cậu định sẽ làm gì?”

Tôi không dám nhìn mụ ta. “Tôi cũng không biết.”

“Cậu vừa nói câu đó rồi.”

Tôi thấy chàng trai trong bức tranh giống Emmett - anh chàng người Scotland điển trai sống ở Hollywood. Chả còn gì để hỏi, tôi đành bám vào câu chuyện của Ramona. “Năm 1946 có người thường xuyên vứt xác mèo chết vào các nghĩa trang ở Hollywood, người đó có phải là bà không?”

“Đúng. Lúc đó tôi rất ghen với cô ta và muốn nhắc George tôi vẫn để ý mọi chuyện. Cậu sẽ làm gì?”

“Tôi không biết. Bà lên lầu đi. Tôi muốn ở đây một mình.”

Tôi thấy có tiếng bước chân, tiếng khóc nức nở, sau đó là sự im lặng. Tôi nghĩ đến sự thực là cả gia đình họ cùng hợp sức bao che cho Ramona, đến việc tôi sẽ phải trả giá thế nào khi bắt bà ta: Tội che dấu chứng cớ, cản trở thực thi pháp luật. Tiền của gia đình Sprague sẽ cứu bà ta khỏi căn phòng khí độc, bà sẽ vẫn sống điềm nhiên ở nhà tù Atascadero hay một nhà tù nào đó dành cho phụ nữ cho đến khi căn bệnh lupút kia lấy đi mạng sống. Martha sẽ phát điên, Emmett và Madeleine sẽ vẫn có nhau, tội che dấu chứng cớ và cản trở thực thi pháp luật đối với bọn họ chả có nghĩa lý gì. Nếu bắt mụ ta tôi sẽ phải từ bỏ nghề cảnh sát, nếu thả ra thì tôi không còn là con người. Trong cả hai trường hợp Emmett và Madeleine sẽ vẫn sống cùng nhau.

Anh chàng Bucky Bleichert giỏi giang kia đang trong tình thế bế tắc, khó xử và cứ ngồi lì trong căn phòng sang trọng đầy đồ cổ nhà họ. Tôi nhìn mấy chiếc hộp đã đóng gói để trên nền nhà và thấy những chiếc váy dự tiệc rẻ tiền và mấy bức vẽ phác thảo chân dung phụ nữ của Martha. Có thể cô bé này sẽ phát động một chiến dịch quảng cáo rầm rộ để bảo lãnh cho Ramona đến được nhà tù Tehachapi. Cũng có thể không có bà mẹ là kẻ tra tấn này cô bé sẽ không còn cảm hứng sáng tác.

Tôi rời khỏi nhà họ đi lang thang giết thời gian, rẽ qua chỗ nhà trọ thăm ông già mặc dù biết ông sẽ không nhận ra tôi. Khu Lincoln Heights đã xuất hiện nhiều nhà mới chờ người đến thuê. Hội trường nhà thi đấu Eagle Rock Legion vẫn có biển quảng cáo các trận đấu diễn ra vào tối thứ Sáu. Đến chập tối, tôi buộc phải đầu hàng: gặp cô bé kiêu ngạo giàu có của mình lần cuối cùng trước khi bắt bà mẹ; gặp lần cuối cùng để hỏi xem tại sao cô ta vẫn đóng giả Thược dược đen mặc dù biết tôi sẽ không bao giờ sờ vào người cô ta nữa.

Tôi lái xe đến đường số 8, đỗ ở góc chỗ nhà nghỉ Irolo và ngồi quan sát lối vào trước quán bar Zimba Room. Hy vọng không phải vì chiếc vali kia mà cô ta đi xa, không phải buổi đi ăn đêm cách đây hai hôm là buổi cuối cùng của ta ở quán bar này.

Tôi ngồi nhìn đám lính tráng, bọn bợm nhậu ra vào quán ăn rẻ tiền bên cạnh. Sau nửa đêm thì chiếc Packard của Madeleine xuất hiện. Cô nàng bước ra, tay xách vali nhưng lần này thì là Madeleine chứ không phải Thược dược đen.

Tôi giật mình thấy cô nàng đi vào quán ăn. Mười lăm phút chậm chạp trôi qua rồi Madeleine cũng xuất hiện trở lại giống hệt Thược dược đen. Cô nàng tung chiếc vali vào ghế sau xe và khệnh khạng bước vào quán bar Zimba Room.

Một phút sau tôi đi vào nhòm qua khe cửa. Bên trong chỉ có một nhóm các sỹ quan cao cấp của lục quân, mấy khu buồng vây tạm có hình sọc đen trắng trống không. Madeleine đang ngồi uống một mình trong khi hai chàng lính làm đỏm trên chiếc ghế cao phía dưới. Tôi thấy đứng ở cửa nhòm vào quá lộ liễu nên quay ra xe.

Khoảng một giờ sau thì Madeleine đi ra cùng với viên thượng úy mặc bộ kaki mùa hè. Cũng như mọi khi, bọn họ lên chiếc Packard chạy vòng sang đường số 9 và lao xe vào bãi đậu của nhà trọ Irolo. Tôi theo sát bọn họ.

Madeleine đậu xe đi vào lễ tân lấy chìa khoá, tay lính đợi ngoài cửa phòng số 12. Một lúc sau Madeleine quay ra gọi tay thượng uý chỉ anh ta đi sang một phòng khác. Anh chàng nhún vai và đi theo cô nàng. Đèn trong phòng bật sáng rồi lại tối.

Tôi cho bọn họ 10 phút rồi mới tiếp cận đứng nép mình vào bóng tối lắng nghe. Tiếng rên rỉ cùng với tiếng nhạc phát ra từ bên trong. Thấy một cửa sổ của căn phòng hơi hé mở vì bị kẹt, tôi liền tiến đến núp dưới bóng dàn cây leo ghé tai vào trong.

Tiếng rên rỉ càng rõ hơn, tiếng giường cọt kẹt, tiếng đàn ông gằn lên từng hồi. Giọng Madeleine nóng bỏng rên rỉ hơn rất nhiều lần những khi cô ta làm tình với tôi. Tay thượng uý đột nhiên rống lên, rồi im lặng và Madeleine giả vờ ngây thơ:

“Em ước gì có radio. Tất cả các nhà trọ đều có nhưng phải trả tiền. Dù sao thì ở đây cũng còn có nhạc.”

Chàng quân nhân cố lấy hơi. “Anh nghe nói Boston là thành phố rất đẹp.”

Tôi phát hiện ra Madeleine nhái giọng, thứ giọng của người lao động ở New England mà Betty Short thường nói. “Medford không đẹp, không hề đẹp chút nào. Em đã làm rất nhiều công việc ở đó. Bồi bàn, bán kẹo rong ở nhà hát, công nhân nhà máy. Chính vì vậy em phải bỏ đến California tìm cơ hội làm giàu. Medford thật khủng khiếp.”

Chữ “A” trong cách nói của Madeleine nghe mỗi lúc một rõ, giống giọng của một đứa trẻ đầu đường xó chợ ở Boston. “Em đến đây trong thời gian diễn ra chiến tranh phải không?”

“Ừm, có thời gian em làm việc ở trạm bán hàng phục vụ cho trại lính Camp Cooke. Có một anh lính đánh em sau đó lại có một người đứng ra cứu, người đó bây giờ là bố dượng của em. Ông ấy cho phép em quan hệ với ai tuỳ thích miễn là em phải về nhà với ông ấy. Ông ấy mua cho em chiếc xe trắng đó và những bộ váy đen dài như em đang mặc đây. Ông ấy làm như vậy bởi vì ông ấy không phải là bố thật của em.”

“Ông ấy tốt thật đấy. Bố anh chỉ mua cho anh chiếc xe đạp và thỉnh thoảng mới cho vài đồng mua xà phòng. Có điều chắc chắn là ông ấy sẽ không bao giờ mua cho anh chiếc Packard cả. Em có ông bố thật tuyệt vời, Betty ạ.”

Tôi khom người nhìn qua khe cửa sổ nhưng chỉ thấy hai bóng tối lờ mờ trên chiếc giường kê giữa phòng. Madeleine/Betty nói tiếp: “Đôi khi ông bố dượng cũng không thích bạn trai của em nhưng không bao giờ giận cả. Có một anh chàng cảnh sát. Bố dượng em nói anh ta là con người ẻo lả, ti tiện nhưng em không tin vì em thấy anh ta rất khỏe, có bộ răng dài. Anh ta muốn làm em tổn thương nhưng bị bố dượng ngăn lại. Bố em biết cách điều trị những tay đàn ông yếu ớt muốn vòi tiền rồi lại đòi làm đau những cô gái đẹp. Bố em là anh hùng vĩ đại trong chiến tranh còn anh chàng kia chỉ là kẻ nhút nhát chuyên chạy trốn.”

Giọng Madeleine bây giờ đã hạ thấp và kéo dài. Tôi ôm tay trước ngực cố đứng nghe họ tấn công bằng lời nói.

“Bọn nhút nhát đáng bị xử tử hoặc trục xuất khỏi đất nước này. Không, bắn chúng thì vẫn còn nương tay quá. Treo cổ chúng bằng… em biết rồi còn gì. Thậm chí hơn thế mới đáng.”

Bây giờ Madeleine lại chuyển sang giọng Mêhicô đặc sệt. “Dùng rìu chém chúng được không? Anh chàng cảnh sát kia còn có một người bạn. Hắn viết cho em mấy lời mà đáng ra không nên làm như vậy với những cô gái đẹp. Thằng bạn đánh bố em rồi bỏ chạy sang Mêhicô. Em vẽ tranh tả mặt hắn và thuê thám tử tìm. Em cải trang và đến Ensenada tìm hắn. Em đóng giả ăn mày đến gõ cửa phòng hắn. ‘Anh người Mỹ ơi, tôi cần tiền.' Hắn quay lại và em cầm rìu bổ cho hắn một phát gục xuống. Em lấy hết số tiền còn lại hắn cuỗm của bố dượng em, bảy mươi mốt ngàn đô la tất cả.”

Anh chàng kia lúng búng. “Cái gì? Em nói đùa hay thật đấy?” Tôi rút khẩu 38 ra và lên cò. Madeleine lại chuyển sang giọng Tây Ban Nha nói rất tục tĩu. Tôi chĩa nòng súng vào khe cửa sổ, đèn trong phòng bật sáng, gã tình nhân bật dậy mặc quân phục. Tôi thấy Lee nằm trong gò cát, giòi từ trong hốc mắt bò ra.

Gã quân nhân lao ra cửa khi chưa kịp mặc xong quần áo. Còn lại một mình Madeleine đang chui người vào chiếc váy đen dài. Nghĩ đến cảnh cô nàng trần truồng khiến tôi giơ súng lên trời trút hết băng đạn. Tôi giơ chân đạp cánh cửa sổ vào trong.

Madeleine chết lặng người khi thấy tôi bò vào. Không hề sợ hãi trước tiếng súng nổ và tiếng kính vỡ, cô ả vẫn cố tình giở trò xảo trá ứng phó. “Cô ấy là người duy nhất ý nghĩa với em và em phải nói với mọi người về cô ấy. Nhưng em thấy rất khó làm giống cô ấy vì cô ấy là người thật còn em chỉ bắt chước. Và cô ấy là của chúng ta, anh yêu ạ. Anh đưa cô ấy trở lại với em. Cô ấy làm chúng ta tốt lên. Cô ấy là của chúng ta.”

Tôi túm mái tóc kiểu Thược dược của Madeleine làm cô ta trông giống như con điếm đen kinh tởm, tôi còng tay cô ta ra sau và lại thấy Lee trong gò cát. Còi hiệu vang lên khắp nơi, ánh sáng loé lên từ những mảnh kính vỡ. Ngoài hư vô tôi lại thấy Lee Blanchard nhắc lại điệp khúc của mình. “Tìm bằng được người đàn bà đó, Bucky. Cậu phải nhớ điều đó.”