Chương 7
Tiết tháng bảy trời nắng đổ lửa, tôi lặng lẽ trôi xe về thành phố. Gặp ngôi quán đầu tiên, tôi tìm chỗ đỗ xe, rồi đẩy cửa bước vào.
Ngồi nhấm nháp ly scotch, tôi để đầu óc thư thả nghĩ về việc tôi đã làm, một việc tốn mất thời gian chẳng thu thập được ích lợi gì. Con đường của tôi đi đến y viện Hillstone, chẳng những không mang đến kết quả mà còn dẫn vào một ngõ cụt. Mọi chuyện xem thế là xong, tôi đã đi sai nước cờ. Đã thế, rồi đây sẽ mang đến cho tôi lắm điều phiền bực, mà nguyên nhân chính là Cedric, hắn gây cho tôi quá nhiều ấn tượng, không khéo sẽ biến thành nhiều cơn ác mộng.
Tôi chợt nghĩ đến gã hầu phòng đáng tởm lợm trong hộp đêm "Guốc Vàng" của nàng Minuit O'Hara. Booth có hơi bép xép cái miệng, khi tôi khéo léo ngọt dịu gợi chuyện. Thế nhưng, nếu tôi áp dụng biện pháp mạnh, răn de hối thúc thì lập tức thằng nhãi nhép này sẽ câm như miệng hến. Dẫu sao, tốt hơn tôi nên đến chỗ của nó qua một lần để thử nghiệm xem có lượm lặt được gì thêm. Nhiều thám tử đã nổi danh thành đạt há chẳng phải là nhờ vào những may mắn ngẫu nhiên đó sao? Tôi lại thầm nghĩ: Nhưng chuyện đời có phải lúc nào mọi sự cũng xuôi chèo mát mái, không có những trục trặc bất ngờ, trái khoáy xảy ra?
Mặc cho những ý nghĩ đối kháng nhau, tôi phôn cho Polnik để có địa chỉ của Booth. Thằng nhóc trú trong một căn hộ thuộc khu nhà trọ ở không mấy xa hộp đêm "Guốc Vàng". Tôi nốc thêm một ly scotch đậm đặc để cố gắng xua đuổi chuyện vừa xảy ra tại y viện Hillstone có gã Cedric to lớn và dữ tợn như hung thần.
Tôi rời ngôi quán, đến bãi đỗ tìm chiếc Healey và sau ba mươi phút dưới ánh nắng thiêu đốt, tôi đã tìm thấy địa chỉ của Eddie Booth.
Tôi hãm xe trước khu nhà tập thể có thể đã được nổi tiếng hơn ba mươi năm trước, nhưng bây giờ thì trông lùi sùi buồn bã. Có một khoảng trống phơi mình dưới ánh nắng chói chang chạy dọc tới vỉa hè độ năm mươi mét.
Tôi tắt máy và bước xuống xe. Trời nắng chói chang, không khí như bị hun đốt, các cửa của những căn nhà đều đóng kín bưng và tôi đi như người từ sao hỏa. Đang lững thững từng bước, chợt tôi cảm thấy có cái gì động đậy ở phía sau, bèn quay lưng lại cũng vừa thoáng nhận ra một bóng đen của kẻ nào đó đang bước xuống bậc thềm và bước nhanh như chạy.
Giữa bầu không khí yên ắng nặng nề và dưới ánh nắng gắt của buổi trưa hè đã cho tôi nhận rõ hình dạng của một gã vận y phục đen, cổ áo hồ bột cứng và chiếc mũ quả dưa hất ngược về phía sau. Ra tới vỉa hè, hắn chần chừ một lát, rồi vội vã một cách vụng về băng ngang một con lộ và khuất hẳn khi đến ngã ngoặt đầu tiên.
Hơn cả hiển nhiên, Talbot luôn luôn là gã quản gia trì độn!
Tôi vội vàng dấn bước nhanh. Trước cửa ra vào của một căn hộ có treo một tấm bảng cho biết Eddie Booth ở căn phòng số chín.
Tôi đi lên lầu một, con số chín nằm chình ình nơi đầu cầu thang. Bấm chuông, không nghe tiếng trả lời, tôi làm lại lần thứ hai vẫn không thấy gì. Tôi vội đập cửa và mơ hồ nghe như có tiếng động nhẹ ở phía sau cánh cửa, nhưng có thể tôi đã nghe nhầm. Booth muốn làm cao hay chơi trò ú tim đối với tôi.
Xoay cái nắm cửa, thấy nó chỉ khép hờ tôi ẩy nó ra và bước vào phòng gọi lớn:
- Booth... Ê, Eddie Booth!
Tôi lại có cảm giác ở phía sau lưng như có ai đó đang trừng trừng nhìn tôi. Booth vẫn không trả lời, không thấy xuất hiện. Khi giáp mặt, hắn phải có lời xin lỗi và giải thích lý do chơi trò ú tim chết tiệt này. Nếu không thế, thì cái gã nào đó mà tôi cảm giác đang có mặt ở đây phải giải thích việc này.
Booth bị tấn công hết sức chính xác. Nếu không như vậy thì viên đạn sẽ không ăn ngọt sớt vào giữa trán của hắn!
Nằm ngửa, chân tay duỗi thẳng ở giữa buồng, miệng méo xệch, đôi mắt hắn trợn trừng như bật tròng ra ngoài đầy kinh khiếp. Máu đang rỉ ra từ một lỗ thủng tròn trên trán lan từ mắt nhểu giọt xuống chiếc áo trắng đọng lại thành một đốm lớn đỏ au nơi ngực. Kẻ giết người đã giúp Booth nhanh chóng rời khỏi cuộc đời không hơn vài phút đồng hồ.
Tôi băng ngang căn phòng tiến lại gần xác chết để quan sát nó rõ ràng hơn và đây là một hành dộng sai lầm hết sức lớn nếu không muốn nói là điên rồ.
Một tiếng động nhẹ mơ hồ và khô khốc phát ra từ phía sau và trước khi tôi có thời gian kịp quay lưng lại, thì một vật gì đó nặng trịch đổ ập lên gáy tôi. Cú đập này làm tôi hoang mang không rõ Cedric có thằng bà con họ hàng nào đang loanh quanh ở đâu đây.
Sau khi bị ngất lịm một lúc khá lâu, tôi không cho phép mình tiêu phí thời gian nằm nướng hết buổi chiều, nên uể oải mở mắt ra. Tôi phải hết sức khổ sở mới trỗi dậy được với cái đầu đau nhức như búa bổ và một cục u to tướng ở sau ót.
Căn phòng không thay đổi, vẫn yên lặng như tờ. Cái xác chết của Booth đã lạnh cóng, ruồi nhặng bắt đầu đánh hơi, một mùi tởm lợm đến buồn nôn đang lan tỏa khắp phòng. Tôi chậm rãi bước ra và khép cánh cửa lại phía sau lưng, cổ họng khô đắng, miệng lờm lợm.
Phía dưới, nơi một gian buồng ở cửa ra vào ăn thông với các dãy phòng khác, tôi mượn điện thoại gọi về Đội điều tra hình sự. Hammond đi vắng, nhưng Polnik vẫn còn trung thành với bàn giấy. Tôi nói vắn tắt sự việc xảy ra và về cái chết của Booth để hắn gấp rút đến nơi thụ lý nội vụ.
Tôi gác máy, thờ thẫn bước lên xe cắm sát vào tay lái gia tăng tốc độ với cái miệng đắng nghét, cái đầu lại đau nhức và tự ái xem như đã chết lịm rồi, tôi gắn thêm điếu thuốc không biết thứ mấy vào đôi môi khô cằn và sau vài cái rít sâu, tôi cảm thấy đầu óc bắt đầu tỉnh táo trở lại.
Dù rằng kẻ hào đó sau khi làm nguội Booth đã không CỊlilồn gửi tặng tôi món quà trên đầu to gần bằng quả trứng để giành đường thoát ra trước, thì đây chẳng phải là việc lạ lùng. Nó đã kiên nhẫn chờ tôi, còn tôi thì ngoan ngoãn chui đầu vào như đứa trẻ háo hức, vẫn còn được sung sướng là tôi trở ra với cục bướu phía sau đầu.
Nếu là một cớm có kỷ luật, ngay bây giờ trước khi quá trễ, tôi phải tức tốc thông báo hình dạng của kẻ sát nhân. Nhưng tôi tin tưởng một cách không chắc chắn lắm, rằng Talbot chưa nhận diện ra tôi, và do đó tôi sẽ đích thân tìm bắt hắn một cách dễ dàng, dĩ nhiên là tại khu nhà của Landis.
Một giờ sau đó hy vọng của tôi bị tan biến như bọt xà phòng. Nhân vật duy nhất hiện diện trong ngôi nhà là... cô hầu phòng.
Nghe tiếng chuông rung ngoài cổng, một cô gái trẻ có mớ tóc vén đuôi ngựa, mặc đồ trắng mỏng đang đứng bên khung cửa sổ, uyển chuyển những bước dài duyên dáng, ra mở cổng tiếp tôi.
Sau cái mỉm cười chào ý nhị, ả đỏng đảnh cho biết hôm nay là ngày nghỉ của Talbot và hắn sẽ trở lại làm việc vào đêm nay.
Tôi liếc nhìn cô ả khó chịu nhưng không nói gì, rồi quay lưng bước đi và nghĩ thầm: Được lắm, đêm nay ta sẽ đến.
Tôi tức tốc vòng xe trở lại thành phố, tìm quán ăn qua quít, rồi quyết định đến hộp đêm "Guốc Vàng".
Tấm bảng treo lủng lẳng trước cửa cho biết hộp đêm hoạt động vào lúc hai mươi mốt giờ. Đặt tay lên nắm đấm, thấy nó không khóa, tôi đẩy cửa bước lên các bậc thang dẫn xuống nhà hầm. Hai cậu trai nhỏ đang bận rộn xếp các dãy bàn ăn và trên bục diễn Clarence Nesbitt đang lơ đễnh bấm dây cây đại hồ cầm. Tôi tiến đến gần. Hắn nghếch mũi lên, nom thấy tôi, hắn ngưng bấm đàn.
- Chào trung úy - Hắn nói.
- Chào Clarence. vẫn mở cửa như thường lệ chứ?
- Việc này còn tùy thuộc vào dư luận của giới báo chí. Người ta có thể sẽ xua đuổi hết thực khách của chúng tôi ở đây chỉ cần bằng ngòi bút nhỏ và Minuit hy vọng sẽ không bao giờ họ làm như vậy.
- Tôi biết Minuit đã giở trò viết lách móc họng. Ví dụ như nàng cho dựng một hình nộm đứng trên bục diễn giả như cái xác chết với một đốm nước sốt cà chua ở trên áo của nó.
Clarence xoay tròn hai tròng mắt trắng dã ngắm tôi, miệng rên rỉ:
- Thật khổ hết sức! Chắc trung úy đang có dự kiến chôn sống chúng tôi bằng cách đó.
- Có thể anh đã xem báo hoặc ít ra cũng đã nghe nói cái gã bị giết đó tên là Johnny Landis, một tín đồ sùng bái nhạc Jazz và là thân chủ thường trực của hộp đêm này. Vậy anh có cần phải sửa đổi lời khai rằng không bao giờ trông thấy hắn, phải thế không?
- Chúng tôi không quan tâm đến những người khách ở đây, thưa trung úy. Giả thử có một nữ thoát
y sờ sờ trước mắt, chúng tôi vẫn không màng chú ý.
Chúng tôi trình diễn bởi vì trong máu đã có nhạc Jazz, vả lại vì sự sống hàng ngày. Ngoài cái đó ra, những gương mặt chỉ là những gương mặt mà thôi.
- Tôi biết. Cô O'Hara có ở đây chứ?
- Vâng. Trong phòng làm việc của cô ấy, thưa trung úy.
Bỏ mặc Clarence với cây đại hồ cầm của hắn ở đây, tôi gõ cửa phòng làm việc của Minuit O'Hara..
Một giọng phụ nữ khẽ khàng vọng ra:
- Mời vào.
Tôi đẩy cửa bước vào.
Ngồi nơi bàn trang điểm, cô nàng đang kẻ bóng môi. Nàng vẫn diện bộ y phục trong đêm đầu tôi gặp trên bục diễn, chiếc áo choàng đen có dát kim cương nhân tạo và những mảng vàng bạc hóa trang sáng lóng lánh.
Khi thấy bóng tôi được phản chiếu qua tấm gương hình bầu dục to sụ đặt ngay trước bàn phấn, cô nàng thốt ra một tiếng lớn:
- Ơ kìa! Hóa ra lại cũng là ông...
Giọng cô nàng chua như giấm.
- Có thể cô không muốn gặp lại tôi?
- Gần như một thứ thổ tả! Bây giờ ông muốn gì đây? - Giọng cô nàng khiêu khích thấy rõ.
- Muốn nói chuyện! Một cuộc mạn đàm song phương giữa hai người khác giới tính lúc nào cũng đậm đà lôi cuốn hơn là những lời đốp chát giữa đàn ông với đàn ông. Cô nhận thấy đúng chứ?
Qua khung kính tôi thấy một nụ cười có vẻ hững hờ thoáng nhếch nơi cánh môi dưới, rồi bất ngờ nó bật ra câu trả lời:
- Không! - Giọng đáp đanh đá dứt khoát đó dẫn theo một tràng giang đại hải - Vả lại lúc này tôi rất bận rộn với hàng tá công việc cần phải làm. Quả thật những bài tường thuật đăng đầy trong các cột báo đúng là những thỏi vàng người ta mang tặng cho chúng tôi. Rồi đây, đêm nay những thực khách kéo đến kết thành vòng tròn có tới vài chục ngàn không phải vì phàm ăn háu đói mà do những cái mồm há hốc ra như người ta chơi trò ném viên tròn...
- Và các cậu hầu bàn của cô có dịp đổ ra hàng tấn rượu đậm đặc để cô hốt bạc chứ gì?
- Trời ạ, ông có nên để tôi kiếm sống không nào?
- Vâng, hãy kiếm tôi, một công tử bột hào hoa ăn chơi bậc nhất đây! Vậy tôi dành cho cô một sự lựa chọn. Chúng ta có thể bàn bạc ngay bây giờ hoặc giả sau khi cô xong việc ở đây?
Minuit với tay lấy bao Marlboro nhón ra một điếu đầu lọc, dộng đầu thuốc lên mặt bàn, chậm rãi châm thuốc, rồi bất thần quay nhanh lại nhìn thẳng vào tôi, giọng cứng đanh:
- Có thể nói rõ hơn được không? - Cô nàng nói tiếp giọng thối thoát thẳng thừng - Xin báo trước, tôi đã nói đêm nay tôi không rảnh rỗi. Có hàng khối việc đang chờ tôi giải quyết...
- Tôi cũng thế cô nương ạ. Tôi không thể hy sinh thời gian quí báu của mình. Vậy, cô có cần tôi phải nói hai năm rõ mười như thế này không? Nếu cô cảm thấy không thoải mái để nói chuyện với tôi ở đây thì cô có cần tôi đưa về Bộ chỉ huy và ở đó chúng ta sẽ nói chuyện kéo dài trong nhiều giờ, được hay không? Nào xin cô cho biết giải pháp nào thuận tiện nhất đối với cô?
Cô nàng ném cho tôi một cái nhìn u ám, rồi quay mặt vào cái bóng của tôi in lồ lộ trong tấm kính hình bầu dục, cô lãnh đạm nói từng chữ:
- Được! Sau giờ tôi ca hát xong.
- Ở đây à?
- Không! Tôi không thích ở đây, tôi sẽ về sớm, không ngờ vực gì cả. Ông để cái đó ở đâu?
- Cái gì cơ?
- Phương tiện di chuyển để đưa tôi về nơi tôi ăn ở.
- Lạy chúa, nói có trời tôi cũng tậu được một xế hộp giống như tất cả mọi người. Nó là một xế cà tàng của một công ty mua bán trả góp và cho phép tôi được lái nó.
- Mặc xác nó! Vậy thì tôi gặp lại ông trước cửa quán vào lúc 12 giờ 15 đêm được không?
- Được quá đi chứ. Chốc nữa tôi sẽ quay trở lại đón cô.
- Một câu thôi, thưa trung úy.
- Câu gì nữa đó?
- Tôi còn phải nói điều này, đây là cuộc nói chuyện ngắn ngủi hoàn toàn nghiêm túc. Xin ông đừng mang ý đồ gì khác. Tôi thấy tốt hơn nên báo cho ông biết trước.
- OK. Hoàn toàn đồng ý, thưa cô Minuit O'Hara. Tôi vẫn gọi cô là Nàng Nửa khuya dẫu tôi phải chờ đến 4 giờ sáng.
***
Rời chỗ làm ăn của Minuit O'Hara, tôi tự hỏi mình có trật bàn đạp hay không hoặc giả chỉ thắng mới phân nửa. Mà có thắng được trọn vẹn đi chăng nữa thì tôi được đếch gì trong cái mớ bòng bong này. Như cái ruột đặc bị hở van, tôi xì hơi bằng thích. Tôi nguyền rủa chính bản thân, nguyền rủa thằng công tử Johnny Landis, lão bố bất nhân của hắn, lão cẩm bụng phệ khó thương Lavers. Cả lũ đều là thứ quỉ tha ma tất tần tật.
An tâm phần nào với những lời nguyền rủa đó, tôi đánh xe quay về hang ổ của mình.
Bây giờ là 20 giờ. Lột áo vét ra vất lên thành giường, mở nút áo sơ-mi kéo trễ cà vạt xuống, tay cầm điếu thuốc, hai chân duỗi dài lên tràng kỷ, tất cả những cái đó đã cho tôi cảm giác êm ái tiện nghi, một cái kén của mình. Trước dàn máy thượng thặng với những đĩa nhạc hiện đại và cặp loa tân kỳ đưa âm thanh truyền đi hai mét, tôi đang thả hồn theo một nữ danh ca nổi tiếng đương thời, lâng lâng diệu vợi. Tôi với tay lấy chai scotch nơi chiếc kệ chứa thức giải khát gắn vô tường cạnh tràng kỷ, chọn chiếc cốc pha lê sáng lấp lánh, rót rượu vào ly nằm nhâm nhi thưởng thức từng ngụm rượu.
Tôi đang mê ly vào giữa bản ca trữ tình thì điện thoại reo lên như sắp có đất lở hay nội chiến đến nơi. Mẹ kiếp, tôi uể oải bốc ống nghe trong tư thế của một kẻ bất cần đời, bất biết gì cả.
- Này, trốn chui trốn nhủi vào cái lỗ nẻ nào thế?
- Trời ạ, cũng cái giọng cộc cằn và ồm ồm quen thuộc, nghe đến phát bệnh ấy.
- Tôi đang thảo đơn xin thôi việc đây - Tôi đáp nhát gừng và không tin tưởng lắm.
- Anh có mặt ở đấy không, lúc Landis nói chuyện điện thoại với tôi?
- Vâng, thì tôi có mặt sờ sờ ở đó.
- Bây giờ tôi phải làm gì đây? - Lời của chánh cẩm Lavers - Lão đó bảo sẽ dàn trải chuyện động trời này trên bốn cột báo trong số phát hành vào sáng ngày mai. Cho đến lúc này, tôi có thể nói cứng với các ký giả đến bu quanh "Xin miễn giải thích", nhưng tôi phải làm thế nào đây để trả lời cho họ, khi tờ lá cải "Tribune" bốc thối om sòm vào sáng ngày mai?
- Có cái gì đó buộc sếp không trả lời cho họ "Cứt chó, lão Landis"?
- Có cái gì đó để anh không cho biết "Wheeler, trung sĩ gác đèn"?
Đến nước này thì tôi đành im bặt!
- Điều mà tôi không thể hiểu được - Lavers nói tiếp - tại sao lão về nhà vào đúng cái lúc anh sắp làm được cái gì đó?
- Sếp ơi, tôi sẽ xin nói chuyện này sau. Chỉ là một biện pháp cổ điển. Chính cái thằng quản gia trời đánh đó nhúng tay vào. Nó thổi cho lão già biết rằng tôi đang...
- Anh có thu thập được gì không nơi con bé... ngốc nghếch đó?
Về câu hỏi này tôi phải dừng lại một lát để suy nghĩ vì quá biết rằng những loại tình ái lỉnh kỉnh đó của tôi sẽ không làm Lavers bùi tai.
- Chẳng có gì là chính xác cả - Tôi trả lời - nhưng tốt hơn đừng nên vấp phải. Cô ả không thương xót gì Johnny Landis, nếu không muốn nói là ghét bỏ.
- Thông tin này chẳng bổ ích gì sất.
- Tôi hy vọng sẽ tìm ra một cái khác.
- Hãy cố gắng hết sức mình đi. Hãy trình diện tại phòng giấy của tôi lúc chín giờ sáng ngày mai. Không được bê trễ đấy, Wheeler!
- Rõ, tôi sẽ cố gắng, thưa sếp!
Tôi đáp và dập máy xuống, không chờ câu trả lời.
Nhưng ngay lúc đó, cái điện thoại chết tiệt không chịu im hơi, nó reo lên lanh lảnh. Tôi bốc ống nghe bực dọc nói, giọng càu nhàu:
- Thưa sếp được rồi, tôi đã rõ. Chín giờ sáng mai không được bê trễ.
Bên kia đầu dây, một sự yên lặng, không hề xảy ra như thói quen của quan cẩm Lavers, nhưng liền sau đó, một giọng nói rất căng thẳng hỏi vặn lại:
- Trung úy Wheeler?
- Ai ở đầu dây? Tôi hỏi lại.
- Talbot, thưa trung úy! - Giọng nói của hắn run run, rất nhỏ hầu như thều thào - Trời ơi, biết bao nhiêu tiếng đồng hồ tôi nôn nóng chờ đợi để được nói chuyện với ông. Thưa trung úy, tôi rất cần gặp ông ngay tức khắc...
- Được ngay! - Tôi đáp và cho hắn địa chỉ - Khi nào anh đến?
- Bằng mọi cách có thể được, thưa trung úy.
Sau câu đáp là một tiếng cạch đập nhẹ, báo cho biết Talbot đã cắt máy.
Thì ra, trong khi tôi bỏ công tìm kiếm để thộp cổ thằng sát nhân thì hắn sẵn sàng quay đầu đến đây một cách tự nguyện. Quả đúng lời thiên hạ nói: Chuyện đời có lắm cái bất ngờ, đố ai đoán ra được!
Tôi rót cốc Whisky thứ hai, ngồi vào ghế, tiếp tục những giây phút thoải mái nhất trần đời bị dang dở. Dư âm tiếng hát ngọt ngào truyền cảm của cô ca sĩ đương thời hoàng kim tiếp tục ru hồn tôi qua chiếc máy thu âm hiện đại. Tôi lim dim đôi mắt tận hưởng cái thú vị của gã độc thân tự do mơ tưởng các nàng tiên tóc vàng.
Mười phút sau tôi lại phải nhấc ống nghe lần thứ ba trong đêm yên tĩnh tuyệt vời và lần này cái giọng nói líu lo, rộn ràng và vội vã từ bên kia đầu dây không còn cách chi để tôi nhầm lẫn được. Cái giọng nữ cao đó có một lần khiến các dây thuộc hệ thần kinh tôi căng cứng ra, rồi bất chợt chùn nhũn xuống còn hơn của chủ nhân nó, cái giọng nói của chỉ riêng một người.
- Al, - cô nàng thỏ thẻ - em vô cùng hối tiếc khi nghĩ lại chuyện đó, những việc đã diễn ra vào buổi trưa hôm ấy. Em cảm giác có thể chết được vì xấu hổ. Em không rõ tại sao bố có thể trở về, lại về ngay lúc... sung sướng đó. Thật vô ích để giải thích việc này, vì bố chẳng hề để tai vào chuyện gì của em. Bố... đôi lúc ông ấy làm em phát sợ. Bố luôn luôn làm em sợ hãi, từ lúc em hãy còn là đứa trẻ thơ.
- Rena, đừng nên bận tâm về chuyện ấy nữa.
- Nhưng em vẫn băn khoăn. Phong cách đầy quyến rũ của anh đã làm em xúc động bồi hồi. Và... cái buổi trưa hôm đó...
- Ơ... mà thôi, được rồi - Tôi đáp không tin tưởng.
- Bố đi vắng, ông ra tòa soạn và chỉ trở về sớm lắm cũng vài tiếng đồng hồ. Gã quản gia ra bến cảng mới được mười phút, em nghĩ hắn không thể trở về sớm. Trong nhà chỉ có mình em, chẳng còn ai vào quấy rầy chúng ta. Al, hãy đến ngay nếu anh còn thích em!
- Rena, anh lấy làm tiếc, nhưng anh không thể đến được, em ạ.
- Em cũng rất tiếc. Em đã chứng minh cho anh thấy hết cả rồi, rằng những tình cảm sôi bồng của em không thể đè nén được, khi đứng trước mặt anh. Nếu em xua đuổi được nó thì thật là cao cả biết mấy, nhưng đằng này nó quá phức tạp. Trong khi đó, em chủ trương chống lại các dồn nén tình dục. Thế nên, em nghĩ...
- Vâng, vâng anh hiểu. Em đã giải thích rất cặn kẽ rồi mà.
- Ôi, đúng là một sáng kiến - Nàng reo to đầy thích thú - Tại sao em không đến chỗ của anh chứ?
- Ý kiến rất hay đấy. Chừng nào em đến?
- Trong vòng hai mươi phút. Địa chỉ của anh ở đâu. Al?
Tôi cho nàng số phòng và nàng gác máy.
Liếc mắt nhìn đồng hồ, bây giờ là hai mươi mốt giờ đúng. Talbot sẽ đến đây không biết lúc nào, còn Rena thì trong vòng hai mươi phút nữa. Tôi lại có cái hẹn với Minuit vào nửa đêm nay.
Rõ ràng đêm thơ mộng của tôi đã bị đóng khung cứng ngắc vào những cái hẹn chết tiệt này. Một đêm thế là đi tong.
Tôi thay hai chiếc đĩa mới lên máy hát, chỉ còn quãng ba mươi phút để được thoải mái nghe nhạc và tôi được quyền uống thêm ba cốc Whisky nữa. Tôi mong được sếp tăng lương trước giây phút nặng nhọc phải đợi chờ này; nếu nói đúng theo ngôn từ của mấy cha luật sư: trước giờ tòa nghị án.
Các nhà viết tiểu thuyết thì gọi là tình huống cực kỳ căng thẳng, giả định như lúc Talbot đang thổ lộ tôi nghe những điều hắn đang u uẩn, thì đùng một cái Rena đẩy cửa bước vào. Tôi tin rằng cô ả sẽ nhảy dựng và la toáng lên đầy hốt hoảng khi biết bí mật đang bị phơi trần.
Tôi không mong đợi như vậy, nhưng mươi phút sau chuông cửa kêu leng keng. Tôi đứng vụt lên, bước nhanh đến cửa và xoay nắm đấm.
Cánh cửa vừa mở thì Talbot đâm bổ vào tôi như quả tạc đạn. Tôi chỉ còn kịp dang hai tay hốt gọn gã vào lòng, như một thủ môn tài tình đón bắt xuất sắc một quả bóng bất ngờ sút vô khung thành. Dầu vậy, ôm trọn gánh nặng này tôi cũng bị lùi lại mấy bước và cánh cửa đã tự động khép lại.
Tôi đặt Talbot nằm xuống nền gạch.
Có một lỗ thủng xuyên qua áo ba-đơ-suy nơi sau lưng hắn. Talbot đã tắt thở!
Mọi việc như diễn ra trong màn sương mù dày đặc.
Càng nhiều xác chết càng ít hơn những kẻ bị tình nghi. Tôi chán nản nghĩ thầm.