Chương 3
Ba chàng nhạc sĩ ngồi túm tụm phía kia mép bàn và, lần đầu tiên tôi thấy họ là những con người có nhiều khác biệt.
Tôi kéo chiếc ghế đối diện họ và quan sát từng người.
Người thứ nhất, Clarence Nesbitt hơi héo hon không có cây đại hồ cầm, to lớn gần như béo phệ, tay không rời cái mũ quả dưa màu nâu sẫm đã đội suốt lúc trình diễn.
Ngồi giữa là Wesley Stewart tay kèn đồng, người điều khiển ban nhạc, gầy và cao khổng như cây tre. Hắn có đôi mắt to màu xanh lơ mơ mộng và một chiếc mũi quá dài không tương xứng khuôn mặt.
Cuba Carter ngồi sau cùng, béo lùn màu da hơi sạm, chắc lai máu Phi Luật Tân. Hắn để bộ ria đen ngòm hình dấu phẩy, lúc nào cũng nhe hàm răng trắng hếu ra cười, chắc để lên dây thần kinh hơi chùng.
Tôi chậm rãi châm thuốc và kín đáo quan sát tiếp.
Cuba cục cựa đôi chân tỏ vẻ khó chịu, trong khi Clarence búng búng mấy ngón tay như tấu đàn tưởng tượng. Tôi nhóng tai và hầu như nghe được tiếng ong ong của cây đàn basse. Duy chỉ có Wesley Stewart ngồi lặng yên, đôi mắt mơ màng nhìn xa xa vào chốn mung lung cách hàng nghìn dặm, từ căn phòng lắm phiền muộn của nàng Minuit O'Hara.
Tôi vất điếu thuốc cháy dở xuống nền sàn, lấy gót giày giẫm lên nó, rồi hắng giọng cất tiếng:
- Các anh bị buộc phải vào cuộc, nếu không tỏ thiện chí giúp tôi thu vén nhanh chóng vụ này.
Họ im lặng ngồi nhìn nhau người này sang người kia. Sau rốt, Clarence mở đầu:
- Có thể nói, chúng tôi chả trông thấy gì sất, thưa Trung úy. Chúng tôi đang trình tấu bản "Tuột dốc" và đang để hết tinh thần tập trung vào bản nhạc, không còn ý nghĩ nào khác. Đến khi nghe tiếng gầm gừ của một gã, tôi cho rằng hắn bị kích động thần kinh. Tiếp đến là một tiếng "đoàng" tôi lại nói thầm, đây là màn trình diễn đột hứng cá nhân, như vẫn thường diễn ra với các khán thính giả không ghìm được sự cuồng nhiệt. Thâm tâm tôi hứa sẽ gắn lên môi gã một điếu xì gà thật to và đãi cho gã một ly Whisky đậm đặc để tưởng thưởng. Vừa lúc ấy gã ngã khuỵu xuống và tôi trông thấy một vệt máu trên áo sơ-mi gã...
- Hắn nói đúng đấy, thưa xếp - Cuba gật mạnh cái đầu, nhe hàm răng trắng hếu ra cười, nói chen vào - Hắn nói đúng! Bọn tôi tất bật công việc và chỉ ngưng kèn trống khi gã đó đã đi đời nhà ma trước mũi chúng tôi.
Tôi chăm chăm nhìn Wesley Stewart:
- Còn anh? Có gì để nói không?
Wesley từ từ ngước nhìn tôi một cách chậm rãi. Hắn nói với tôi bằng một giọng êm dịu nhẹ nhàng:
- Thưa Trung úy, xin lỗi. Ông hỏi cái gì ạ?
- Tôi hỏi anh, lời tường thuật của anh có giống như các đồng nghiệp kia không?
- Xin thứ lỗi - Hắn đáp bằng một nụ cười mơ hồ bên khóe môi - Tôi không nghe gì sất! Tôi đang dự tính đánh vật với một bản blue thật mùi mẫn và đang phân vân có nên sử dụng cậy saxo tenor, thay vì...
- Thật đáng tiếc phải cắt ngang việc soạn hòa âm của anh, giản dị chỉ vì có một người đã bị ám sát trước mắt anh, cách đây chỉ nửa tiếng đồng hồ. Tôi rất thích được nghe cảm nghĩ của anh về sự cố này. Đại thể như anh có trông thấy kẻ sát nhân hay không và hành động của nó như thế nào lúc nó phạm tội...
- Thưa trung úy, tôi hiểu - Hắn đáp cũng với cái nhếch mép dễ thương và trầm lặng - Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng chẳng nom thấy gì sất ngay cả lúc nạn nhân đứng sờ sờ trước mắt tôi. Khi trình tấu xuất thần một bản nhạc, xin lỗi Trung úy, người ta không còn thời gian để suy tư những vấn đề khác. Tôi không nghe tiếng la thét luôn cả tiếng súng nổ. Thậm chí đến lúc Clarence kể lại, tôi vẫn còn phân vân. Nói cho cùng tôi chỉ thấy gã đó ngã sóng soài...
- Có ai trong số các anh quen biết gã đó không?
Tôi hỏi và được cả ba trả lời bằng những cái lắc đầu.
- Các anh không bao giờ trông thấy gã đến đây?
Một lần nữa, ba cái đầu lại lắc lư, hàm ý "không bao giờ!"
- Các anh chưa bao giờ gặp gã ở đâu?
Cùng lúc họ đều biểu hiện: Không thấy! Không biết!
- Nói chung các anh đều không biết cái gì cả? Các anh không thấy người nào đó với khẩu súng ngắn ở trong tay? Các anh không trông thấy người nào đó, bất chợt ở phía sau, bên trái cũng như bên phải? - Hừ, không một người nào thấy xuất hiện, mà có khả năng bắn một phát súng giết người trước hàng trăm cặp mắt?
- Rất tiếc là phải làm ông thất vọng, thưa trung úy! - Wesley Stewart nói một cách rành rọt - Vào lúc đó, cả ba chúng tôi đều rất bận rộn.
- Thôi được, cám ơn sự giúp đỡ của các anh.
Cả ba người đứng lên cùng một lúc và tiến tới cánh cửa cùng một bước.
Họ vừa đi khuất, Polnik xuất hiện với bộ mặt đưa đám.
- Diễn tiến đến đâu rồi, thưa trung úy?
- Cô chủ chẳng biết gì sất. Đó là do cô ấy nói. Còn bộ tam sên cũng... chẳng biết gì. Câu trả lời của họ là thế đấy.
Tôi ngừng nói, châm thuốc hút, rồi tiếp:
- Tôi biết trước mặt tôi, họ không nói hết tất cả, nhưng biết làm thế nào được - Tôi huých tay Polnik - Ta thử quay thằng-con-lợn này xem.
Nửa phút sau, gã hầu bàn béo mỡ ngồi trước mặt tôi, trên chiếc ghế giữa hai chiếc kia vừa bỏ trống.
Tôi chăm chú quan sát hắn, một gã cao to nặng nề và chắc nịch. Mái tóc đen, dày và dài thậm thượt, chắc phải được cắt sớm lắm là sáu tuần lễ trước đây mà bây giờ nếu cần tém dẹp phải dùng dao cắt cỏ. Ngồi chật ních trong chiếc ghế, hắn ném cho tôi cái nhìn khinh khỉnh và tôi đoán chắc không phải lần đầu tiên cớm hỏi thăm sức khỏe thằng-lợn-sữa này.
Tôi nhìn thẳng vào hắn hỏi:
- Lúc xảy ra án mạng anh ở đâu?
- Trong bếp. Tôi chờ mang thức ăn ra nuôi bốn con voi nan ngồi cạnh bàn ông. Joe phụ với tôi lo việc này và khi nghe tiếng hét, rồi tiếng súng nổ, ba chân bốn cẳng tôi vọt ra phòng ngoài, vừa kịp nhìn màn trình diễn của con ngựa vằn đang chao đảo trên bục sân khấu. Thế rồi, nó đổ sụp xuống như cây chuối ngã.
- Anh không trông thấy kẻ nào đó đã đứng sẵn phía sau bục diễn?
Hắn đáp không ngập ngừng:
- Không! Không một ai cả, ngoại trừ ba thằng khỉ mắc phong đang hò hét hí hố ở trên đó.
- Anh không thích nhạc Jazz sao?
Hắn đáp, vẻ khinh miệt:
- Không đáng một đồng xu. Tôi là mẫu người thích trầm lặng với cuộc sống ẩn dật.
Tôi mỉm cười với mớ lý sự quèn của hắn rồi trầm giọng hỏi.
- Anh cho rằng gã bị quật ngã vừa rồi không do một ai cả và anh nói chưa từng gặp hắn bao giờ, có phải vậy không?
Hắn xốc lại cổ áo cao hồ bột, rồi hăm hở đáp:
- Thưa trung úy, đúng phóc như vậy đó!
Tôi với tay lên mặt bàn, cầm cái bao nhỏ được tìm thấy trong túi áo vét của nạn nhân và mở ra. Bên trong chỉ còn ba que diêm.
Tôi xoay xoay cái bao đó, rồi hững hờ nói:
- Thứ này dùng đốt... "Pháo bông" vô người! Đến đây và trước khi chết trong vòng mười phút đồng hồ, một mình hắn có thể ngốn hết ngần ấy que diêm. Nghĩ cũng lạ...
Tôi châm thêm một điếu thuốc phun khói lên trần phòng khẽ quan sát thằng-lợn-sữa. Tôi nom thấy hắn vặn vẹo liên tục trong chiếc ghế, một lúc khá lâu hắn mới rặn từng tiếng:
- Ơ.. ơ, số là... có thể nó đã có đến đây, nhưng tôi không nhớ rõ...
Tôi vất mạnh điếu thuốc cháy dở vào một góc tường, trừng mắt rồi nghiêm khắc nói với hắn.
- Anh cần nên mang kính và rất có thể tham dự buổi nói chuyện vui vẻ với chúng tôi tại bộ chỉ huy đội điều tra hình sự để thư giãn bộ thần kinh.
Bộ mặt tái nhợt, hắn nói lúng búng:
- Đừng nói thế trung úy ơi. Tôi không muốn như vậy đâu. Tôi nhớ mặt nó, nhưng vì thấy nó dúm dó thiểu não và... làm đầu óc tôi rối bời, rồi quên khuấy đi...
- Gã đó đến đây mấy lần rồi?
- Bốn hoặc năm lần gì đó. Nó "Ngốn cỏ khô tợn lắm. Ngồi cách năm dãy bàn, còn ngửi thấy mùi.
- Anh tên gì?
- Booth. Eddie Booth.
- Anh trông thấy nó đến đây nhiều lần. Thế mà, khi tôi hỏi, anh chối bai bải rằng không thấy, không biết. Vậy kẻ nào đã hốt hồn khiến anh lú lẫn đến thế?
- Tôi không biết. Tôi luống cuống quá. Tôi...
- Anh làm như vậy chỉ vì không muốn rời khỏi nơi đây, phải vậy không? Một phần cũng vì miếng cơm manh áo, đúng không? Lúc cô chủ đứng sau lưng tôi, anh nghĩ rằng tốt hơn đừng nên cựa quậy cái lưỡi để tránh tai bay họa gửi, do đó chối phăng rằng không thấy, không biết. Đúng vậy không?
Hắn nuốt nước bọt một cách khó khăn.
- Trưng úy quay tôi căng quá...
- Anh không thấy, không biết gì hết! Chờ tôi lột toẹt móng heo mới chịu ngóp ngoáp cái miệng cá hô của anh ra. Vậy là thế nào?
- Thưa trung úy, cô chủ không muốn có chuyện rắc rối trong quán - Hắn lập lại - không phải tới bây giờ tôi mới nom thấy gã đó. Thoạt nhìn tôi đã tự nói: Thằng này xơi thuốc...
- Chơi ông hít?
- Thưa vâng, đúng vậy! Một thằng xì ke hết cỡ, lúc nào nó cũng phi. Ông thừa biết có những thằng như vậy đó. Tôi đã đoán ngay sớm muộn gì nó cũng sanh lắm chuyện rầy rà.
- Nó tên gì nhỉ? Cái thằng xì ke đó?
- Thậm chí đến cái tên của nó tôi chẳng thèm để ý tới. Quả thật tôi không biết!
- Thật vậy sao?
- Đúng vậy!
- Thôi, kể tiếp nghe.
- Nó đến thì thầm với Minuit - Hắn hạ thấp giọng - Tôi thấy cô ấy tỏ vẻ không hài lòng, nhưng vẫn lắng nghe. Nếu hỏi tại sao thì tôi đếch biết.
- Nó thuỗn được cái gì đó? Nó biết được cái gì về cô chủ của anh?
- Tôi hoàn toàn không biết. Vả lại tôi không muốn dây mơ rễ má vào việc của người khác, thưa trung úy. Ở đây tôi chỉ là người làm công. Có thể gã đó biết được những mánh mung gì đó chăng? Nhưng có lẽ là không.
- Nó đến trò chuyện với cô ấy ngay trong phòng này, ở bên ngoài hay ở bàn ăn?
- Nó đến hầu như một lần trong tuần và lần thứ nhất cách nay một tháng. Nó ngồi được một lát, rồi cho biết muốn gặp Minuit. Hai lần sau này, nó vào thẳng trong phòng làm việc và ở lại đó khoảng hai mươi phút, rồi ra về.
- Cô chủ của anh không bao giờ đi ra ngoài chung với nó?
Hắn lắc đầu một cách dứt khoát:
- Không! Cô chủ không bao giờ rời khỏi quán trước giờ quán nghỉ bán, nói cách khác là ba giờ sáng. Gã đó, nó ra đi khoảng một giờ hoặc muộn hơn một chút.
- Anh có biết nó ở đâu không?
- Tôi đã nói, thưa trung úy. Cả tên của nó tôi còn không rõ, nói chi chuyện nhà cửa.
- Được lắm, Eddie. Hết rồi chứ?
- Tất cả những gì tôi đã biết. Xem như hết.
- Rất tốt. Bây giờ thì anh có thể đi nghỉ. Đừng băn khoăn gì cả!
Eddie lưỡng lự một lúc:
- Ông có định nói chuyện với Minuit không?
- Anh có ý kiến gì bổ sung?
Hắn nói với vẻ đăm chiêu:
- Tôi sợ sẽ có ảnh hưởng không hay đến việc làm của tôi ở đây, nếu ông đem chuyện tôi vừa ton hót ra cật vấn cô chủ.
- Eddie, tôi sẽ xoay sở với khả năng sẵn có, bởi vì anh tỏ ra thành thật với tôi.
Eddie Booth trầm ngâm rất lâu về việc này. Hắn tỏ ra không mấy tin tưởng.
- Thôi được, xin chào trung úy.
Hắn nói và xoay tay trên cái đấm cửa, mở cửa ra, rồi lặng lẽ rút lui.
Tôi cho gọi người gác đêm vào phòng, cật vấn gã về những điều Eddie Booth vừa tiết lộ thì được người này gật đầu xác nhận. Tôi cám ơn, rồi cho lão trở ra vị trí làm việc.
Tôi bước ra dãy hành lang, đi về phía sân khấu, ba gã nhạc công đã trở lại chỗ thường xuyên của họ, trên bục diễn. Clarence đang nắn nót cái chế âm trên cây đại hồ cầm. Cuba Carter vỗ nhẹ lên mặt trống một bản swing có nội dung và Wesley vẫn ngồi trầm tư với những u hoài, đôi mắt nhắm nghiền như tham thiền nhập định.
Minuit đang đứng thị sát cho người làm lau sạch vết máu trên ván sàn. Số khán thính giả bị giữ lại trước khi Polnik và người của hắn đến, đang ngồi rải rác đó đây, vẻ chán chường mệt mỏi và chắc chắn họ đã tỉnh rượu rồi.
Tôi rút bút và sổ tay ghi tên họ, địa chỉ của từng người, rồi quay lại nói với Polnik:
- Anh có cần hỏi gì không hay để họ về?
- Ta nên để họ tự do ra về!
Tôi đứng trước bục diễn, quan sát tò mò từng nơi.
Ít phút sau, Polruk trở lại đứng cạnh tôi và nói:
- Thưa trung úy, tôi còn việc gì khác để làm hay không?
- Hãy chia sẻ với tôi vài suy đoán. Chúng ta đang đứng đối diện bục diễn. Đúng không nào?
- Thưa trung úy, đúng ạ - Polnik trả lời không chần chừ do dự.
- Phía trái sân khấu có hai cánh cửa. Một dẫn vào phòng làm việc của cô chủ và cái kia thì thẳng vào nhà bếp. Không còn một cánh cửa nào khác. Đúng không nào?
- Thưa trung úy, đúng!
- Nạn nhân trước khi biến thành xác chết, phải đứng phía sau bục diễn và là nơi kẻ nào đó từ phía trên bắn thẳng vào hắn, ngay tim. Sau đó nạn nhân mang vết thương tiến tới trước bục diễn, trước mặt các nhạc công, rồi loạng choạng ngã choài xuống.
- Thưa trung úy, đúng vậy!
- Cả ba nhạc công đều không thấy nạn nhân trước khi hắn xuất hiện, vì họ đang chú ý vào việc trình diễn. Minuit O'Hara trong phòng làm việc, còn gã hầu bàn Eddie Booth đang ở trong bếp. Trong khi đó, thủ phạm không thể từ phía trên để bắn xuống nạn nhân vì khán giả bên dưới sẽ phát hiện ra hắn ngay. Giả thử khán giả không trông thấy, viên đạn chỉ xoáy xuống chân, chứ không thể đi trực diện vào ngực nạn nhân được.
- Thưa trung úy, đúng!
- Thủ phạm không thể đứng đối diện với nạn nhân phía sau bục diễn vì ở đây quá hẹp không có nơi để đứng. Dầu có đứng được chăng nữa thì nạn nhân sẽ trông thấy và la toáng lên ngay.
- Thưa trung úy, đúng vậy.
- Giả thiết hoàn toàn vô lý! Viên đạn không thể bắn vòng cầu, bay ngang qua đầu ba nhạc công để chui thẳng vào ngực nạn nhân được?
Vậy thì thủ phạm ở đâu và đứng chỗ nào.
- Ơ...
Polnik chớp chớp mắt gãi đầu ngẩn ngơ.
- Như vậy anh cũng thắc mắc, phân vân như tôi?
- Không có khẩu súng ở dưới chân hay vất nơi đâu đó - Polnik nhận xét - Như vậy không phải nó tự sát, phải không?
- Tôi không loại trừ giả thiết nó có khả năng tự sát. Còn khẩu súng thì nó nhét luôn vào bụng rồi. Ngoại trừ cuộc giải phẫu xác minh ngược lại, tôi mới chịu mình sai lầm. Trong khi chờ đợi kết quả, tôi trở vào phòng Minuit O'Hara để có mẩu chuyện nho nhỏ với nàng. Xem ra cô nàng không nồng nhiệt lắm đối với tôi.
Polnik nghi ngờ giả thiết của tôi, hắn lắc đầu làu bàu:
- Ông nói bông đùa, thưa trung úy!
Phía sau tôi có tiếng đằng hắng ầm ĩ và Hammond xuất hiện. Hắn nhướn cặp mày chổi xể nhìn Polnik và nói mỉa mai:
- Ông trung úy thích đùa dai, luôn cả với một nhân viên công lực đang thừa hành phận sự! Bởi vì ông ấy chỉ có cách bông lơn đó là tuyệt hảo thôi.
Tôi quay lưng lại và hỏi Hammond:
- Cậu đến đây khá lâu và đứng rình rập sau lưng tôi, phải không?
- Thôi, đủ rồi. Cậu cũng đừng quan tâm đến việc đi hỏi chuyện với Minuit O'Hara vì việc này đã có tôi lo.
- Được thôi, hãy theo tôi vào văn phòng và tôi sẽ tường thuật lại cậu nghe diễn tiến mọi việc.
Tôi hướng dẫn Hammond vào phòng Minuit O'Hara. Hắn tiến thẳng đến chiếc bàn rồi chễm chệ ngồi vào chiếc ghế bành to sù và tiện nghi nhất quan sát tôi bằng cái nhìn oai nghi của viên chủ tịch hội đồng quản trị.
- Thế nào, Wheeler! Có gì cho không?
- Không, hôm nay thì không cho. Tôi còn nhiều người khác đói khổ hơn.
Hammond mắt đỏ gay, miệng gầm gừ như chó bị giẫm phải đuôi:
- Thôi đi, đừng làm bộ ngờ nghệch. Wheeler! Anh đã ở đây quá lâu trong cuộc điều tra này! Hãy cho tôi biết cái cách anh đã phăng ra đầu mối của nó như thế nào rồi! Tôi nghĩ việc này không trì trệ đến một phút.
- Đúng, thậm chí không hơn ba mươi giây.
Tôi nói.
Sau đó tôi kể hắn nghe từ lúc gã thanh niên bất hạnh lìa đời đến các việc tôi đã làm theo đúng thủ tục thường lệ. Tôi thấy thái độ của Hammond tỏ vẻ có ý lắng nghe nhưng thật ra chẳng để một câu nào lọt vào tai và tôi không thể phản đôi thái độ này của hắn được. Tôi kết luận:
- Bây giờ đến lượt cậu trổ tài thám tử. Tôi chúc cậu được nhiều may mắn, bởi vì cậu có vẻ cần đến điều này, hơn cả mọi người cảnh sát tận tụy khác!
Nói xong, tôi quay lưng định bước ra.
- Tôi thấy việc này không có gì gọi là khó khăn phức tạp cả, Wheeler - Hắn nói, sau cái mỉm cười khinh miệt - Theo ý kiến của tớ, chẳng còn ai ngoài người đàn bà...
Tôi quạt ngay:
- Minuit O'Hara à? Ôi, thật là một sáng kiến siêu phàm! Đúng rồi, sau khi hạ sát nạn nhân, có thể cô ả đã giấu khẩu súng vào cái chỗ rậm rịt nằm bên trong sợi dây thắt bít tất. Nếu cậu cần một tay trợ thủ đắc lực, tớ xin tình nguyện được khám chỗ đó. Suy cho cùng, tớ vẫn là chuyên gia về việc này.
- Cút đi, ma mãnh!
- Thì tớ đang làm đây! - Tôi đáp lại và lắc đầu, nói với vẻ xem thường - Tôi không xét trước câu "có gì cho không?" nhưng phải nói tôi trì độn trong vụ này. Cậu là người tế nhị, Hammond ạ.
Tôi bước nhanh ra khỏi phòng và gặp ngay Annabelle Jackson đang chống cằm ngồi ủ rũ cạnh chiếc bàn chúng tôi ngồi. Cô ngước lên, nom thấy tôi liền mở ngay trận giặc Nam-Bắc tranh với tôi trong vai Lincoln, chỉ còn thiếu hàm râu, dĩ nhiên.
Tôi nói:
- Mọi việc đã xong cả rồi!
Annabelle liền nạp đạn:
- Anh không còn câu nào khác để nói sao?
Tôi đáp nhẹ để cầu hòa:
- Nhiệm vụ là trên hết. Thôi, đừng nhắc tới nữa, em yêu ạ...
Annabelle chịu thua, cô ấm ức nói:
- Anh có nghĩ rằng, anh là người duy nhất đã làm em rớt nước mắt không?
Tôi cúi đầu nhìn nhận:
- Một lời nói đúng của em hơn trăm câu thừa. Thôi, chúng ta rời khỏi nơi này, không khéo Hammond làm thêm một án mạng thứ hai để thử giải quyết cái thứ nhất đang làm hắn ngập lên tới cổ!
Hai đứa chui nhanh vào một chiếc tắc-xi và trên đoạn đường về nhà, cô ả đã hoạnh họe tôi đủ mọi thứ chuyện.
Khi xe dừng lại trước cổng nhà tôi và tôi vừa bước xuống, cô ả chìa món tóc vàng bạch kim ra khỏi cửa xe, bắn một phát xanh dờn:
- Anh đã để em ngồi ngóng dài cả cổ. Trong khi đó anh chui vào cái lỗ... để làm trò đú đởn với con nộm kia!
Nói xong, cô đóng nhanh cửa đánh sầm.
Đứng bên ngoài, tôi nhún vai và phản pháo lại:
- Hừ, tất cả đàn bà đều cùng một giuộc như nhau - Tôi nhớ tới Minuit O'Hara, nên làu bàu - Nửa đêm, điểm hẹn hò không thể thiếu. Rồi đây Minuit sẽ không phải múa hót nữa...
- À thì ra dê cụ giả bộ cừu non!
- Không hiểu tại sao em gay gắt thế? Trong khi Minuit làm anh phải tránh, còn em thì hăm hở nhảy vào Jazz...
Annabelle trả lời bằng tiếng máy nổ của chiếc tắc-xi và vút đi mất dạng.
Tôi vẫn còn lẩm bẩm nói với theo:
- Anh điện thoại đến nhà xe và bắt nó phải sẵn sàng chờ anh vào sáng sớm ngày mai.
***
Ngồi thư giãn trong chiếc ghế bành da, tay cầm cốc pha lê sóng sánh Whisky, tay kia điếu thuốc lá tỏa mùi thơm phức, tôi lim dim đôi mắt thả hồn theo tiếng hát của Peggy Le trong bản nhạc "Black coffee" đang lan tỏa quanh bốn bức tường nhờ một máy lọc âm hiện đại.
Điện thoại reo vội vã. Tôi chồm người lên chiếc bàn cạnh giường ngủ bốc ống nghe và nói ngay:
- Không! Em yêu ơi, anh không giận em đâu. Trách hờn là độc dược giũa mòn cơ thể. Anh chẳng muốn thế đâu. Coi kìa, lúc nào anh cũng yêu thương chiều chuộng em mà. Ôi...
- Wheeler!
Tôi nghe tiếng gầm dữ dội, giọng kinh khiếp của một người đàn ông mà tôi rõ như lòng bàn tay của mình.
Lạy chúa, tôi vội vàng buông nhẹ ống nghe xuống và nghĩ thầm, nhưng không mấy hy vọng:
- Lão buông tha cho mình rồi...
- Wheeler!
Giọng chói tai đó lại vang lên và tôi nhận ra như tiếng sủa trong các kỳ triển lãm các chú khuyển.
- Cảnh sát trưởng Lavers đang ở đầu dây...
- Có chắc không? - Tôi cố ý châm chọc.
Tiếng gầm bên kia đầu dây lại càng khạc to, khiến tôi phải đưa xa ống nghe ra:
- Không phải lúc đùa đâu, Wheeler. Phải ba chân bốn cẳng đến đây ngay lập tức. Không được trì hưỡn! Rõ chưa?
- Rõ, thưa sếp! Nhưng để đầu giờ sáng mai được chứ?
- Hừm! Tôi nói ngay lập tức và nên bổ sung để anh dỏng tai mà nghe cho rõ. Đầu giờ sáng mai có nghĩa là ngay bây giờ! Rõ chưa?
- Thưa sếp... rõ ạ...