← Quay lại trang sách

Chương 3

Robert Townsend thức dậy trước khi chuông báo thức vang lên và nằm nghe ngóng trong bóng tối. Có thứ gì đó đã làm phiền giấc ngủ của cậu - một tiếng động phía bên ngoài. Một tiếng nổ ở xa nhưng nghe thấy rất rõ. Cậu liếc nhìn kim chỉ giờ trên chiếc đồng hồ đầu giường.

Sáu giờ hai mươi phút.

Đoàng. Đoàng. Đoàng.

Lại nữa. Cái quái gì vậy nhỉ?

Robert nhảy khỏi giường và bước qua những tấm ván lạnh lẽo để đến bên cửa sổ. Kéo rèm ra, cậu lấy tay áo ngủ của mình lau đi vết sương phủ mờ kính và chăm chú quan sát bên ngoài.

Ngôi làng vẫn vắng lặng. Cậu quét ánh mắt sang vùng bên cạnh, tìm kiếm nguồn phát ra âm thanh ấy.

Ở đằng xa, phía sau những rặng cây, một luồng ánh sáng rọi xuyên qua màn sương và đang càn quét khắp cánh đồng - là ánh đèn hồ quang của một chiếc khí cầu. Nhìn dáng vẻ thì đây là một chiếc khí cầu loại lớn, và là một vật thể bất thường xuất hiện trong thời điểm sáng sớm này.

Robert thuộc nằm lòng tất cả lịch trình bay. Bất cứ khi nào không phải làm việc, cậu đều thích tới chơi ở ga hàng không địa phương, nhà ga này chỉ chuyên phục vụ nhu cầu đi lại cho Brackenbridge và những vùng lân cận. Cậu có thể nhận ra những khí cầu nào đang bay vào không lộ, cậu có thể nhìn ngắm những anh chàng phi công đội trên đầu mũ bảo hiểm da gắn kính, mang theo mình các hộp dụng cụ, cả những hành khách khoác lên người bộ cánh du lịch bảnh bao nối đuôi nhau lên khí cầu. Cậu đã có lời thề rằng một ngày nào đó, cậu cũng sẽ lên khí cầu cùng họ, nếu khi ấy cậu có thể vượt qua nỗi sợ độ cao của mình.

Chiếc khí cầu này mang cho cậu cảm giác lạ lẫm. Từ kích cỡ và đường bay của nó, Robert cảm thấy đó không phải là một chuyến bay theo lịch trình. Khi sương mù tan đi, để lộ ra phần còn lại của cỗ máy ấy, cậu biết rằng mình đã linh cảm đúng. Cậu không thể nhìn được tên con tàu hay nhãn hiệu nào trên đó, nhưng con tàu có dáng vẻ của một mẫu khí cầu quân sự. Bầu khí màu bạc có khả năng phản chiếu ánh sáng của nó trông như đang đắm mình trong ánh trăng, khẩu súng phóng lao nhô ra từ một cửa sập trên thân tàu, và đằng trước giỏ khí cầu phủ kín những gai kim loại.

Đột nhiên, ánh đèn tìm kiếm của chiếc khí cầu tắt ngấm và nó bắt đầu chuyển hướng, bay lên cao hơn, lẩn vào những đám mây. Một tràng tiếng nổ nho nhỏ đặc trưng của súng trường vang lên ở cánh đồng bên cạnh, Robert quan sát thấy có ba ánh đèn đang sục sạo từ hướng khu rừng và dần lấp loáng xuôi xuống phía sườn đồi. Những người đó tập trung lại ở thung lũng và đi dọc theo con đường mòn về phía ngôi làng.

Có điều gì đó đang xảy ra và cậu cần phải biết đó là gì. Cậu với tay lấy chiếc quần đang treo ở cuối giường, xỏ chân vào và đeo vội dây đeo quần ra bên ngoài chiếc áo ngủ.

Khi đang loay hoay mặc áo khoác ấm, cậu nhìn ra ngoài cửa sổ lần cuối. May mà cậu đã làm như vậy, nếu không cậu đã chẳng nhìn thấy con cáo.

Con cáo đang lảo đảo đi dọc theo con đường nhỏ, vừa đi nó vừa nhìn về phía sau một cách căng thẳng. Khi tới thảm cỏ, nó dừng lại và lắc lư người, mắt liếc nhìn xung quanh, và đôi mắt nó hướng về phía dãy cửa hàng ngay bên dưới cửa sổ phòng Robert. Cậu có cảm giác lạ lùng nhất từ trước tới giờ, đó là con cáo đang đọc biển hiệu cửa hàng của ba cậu, nhưng điều đó là không thể, đúng không?

Con cáo gật đầu với chính mình và khập khiễng bước tiếp. Nó đi ngang qua nhà thờ và nghĩa trang có tường bao bên cạnh bãi cỏ của làng, rồi nó trượt chân ngã vào hẻm Pincher, đó là một ngõ nhỏ có nhiều bụi rậm, chạy phía sau dãy nhà của những công nhân làm việc ở ga hàng không.

Robert chờ đợi bóng dáng loạng choạng của con cáo hiện ra ở cánh đồng trông phía xa cuối con hẻm, nhưng nó đã không xuất hiện. Có lẽ nó đã trốn đâu đó trong con hẻm rồi, ở sân sau của một ngôi nhà nào đó chẳng hạn. Robert quyết định đi tìm nó.

Cậu xỏ bừa chân vào tất và giày rồi đi lấy nến đặt ở cạnh giường mang theo, sau đó cậu mở cửa và bước dọc hành lang, cố gắng đi thật khẽ để không đánh thức ba ở phòng bên cạnh.

Xuống đến chân cầu thang, cậu vén tấm rèm rách tả tơi ra và bước vào cửa hàng.

Mùi quen thuộc của nước đánh bóng đổ nội thất làm bằng sáp ong và tiếng tích tắc đều đều của những chiếc đồng hồ khiến bước chân cậu chậm lại lúc đi qua căn phòng. Hình dạng và âm thanh của từng chiếc đồng hồ in sâu vào tâm trí cậu quá đỗi, nên cậu luôn cảm thấy chúng thân thiết chẳng khác nào những người bạn lâu năm. Vào những đêm khó ngủ, cậu thường đi xuống ngắm đồng hồ và lắng nghe tiếng tích tắc của chúng. Nhưng hôm nay là ngoại lệ. Cậu với tay lên để ngăn chuông cửa rung rồi mở cửa và bước ra ngoài phố.

Làn sương mù xám xịt ảm đạm bao trùm không gian, cùng với nó là sự im ắng êm dịu của buối sáng sớm. Ở đằng xa, một con chó đang sủa vang bên kia cánh đồng. Cậu có cảm tưởng như mình là người duy nhất sống trên thế giới này.

Đầu tiên, cậu đi tới nơi mà vừa nãy con cáo đã đứng lại và nhìn về phía cửa hàng. Ở đó, trên nền đất lạnh giá, giữa những đám cỏ, cậu tìm thấy một bánh răng nhỏ xíu.

Chiếc bánh răng này giống loại cậu vẫn thường thấy ở những chiếc đồng hồ treo xe ngựa mà ba hay cho cậu sửa chữa, chỉ có điều chiếc này bị biến dạng và phủ đầy dầu máy, sờ vào nhớt như máu đặc vậy. Robert biết điều này có nghĩa con cáo là một cỗ máy vận hành kiểu lên dây cót.

Cậu lau chiếc bánh răng vào quần mình và đút vào túi, sau đó bắt đầu đi về phía bên kia làng theo tuyến đường con cáo máy đã đi.

Cậu đi qua nhà thờ và đang định đi về phía sau dãy nhà của công nhân ga hàng không theo lối con hẻm Pincher thì chợt nghe thầy tiếng nhiều bước chân vang lên từ ngõ nhỏ sau lung.

Cậu quay lại và nhìn thấy một con chó lớn có dây xích cổ, đây là giống chó hiếm, trông như giống chó chăn cừu Đức nhưng lại to lớn hơn. Khi con chó đến gần hơn, Robert nhìn thấy da nó phủ một lớp đinh tán. Thì ra là một con chó máy. Theo sau nó là bổn người đàn ông mặc áo choàng dài, trên tay họ cầm những khẩu súng trường và đèn xách tay, giống những chiếc đèn mà Robert nhìn thấy từ cửa sổ lúc nãy.

Robert tránh qua một bên nhường đường nhưng họ lại vây quanh cậu và cho con chó máy đánh hơi người cậu. Khi ngửi thấy mùi dầu từ túi quần ở đùi Robert, nó phát ra tiếng gầm gừ lớn.

“Yên nào!” Một gã đàn ông trong bọn ra lệnh cho con chó.

“Mày có nhìn thấy thứ gì đi ngang qua đây không?” Một gã khác hỏi Robert.

“Có thấy gì đó bất thường không?” Gã thứ ba chêm vào.

Gã đàn ông thứ tư thì không hề hé răng nói gì, hắn chỉ trừng mắt đứng nhìn.

Robert quyết định không trả lời câu hỏi của đám người kia. Cậu không ưa vẻ ngoài của họ.

Một gã to lớn với bộ râu màu hung đỏ đi tới, tay cầm một khẩu súng trường. Thân mình hắn rất thô kệch, nhìn như chiếc túi đựng đá vậy. Hắn sẽ trông giống hệt một cái máy nghiền đá nêu không có chiếc mũ sắt của cảnh sát, đè lên cái cổ áo dựng đứng của hắn là đôi má đỏ lựng lên như chiếc xúc xích bằng máu căng phồng.

Nhưng điều khiên Robert nuốt nước bọt sợ hãi chính là đôi gương màu bạc gắn vào hốc mắt của gã đàn ông. Từ đôi gương ấy có những vết sẹo dài chạy chéo xuống má của hắn và chạy lên tận phần phía trên khuôn mặt bị che lấp bởi vành mũ.

“Mày là ai?” Gã đàn ông hỏi, hắn chúi cái mũi có tĩnh mạch nổi gồ lên của mình xuống cho tới khi khuôn mặt của Robert hiện ra và phản chiếu vào con mắt như tâm gương của hắn.

Những lời Robert muốn nói cạn khô trong cổ họng cậu. Cậu hít một hơi thật sâu. “Cháu sống ở đây, thưa ngài.” Cuối cùng cậu cũng xoay xở nặn ra được mấy từ.

“Mấy anh bạn này của tao đã hỏi mày có thấy gì bất thường đi ngang đây không.” Gã đàn ông với bộ râu màu hung đỏ gãi gãi hốc mắt của hắn, sát gần con mắt như tấm gương bên phải.

“Như là cái gì cơ ạ?” Robert hỏi, giọng của cậu nghe như tiếng thì thầm bị nghẹn lại.

“Một con cáo.” Gã đàn ông mím đôi môi mỏng của hắn thật chặt. Trông như thể hắn đang định tiết lộ điều gì đó nữa, nhưng rồi hắn quyết định bỏ qua. “Thôi bỏ đi.” Hắn chọc ngón tay to bè vào Robert. “Biến về nhà mày đi.”

“Cháu có nhìn thấy con cáo của các ngài chạy đường kia.” Robert đột ngột nói và chỉ về phía cuối con phố dẫn ra khỏi thị trân.

“Mày chắc chứ?” Đôi mắt gương của gã đàn ông không để lộ ra điều gì nhưng có vẻ hắn chưa bị thuyết phục. Hắn liếc xuống con chó đang hung hăng kéo căng sợi dây xích về phía con hẻm nhỏ.

“Vâng.” Robert trả lời. “Cháu nhìn thấy nó từ cửa sổ nhà mình.”

“Cửa sổ nào?”

“Một cái cửa sổ ở đằng kia ạ.” Cậu chỉ về hướng dãy cửa hàng phía bên kia làng, cố tình chỉ kiểu mơ hồ chung chung, phòng khi đám người này muốn quay trở lại.

Gã đàn ông có bộ râu màu hung đỏ gật đầu. “Cảm ơn oắt con. Bọn tao đi đây, mày cũng nên về đi. Một thằng nhãi như mày không nên ra ngoài vào buối sáng tháng Mười một lạnh như thế này khi mà bên ngoài đầy rẫy nguy hiểm.” Hắn quay đi, những kẻ khác và con chó cũng đi theo.

Robert chầm chậm đi về hướng nhà mình, vừa đi vừa quan sát đám người kia để đảm bảo họ đi đúng đường cậu chỉ. Họ nhanh chóng đi hết ngôi làng, nhưng khi tới ngôi nhà cuối cùng phía bên trái, họ dừng lại, vẻ bối rối. Con chó dường như đã bị mất dấu đối tượng, và nó đang đi lòng vòng xung quanh không định hướng, cố gắng hít ngửi tìm kiếm.

Trong một thoáng, dường như họ định quay lại, nhưng rồi con chó máy kia lại kéo họ đi tiếp. Khi họ đi qua hàng rào cuối cùng của ngôi làng, một chiếc xe chạy bằng hơi nước xuất hiện ở rìa khu rừng, khói tỏa ra từ ống khói của xe. Gã đàn ông râu màu hung đỏ chỉ tay về phía chiếc xe ra hiệu, và cả nhóm tách ra, bốn gã đàn ông còn lại hối hả đi tiếp cùng con chó, còn hắn thì đi bộ ngược trở lại thị trấn.

Robert quyết định náu đi, cậu sẽ tìm con cáo sau khi gã kia đi khỏi. Ngoài ra, cậu còn cả đồng việc linh tinh phải làm trước giờ mở cửa hàng. Tốt hơn là nên tùy cơ ứng biến.

Khi cậu về tới nơi, ánh ban mai đã chiếu sáng mặt tiền cửa hiệu đồng hồ, xua tan làn hơi sương còn sót lại và khiến những chiếc đồng hồ phía sau cửa kính sáng lên lấp lánh.

⚝ ✽ ⚝

Gia đình Robert sở hữu Cửa hiệu Đồng hồ của nhà Townsend từ năm đời nay. Mặt tiền đơn điệu và bảng hiệu kiểu cổ của cửa hàng chẳng có chút liên quan nào đến sự tôn nghiêm của thánh điện thời gian bên trong nó cả. Những chiếc đồng hồ treo xe ngựa, đồng hồ quả lắc, đồng hồ cúc cu, những chiếc phong vũ biểu lấp kín đến từng centimet trên bức tường, và ở phía sau là một cái đồng hồ cụ cố với quả lắc bằng vàng, chiếc đồng hồ ấy đã từng thuộc về ông nội của Robert. Ở chính giữa phía trước là một quầy gỗ với ngăn kéo nặng màu bạc. Robert dành phần lớn thời gian trong ngày của mình ở phía sau quầy này.

Cứ khi nào mặt trời chiếu sáng, giống như sáng nay, những chiếc đồng hồ mặt kính sẽ phản chiếu vô số họa tiết ánh sáng kỳ ảo lên khắp các bức tường. Và ngày ngày, bất kể thời tiết mưa nắng thất thường ra sao, chúng luôn lấp đầy cửa hàng với những tiếng tích tắc, tích tắc. Âm sắc đa dạng của chúng tạo nên một bản hòa tấu độc đáo trong không gian cửa hàng.

Ba của Robert, ông Thaddeus Townsend, sẽ đi vào cửa hàng vào đúng lúc này khi cậu đang làm việc. Ông là một người thấp bé với đường nét khuôn mặt hài hòa tinh tế, đôi mắt xanh biếc như nước trông to lớn hơn bình thường bởi đôi mắt kính phóng đại mà ông đeo khi điều chỉnh đồng hồ.

Mọi người tìm đến ông Thaddeus để nhờ ông sửa chữa tất tần tật những thứ linh tinh, không chỉ đồng hồ đeo tay hay đồng hồ treo tường, mà còn cả những thiết bị khác nữa. Nào là những chiếc phong vũ biểu, đồng hồ bấm giờ, hộp phát nhạc, thậm chí đôi lúc có cả những loại máy móc đơn giản, ông Thaddeus sẽ tháo rời chúng ra và dốc tâm dốc sức sửa chữa chúng.

Nếu có một cỗ máy nào đó khiến ông mê mẩn, thường ông sẽ chỉ lấy tiền công bằng với chi phí mà thôi. Trên cương vị một người thợ máy lành nghề, một thợ điêu khắc và một bàn tay lão luyện trong việc xử lý những chi tiết nhỏ bé, ông luôn say sưa kể với mọi người rằng công việc này cũng đầy tính nghệ thuật, chẳng thua kém gì nếu so với việc làm ra những tác phẩm điêu khắc và hội họa tuyệt đẹp. Khách hàng quý mến ông bởi ông là người tận tâm. Họ tìm đến ông từ khắp mọi nơi trên đất nước này, hưởng lợi từ những năng lực của ông và chẳng bao giờ phải trả công xứng đáng với giá trị của sức lao động.

Ba của Robert có quá nhiều tài năng, cậu ước gì ông có thể đóng cửa hàng và chuyển gia đình tới một nơi nào đó, nơi người ta trả giá tương xứng cho công việc của họ. Hoặc, cậu sẽ sướng phát điên nếu được làm công việc sửa chữa những động cơ ở ga hàng không, hoặc phục hồi những con thú máy. Vậy nhưng, ông Thaddeus lại thích cuộc sống bình lặng ở Cửa hiệu Đổng hồ của nhà Townsend.

Mọi sự đều đã định sẵn, Robert cảm thấy mình được sinh ra để mãi mãi là người thợ đồng hồ học việc, đó là điều đáng xẩu hổ, bởi vì đơn giản là cậu không giỏi làm công việc này.

Một thằng đại ngốc - đồng ý cả hai chân hai tay luôn - đó là những gì cậu nghĩ về bản thân mình. Giờ cậu đã mười ba tuối rồi, và dù cho có cố gắng làm việc chăm chỉ thế nào chăng nữa, cậu vẫn không bao giờ có được sự tinh tế cần thiết mà công việc sửa chữa những cỗ máy nhỏ xinh này đòi hỏi, hoặc không đủ sự tinh tế cần có trong việc xử sự với khách hàng, thực tế là như vậy.

Thực ra không phải lúc nào cậu cũng như vậy. Khi còn bé, cậu từng là một học sinh hăng hái, lanh lợi và xông xáo, luôn luôn ham học hỏi mọi điều. Nhưng vài năm trở lại đây, cậu nhận thấy càng lớn mình càng hậu đậu vụng về. Cậu liên tục để dụng cụ nhầm chỗ, hoặc làm rơi những chiếc răng truyền động chính xuống mấy khe nứt trên sàn nhà.

Buối sáng hôm nay, chỉ một tiếng sau khi trải nghiệm tất cả những phấn khích với mấy gã đàn ông và con cáo, cậu đã làm hỏng một cái đồng hồ treo xe ngựa quý giá. Cậu lên dây hơi quá tay khi đang ngẩn ngơ mơ mộng về con thú máy và chiếc khí cầu, và khi nhìn xuống cậu thấy răng đồng hồ đã đi chệch vào cơ cấu tang trống mất rồi.

“Ba nói với con bao nhiêu lần rồi hả?” Ông Thaddeus bảo (Robert đêm được đây là lần thứ một trăm mười ba ông nói câu này). “Bảy vòng rưỡi, một lần lên dây cót là bảy vòng rưỡi cơ mà.” Ba cậu chưa bao giờ nổi cáu, nhưng lần này thì có. “Giờ ba sẽ phải tháo tung cái tang trống ra để kiểm tra nó chi tiết. Chỉ riêng mấy bộ phận mua mới thôi cũng tốn kém hơn cả phí sửa chữa.”

“Con xin lỗi.” Robert lẩm bẩm. “Chắc con đã đếm nhầm.”

Ông Thaddeus bỏ kính ra và lấy tay véo sống mũi. “Trên đời này có rất ít thứ mong manh giống như đồng hồ, Robert ạ. Hãy học cách cẩn thận hơn đi.”

Robert thở dài, và ông Thaddeus nhún vai. “Không sao đâu, kiểu gì ba cũng sẽ biến con trở thành một thợ đồng hồ giỏi thôi mà. Nhưng có lẽ hôm nay con nên làm việc đằng sau quầy một lúc, cho tới khi tự tin trở lại.”

Robert làm theo những gì ba bảo, nhưng một lúc của cậu biến thành những hai tiếng, rồi gần ba tiếng, và trong suốt quãng thời gian ấy, con cáo, chiếc khí cầu cùng gã đàn ông có bộ râu màu hung đỏ với đôi mắt nhu chiếc gương kia cứ xoay vần trong tâm trí cậu chẳng khác nào chiếc đồng hồ đang chạy.

Cuối cùng, sau giờ làm, khi đã có được những giây phút dành cho riêng mình, Robert mặc chiếc áo choàng dày lên, đội mũ và quàng khăn, sau đó bắt đầu đi khắp làng.

Cậu đi qua khu nghĩa địa có tường bao, nhà thờ và dãy nhà ở ga hàng không nằm trên con đường rải sỏi, rồi mới đi tới hẻm Pincher một lần nữa.

Chẳng cần nghĩ đến lần thứ hai, cậu đi tắt xuống dọc con đường mòn đầy bụi rậm. Các ô cửa sổ phía sau của những ngôi nhà vẫn tối thui, Robert liếc nhìn theo dãy tường sau cao vút, tìm kiếm một nơi mà cậu cho rằng một con cáo đang bị thương có thể lẩn trốn. Đi được nửa đường, cậu để ý thấy có một cái cổng khép hờ.

Sau cổng này có căn lều làm bằng gỗ cũ kĩ, nóc lều thò ra ngoài tường. Trong đó có khi là nơi trú ẩn của một con cáo đang hoảng sợ. Robert bước qua cánh cổng, đi qua sân, vượt qua một đông nông cụ gỉ ngoèn để tới được căn lều.

Khóa cửa đã bị hỏng. Chỉ vừa mới đây thôi, nhìn mà xem, then khóa treo lỏng lẻo bởi một vài cái vít và phần gỗ phía tên tay nắm đã bị gặm với dấu răng để lại còn mới. Robert mở cửa ra và cẩn thận che miệng lại để tránh bụi khi bước vào bên trong.

Những thứ lặt vặt làm từ gỗ dựng sát tường che đi lớp sơn tường bong tróc. Hàng chồng giấy báo lấp đầy những hàng kệ, và sàn nhà thì toàn những hộp đựng đổ nằm lăn lóc khắp nơi. Trên cái bàn cũ đặt ở giữa phòng, chai lọ xếp thành từng cụm, và ở bên trên, mạng nhện ken dày đặc trông như những cái võng ở đỉnh trần nhà tăm tối.

Robert nhìn quanh để tìm con cáo và thấy cái đuôi xơ xác của nó thò ra từ phía sau một hộp đựng than.

Robert bước vòng quanh một thân nổi hơi đã cũ và nhìn thấy phần còn lại của con thú máy, nó đang nằm cuộn mình trên một góc tấm thảm ố loang lổ. Đó là một con thú trông bẩn thỉu với đôi mắt bằng kính và bộ lông tả tơi như thể đang rụng từng mảng. Có một cái túi và một chiếc chìa khóa độc đáo dùng để lên dây cót đeo trên cổ nó. Robert bước về phía con cáo, nhưng nó chẳng mảy may động đậy. Nó vẫn nằm bất động. Con thú máy chưa được lên dây cót.