III
Cả khu nhà đều bất ngờ khi thấy Sương "trong nháy mắt" đã có công ăn việc làm. Luân được mọi người nhìn nhận khác hẳn. Người ta cho rằng: "Anh Luân tẩm ngẩm tầm ngầm" chứ thực ra thì "ghê" lắm. Hà gãi đầu gãi tai "phục Luân sát đất"! Còn anh Khoái thì bình luận: "Không ai giầu ba họ, không ai khó ba đời. Việc gì đến nó sẽ đến. Cứ bình tĩnh nó sẽ đến, không việc gì phái hoắng lên cả!". Riêng Sương từ hôm tới nhận việc ở cơ quan, cô trở nên tươi tắn và sinh động. Chỉ sau một tuần người ta thấy Sương làm đầu lại. Rồi một tuần nữa, Sương diện quần bò, áo thun. Có thể nói, trong cái tháng đầu tiên đi làm ấy, Sương thay đổi "một cách khủng khiếp", theo cách nói của Hà. Chiếc xe cũ của Sương được thay bằng chiếc Mipha mới. Tối tối cô đóng cửa ở nhà, hai mẹ con ríu rít. Cô gần như không qua lại, tiếp xúc với ai, kể cả vợ chồng Luân. "Tiền đâu mà son phấn, mà quần áo, mà xe cộ như thế?", một hôm Vân hỏi chồng. "Kiểu này khéo không làm phúc phải tội", - cô nói thêm. Luân bắt đầu cảm thấy hoang mang, suốt ngày ngong ngóng mong Xoay về. Nhưng Xoay mới có thư xin phép cơ quan ở lại thêm một tháng nữa. Đã vài ba lần Luân đến cơ quan Tín tìm gặp bạn, nhưng người ta nói Tín đi miền Nam! Luân cứ áy náy mãi về sự thay đổi của Sương, nhưng không tiện hỏi thẳng. Chẳng lẽ lương của xí nghiệp ấy lại lớn thế à? Không, nhất thiết không phải. Vậy thì vì sao Sương có những thứ đắt tiền ấy? Luân còn nghe các bà trong khu nhà kháo nhau, dạo này Sương chỉ ăn tối ở nhà, còn sáng và trưa chủ yếu ăn tiệm. Trong bàn nhà Sương bày la liệt nào bơ sữa, bánh trái, nào đồ chơi ngoại, bé Phương bụ bẫm hẳn ra. "Thế thì còn gì bằng, chuyến này ông Xoay về tha hồ xài đồ Tây, khỏi phải chạy vạy, đúng là "thân cư thê" rồi còn gì?". Đấy, toàn là những lời bình phẩm kiểu ấy nghe mà sốt ruột! Thậm chí người ta còn bảo "Cái nhà ông Luân thế mà khéo mối manh... ". Luân để ý thấy Sương có vẻ phớt đời, không thèm để ý tới những dư luận, có hôm cô còn trêu tức mọi người bằng cách đem về một mớ kẹo cao su chia cho tất cả trẻ con trong khu nhà. Cứ để tình trạng này kéo dài đến khi Xoay về thì thật bất lợi. Luân và Hà bàn tính và hai người quyết định gặp Sương nói chuyện. Sương ra vẻ ngạc nhiên thấy hai người gõ cửa. Rồi cô bày bánh kẹo, thuốc lá pha trà "mời hai anh xơi". Hà vò đầu vò tai nhăn nhó nhưng lại không nói được gì. Luân ra giọng liền anh, lên tiếng trước:
- Hôm nay bọn anh muốn nói chuyện với cô, chắc cô biết bọn anh muốn nói gì?
Sương cười, mở bao thuốc Hêrô ép hai người phải cầm hút, rồi nói:
- Em hy vọng hai anh không nghĩ xấu về em như một vài người khác.
- Cô có biết những thay đổi của cô đã buộc người ta phải đặt vấn đề không?
- Có lẽ họ muốn em cứ phải sống dụi dọ mãi - Sương nói cứng cỏi. - Nếu vậy thì em không chấp!
- Nhưng với tư cách là bạn thân của chồng cô, chúng tôi hỏi, cô có chấp không? - Luân cau mặt, nói.
- Ai chứ với anh Luân thì không bao giờ em quên ơn - Sương nói giọng chân tình - Có thể nói anh là người đã cứu em.
Luân ngắt lời Sương:
- Việc giúp đỡ nhau vừa là tình cảm, vừa là trách nhiệm. Cô không được phép nghĩ xấu về chúng tôi.
- Anh Luân!- Sương kêu lên - Sao anh lại nói nặng với em thế?
- Theo tôi, cô nên nghĩ tới người khác một chút. Sống vô trách nhiệm thế, người ta gọi là bạc đấy.
- Theo em, các anh nên nhìn nhận con người từ nhiều phía. Nếu chỉ thấy mặt trái, mặt xấu thì thật khó mà nói chuyện với nhau được!
Luân giận dữ đứng lên, nói:
- Không ai hình dung được cái gì đã khiến Sương thay đổi đáng sợ thế.
- Các anh là nhà văn, lẽ ra các anh phải hiểu trước em.
- Cô không được phép ăn nói xách mé thế...Luân ném điếu thuốc hút dở qua cửa sổ, nói. Cô hãy trả lời vào câu hỏi của tôi. Cái gì khiến cô thay đổi đáng sợ thế?
- Thưa anh. - Sương nói giọng mỉa mai - Thực ra là vì đời sống nó dạy cho. Chẳng ai dạy cho mình sáng mắt ra bằng cuộc sống đâu anh ạ.
- Nhưng giữa lúc chồng cô đi công tác.
- Anh thông cảm - Sương ngắt lời Luân - Cái việc đi công tác của anh Xoay là hoàn toàn do anh ấy thích đi, cơ quan không yêu cầu. Em biết... Thực ra anh ấy... Chạy... trốn...
Hà đứng lên, hai tay cào đầu như thể trong mớ tóc bù xù ấy chứa chất những nỗi nhọc nhằn và buồn chán. Anh lẳng lặng bước ra cửa.
Sương ngồi gục mặt vào thành bàn khóc. Luân nói nhẹ nhàng:
- Cuối cùng thì anh cũng phải hỏi thật Sương, rằng có đúng là em bị Tín nó mê hoặc không?
Sương ngửng phắt lên nói:
- Anh không được nói về anh Tín như thế! Anh Tín không xấu như các anh nghĩ đâu.
- Thế có nghĩa là cô yêu nó?
- Anh không nên nghĩ rằng, anh cứu em thoát khỏi vòng vây, rồi anh muốn em thế nào cũng được. Cả anh Xoay nữa, em nói thật, các anh là những người cực tốt. Mấy năm nay em bị lòng tốt của các anh bao vây đến ngột ngạt rồi. Hãy để cho em được sống!
Luân cảm thấy bức bối. Anh hầm hầm bước ra khỏi nhà.
- Cô là một người đàn bà vĩ đại! - Hà nói rồi bước theo Luân. Hai người đàn ông đứng ngờ nghệch trên hiên. Trời tối và âm âm nóng. Tiếng Sương thút thít khóc trong nhà khiến Luân không chịu được. Anh quay vào, nói:
- Sương ạ, anh không hình dung được rồi đây cô sẽ sống thế nào. Tín là bạn anh. Xoay cũng là... bạn anh... Chúng nó đều là những người tốt... Nhưng em...
- Em biết - Sương tiếp - Em có lỗi với các anh. Nhất là đối với anh và Xoay. Nhưng các anh không biết rằng, hiện nay em đang phải lo bao nhiêu là việc. Bố em sắp chết! Anh Luân ạ...- Sương nghẹn lại một lúc tiếp - Anh Luân ạ... Nhà em đang lâm vào tình trạng mà nếu chỉ chờ lòng tốt không thôi thì thật... tàn nhẫn quá! Anh tưởng em sung sướng lắm à? Các anh nhầm...
- Sương,.. Ông cụ trên nhà thế nào?- Luân kêu lên.
- Hiện nay anh Tín đã đưa giúp cho bố em vào bệnh viện Việt Xô - Sương nói bình thản.- Em không thể chờ anh Xoay được. Bố em cũng không thể chờ chàng rể đem thuốc tốt bụng về chữa bệnh... Thôi, anh thông cảm cho em. Dù sao thì Sương cũng có lỗi với anh Xoay, với anh... Nhưng bây giờ thì em buộc phải tỉnh táo hơn để tự quyết định lấy cuộc sống của mình, hạnh phúc của mình. Các anh thương em thì để cho em sống. Còn tùy các anh, các anh muốn gọi Sương là gì cũng được... Chúng ta không thể cứ tồn tại trên cái đà tiêu phí lòng tốt một cách phù phiếm...
Luân ngồi thuỗn người nhìn Sương vừa khóc vừa nói. Anh có cảm giác cô gái ngồi trước anh đây không còn là Sương nữa...
- Em sẽ đi khỏi nơi này...- Sương tiếp - Em sẽ thu xếp, cố không để xảy ra điều tiếng gì phiền tới các anh.
- Sương đi đâu?
- Em xin lỗi anh Luân, điều ấy anh đừng hỏi Sương.
- Thế còn bé Phương?
- Anh yên tâm. Con em em không để cháu khổ là được.
Luân buồn bã đứng lên không nói gì. Sương cũng lau nước mắt rồi vào phòng trong bế bé Phương ra.
- Thôi, anh về.
- Vâng, em chào anh.
Ba ngày sau, không phải chiếc xe của Tín tới đón Sương mà là chiếc U oát của xí nghiệp G. Người lái xe sốt sắng giúp Sương chuyển đồ đạc trong khi Sương bế bé Phương tới từng nhà chào. Cô giải thích rất gọn là: "Mẹ con cháu lên cơ quan cho tiện. Chờ bố cháu về sẽ tính sau..."
Buổi sáng hôm ấy người ta không thấy Hà và Luân đâu cả.
***
Cũng đúng vào những ngày ấy, ở một cánh rừng khộp phía bên kia biên giới, Xoay đang cùng một tiểu đội trinh sát của mặt trận đi kiểm tra lại địa hình trước khi bàn giao cho bạn. Mùa khô năm nay kéo dài đến không ngờ. Họ dự tính cuộc hành trình mất 10 ngày, theo như bản đồ và kinh nghiệm của các cuộc hành quân trước. Đã hơn chục năm nay xa rừng núi, với những cuộc hành quân bộ, xa cảnh ăn gạo sấy với cá chuồn khô, mắm kem, Xoay trở nên gầy tọp và đen thui. Tuy nhiên anh cũng đã trở nên cứng cỏi hơn dưới cái nắng như nung trong rừng khộp, mỗi bước chân chạm phải lá khô giòn và sỏi rát bỏng đến rợn da gà. Các chiến sĩ trinh sát vốn rất ưu ái các nhà văn, nhà báo, hôm bắt đầu triển khai cuộc hành quân họ đề nghị Bộ chỉ huy mặt trận tiền phương giữ Xoay ở lại phía sau. Nhưng anh nhất quyết xin đi. Không những thế anh còn đòi được trang bị ngang bằng các chiến sĩ: nước, gạo sấy, mắm kem, cá khô, mì chính, muối hầm và đặc biệt là AK báng gấp và lựu đạn... Mới đầu Xoay dự tính sẽ ghi nhật ký hành trình thật tỷ mỉ, để sau này viết bút ký. Những ngày sang đây cùng anh em, Xoay đã ghi chép được khá nhiều, nhất là những giai thoại về những người lính "chưa có một ngày hòa bình". Và giờ đây, trước khi kết thúc chuyến đi, anh muốn được "nếm mùi căng thẳng" cùng anh em, ít nhất là một cuộc "phiêu lưu trong rừng khộp" như cách gọi của chiến sĩ. Có cái gì đấy vừa kiêu hãnh lại vừa như "sám hối" trước những người lính trẻ, anh quất ba lô lên vai không chút do dự. Các chiến sĩ gọi anh là "thủ trưởng", mặc dù trong đội hình, Xoay cũng chỉ được phân công như một tay súng. Qua ngày đầu tiên của cuộc hành trình, Xoay cảm thấy sức lực của anh không đến nỗi nào. Dưới con mắt của một vài chiến sĩ hôm qua còn nghi ngại, giờ đây đã khác hẳn. Anh trở nên gần gũi với họ và họ cũng trở nên gần gũi anh hơn. Nhưng đến ngày thứ hai đôi bàn chân Xoay đã phồng rộp. Mặc dù vậy, anh vẫn cố không để lộ sự đau đớn ra mặt. Các chiến sĩ biết rất rõ điều đó, và họ đã ý tứ phân công nhau để ý tới tình hình "thủ trưởng nhà báo". Xoay thầm biết ơn những cử chỉ thông cảm của họ. Anh không thể hình dung được, suốt hai ngày hành quân đằng đẵng chỉ gặp một con suối khô với một hai kẽ đá còn đọng nước dưới lòng suối. Số nước trong bi đông 5 lít của họ còn đủ cho cuộc hành trình tiếp tục sang ngày thứ ba.
Và họ nhận định, khoảng giữa trưa ngày thứ tư nhất định sẽ tới suối Y. Xoay đã được các chiến sĩ mang giúp phần gạo, và anh nhận thấy trong ánh mắt của từng người, vừa có sự ái ngại lại cũng có cái gì đấy như trách móc. Không, Xoay sẽ không để anh em phải thất vọng về mình. Suốt mười năm chống Mỹ, chưa một lần anh để đồng đội phải gợn chút nghi ngại, dù có lâm vào hoàn cảnh nào. Điều ấy luôn nhắc nhở Xoay. Cuộc hành trình ngày thứ tư là điểm cao của sự thử thách của thiên nhiên đối với sức chịu đựng của con người. Họ bước đi miệt mài với một hy vọng, rằng phía trước họ là con suối mát. Rằng họ sẽ vục bi đông xuống và lắng nghe tiếng nước rào rạt chảy... Trong đầu mỗi chiến sĩ, con suối Y trên bản đồ luôn luôn hiện lên, mỗi lúc một rõ, một gần và mỗi lúc một thêm xao xuyến. Đã hơn ba ngày nay ăn cơm gạo sấy, cá chuồn khô, mắm kem, mồ hôi ướt đầm áo rồi lại khô, rồi lại ướt đầm. Phía trước họ là những tảng đá lớn trong lòng suối với những khe nước nhỏ, những chú cá trầu tinh khôn và những cây rau đay rừng. Phía trước họ là bát canh rau tàu bay, rau dền dại, rau vảy ốc nấu tập tàng... Phía trước họ là nước và bữa cơm nóng, giấc ngủ trên tấm ni lông trải sát chân những tảng đá trong lòng suối. Họ đi... Họ giẫm lên lá khô và sỏi cứng... Họ đi, quệt qua những túm lá le phơ phất và những tàu chà-là xanh gai góc. Đội hình vẫn nguyên vẹn, họ âm thầm bước, kiên nhẫn và quyết liệt. Có cảm giác như cái nắng rừng rực trên đầu kia khi cần một tia lửa nhỏ, thì ngọn lửa sẽ bừng lên thiêu cháy đất đai, thiêu cháy cả bầu trời. Có cái gì đấy vừa rùng rợn vừa trang nghiêm đang diễn ra trong lòng người lính. Cảm giác ấy khiêu khích và kích động họ. Họ cặm cụi bước, như không phải họ đang đi mà chính họ đang chìm ngập trong một cảm giác đê mê của sự chịu đựng. Họ tự biết, nếu giờ đây một trong số bảy con người ngã xuống, điều ấy sẽ gây nên tai họa khủng khiếp cho tất cả! Và giờ đây, chỉ cần anh đứng vững, chỉ cần anh lo được cho chính bản thân anh, tức là anh đã lo cho tất cả mọi người. ý tưởng ấy chợt hiện lên trong trí não Xoay và không hiểu sao, bỗng anh nhớ tới những đêm hậm hụi gánh nước, những thùng nước trong, và ánh mắt sáng ngời của Sương, khi cô xối những gáo nước chảy tràn trên thân thể nở nang tươi trẻ. Có lẽ ta nên tập trung vào một điểm nhớ, Xoay nghĩ. Hãy quên con suối Y nào đó đi. Đôi mắt trẻ thơ, đen lay láy của bé Phương bỗng ánh lên và đôi môi chúm chím của con kề bên bầu vú căng mọng đầy sức sống của mẹ. Những giọt sữa tinh khôi đọng trên núm vú và nụ cười của bé nhoẻn ra, khiến anh không kìm lòng được, chỉ muốn nhào tới ôm thật chặt, riết thật chặt niềm hạnh phúc thiêng liêng của mình. Vậy mà cái buổi sáng lên đường của anh hôm ấy... Cái buổi sáng mà suốt những ngày trên đất bạn gian khổ, mỗi khi nhớ tới, anh bỗng cảm thấy nhói đau. Không, tất cả chỉ xuất phát từ tình thương yêu... Sương thương yêu anh, muốn anh đỡ vất vả muốn anh ở nhà. Nhưng anh đã không thể ở nhà và vì thế Sương giận. Ôi sự giận hờn chứa đựng bao niềm thương yêu của người vợ muôn đời vẫn thế, nó luôn làm cho trái tim của các chàng trai trở nên mềm yếu... Nếu như Sương biết được giờ này, anh đang cùng đồng đội hành quân giữa cơn khát và nỗi lo âu cháy bỏng, hẳn Sương sẽ càng thương yêu anh hơn, càng hiểu anh hơn. Chúng ta đã từng vượt qua biết bao khó khăn, lận đận, để đến giờ đây, khi con chúng ta ra đời, còn gì hạnh phúc hơn mỗi lần nhớ, mỗi lần nghĩ tới nhau đều trỗi dậy niềm xao xuyến mà chính chúng ta không hình dung được. Em hãy cứ bán hết số gỗ ấy đi, hãy nhận lương của anh về và đừng bao giờ phải quá lo cho cuộc sống trước mắt. Sau chuyến đi này anh sẽ quay lại tỉnh K, nơi ấy bạn bè anh là Bí thư tỉnh, là Chủ tịch tỉnh, chủ tịch huyện, họ đã hứa sẽ giúp anh một khoản tiền nếu anh nán lại giúp cho tỉnh một vài công việc... Nhưng mà sao cái buổi sáng nặng nề ấy, trước khi bước ra cửa, anh đã quay lại, cúi xuống hôn thật lâu trên má trên tóc, trên người con... Anh đứng thẫn thờ một lúc lâu nhìn Sương ngủ. Không, Sương không ngủ. Giá mà anh cúi xuống hôn Sương... Giá mà anh cúi xuống nói với Sương một điều gì đó... Và có thể Sương cũng hồi hộp đợi chờ cái cử chỉ âu yếm thường tình trước lúc chia tay... Giá mà anh làm được điều đó...
- Thủ trưởng, cho anh em nghỉ chút xíu.
Tiểu đội trưởng Cần nhắc Xoay. Anh ngửng lên, gặp ánh mắt lo âu đượm vẻ thất vọng trên gương mặt tái xám cua người chỉ huy. Cần gượng nhoẻn cười đỡ ba lô giúp Xoay. Các chiến sĩ ngồi xuống tại chỗ. Rừng khộp trơ cằn không một bóng mát. Cuộc hành quân đã bị giảm tốc độ tới mức, khi vừa xem xong đồng hồ, Cần kêu lên:
- Trưa hung rồi!
Các chiến sĩ mỗi người một câu, rời rạc, mệt mỏi.
- Khát quá!
- Nghỉ luôn đây thôi!
- Đ. mẹ, nghỉ luôn đây cho chết khát à? Ráng lên chứ.
- Bây giờ mà có em thì cũng...
Cần lặng lẽ đi ngược đội hình. Anh cúi xuống lắc lắc bi đông nước của từng người, rồi anh ra lệnh:
- Các đồng chí tập trung hết bi đông lại đây!
Các chiến sĩ uể oải đứng lên, cầm bi đông nước của mình, đặt dưới chân người chỉ huy. Xoay cũng tháo bi đông của mình để vào cùng anh em:
- Đồng chí Chính lên dồn nước lại!
Phó tiểu đội trưởng Chính bước tới. Xoay giúp Chính dồn nước. Họ còn hơn hai bi đông nước to nữa. Cần đứng tựa vào thân một cây khộp, tuyên bố:
- Cứ tốc độ này chúng ta phải đi ba tiếng rưỡi nữa mới tới suối Y. Tôi không tin con suối này còn nước, vì hôm qua chúng ta đã hy vọng ở Suối M. Suối M. to hơn suối Y. địa hình vùng đó dốc hơn, vày mà cũng cạn khô. Tôi tin là chỉ có hồ S. vì ở nơi ấy tập trung nhiều con suối. Nếu hồ S. mà cạn thì cả vùng Đông Bắc này không tìm đâu ra nước nữa. Chúng ta phải tới đó. Ba tiếng rưỡi tới suối Y. Từ suối Y xuống hồ S. chừng hai tiếng.
- Quay lại thôi tiểu đội trưởng!- Một chiến sĩ kêu lên.
- Quay lại lãnh kỷ luật à?- Một chiến sĩ khác.
- Thôi, im mồm cho rồi các cha!
Cần bước ra khỏi bóng cây, cầm nắp bi đông nước Chính vừa đưa định uống, nhưng rồi anh quay lại, đưa cho Xoay:
- Mời thủ trưởng.
Xoay luống cuống:
- Ông uống đi. Mình không khát.
- Ai cũng khát - Cần nói - Vậy cho thằng Lã nhỏ nhất.
Lã run run đón nắp bi đông, ngửa cổ uống.
Im lặng.
Cần quắt tai Lã, nói:
- Tên là Lã mà chịu khát à?
Rồi anh quay lại với các chiến sĩ:
- Cấm đồng chí nào được bàn lùi. Tôi ra lệnh: Chúng ta tạm chốt lại ở đây. Hai đồng chí quay lại chỗ suối M, lấy nước khẩn trương gùi lên. Hai đồng chí tiếp tục đi lên suối Y. Nếu suối Y, có nước thì quay lại ngay. Nếu không có thì tiếp tục xuống hồ S. khẩn trương gùi nước về. Tổ một quay về do đồng chí Kim phụ trách. Tổ hai tiếp tục hành quân, do đồng chí Chính phụ trách. Tôi, anh Xoay và cậu Lã ở lại.
Im lặng.
Mỗi tổ một bi đông nước mang theo. Số còn lại cho ba người...
Im lặng.
- Tất cả rõ chưa?
- Rõ!
- Rõ!
Cần ngồi xuống bên Xoay, hỏi:
- Thủ trưởng có ý kiến gì không?
Xoay đặt tay lên vai Cần, nói ấp úng:
- Mình... Mình cám ơn... anh em.
Một dải mây trắng xóa lướt nhanh trên bầu trời. Có tiếng một cành khô gãy. Len lỏi trong một lùm le có nhánh mẫu đơn yếu ớt vương ra khẽ lá. Rừng thanh vắng đến lạ lùng.
***
Cơn khát bắt đầu hiện lên nguyên hình khi người lính dốc ngược bi đông, đón giọt nước cuối cùng. Xoay nằm ghếch đầu lên ba lô, tay giấu vào trong bụng. Anh không giám cựa mình, không dám động đậy, mặc dù trời đã bắt đầu nha nhá tối. Rồi trời tối hẳn. Vòm trời cao ngùn ngụt. Sao dày đặc. Cần và Lã cũng nằm im. Họ cố gắng giảm bớt mọi động tác đến mức tối đa. Sự im lặng đè nặng lên con người mỗi lúc một chìm xuống. Những cành cây khẳng khiu như những cánh tay cụt thỉnh thoảng ngo ngoe chập chờn ám ảnh Xoay. Thế là qua được một đêm, một ngày! Còn đêm nay và ngày mai nữa. Ngày mai nếu tổ cậu Kim không gùi nước lên thì thế nào tổ cậu Chính cũng gùi nước về! Ngày mai, cái ngày linh thiêng nhất và cũng là ngày đáng sợ nhất đối với họ. Giờ đây dù có muốn nói chuyện, họ cũng không hề ngồi dậy nói điều gì khác, ngoài sự mong mỏi đồng đội. Mà điều ấy thì ai cũng đã bộc lộ hết cả rồi? Mình hãy nghĩ sang điều khác, hoặc tốt nhất là không nghĩ gì cả! Hình như Xoay đã đọc được ở đâu đó một câu chuyện nói về ý chí, nhưng câu chuyện ấy kể về một nhà sư tự thiêu. Ông ta ngồi xếp bằng, tụng kinh, gõ mõ, cho tới khi ngọn lửa hóa ông ta thành một đống tro tàn! Điều ấy có thật không? Rồi một vị sư khác là võ sư. Ông ta sai đệ tử đặt ba cái ghế đẩu giữa sân, vị sư ấy nằm trên ba cái ghế, trong chừng một phút tọa thiền, đệ tử lần lượt rút ba cái ghế ra khỏi lưng ông ta! Có thật như thế không? Sao những việc ấy lại chỉ có các vị sư mới làm được? Rồi không hiểu sao Xoay bỗng ngược về quá khứ, cái quá khứ nặng nề nhất thời trai trẻ. Cơn khát đến điên loạn của Dụ quằn quại trên vai anh! Anh đã cố gồng mình lên đánh vật với Dụ khi cõng Dụ qua sông Ba. Chỉ còn vài bước nữa là lên tới bờ. Chỉ còn vài bước nữa thôi, vậy mà anh không đủ sức! Xoay bỗng cảm thấy gai ốc nổi khắp người và anh quyết dừng lại, không nhớ chuyện ấy nữa! Anh cảm thấy ngực nóng ran lên, và chừng như đang có một con rắn khoang bò lên cổ, con rắn rụt lại khi chạm phải đầu lưỡi nóng rực của Xoay, và nó cuộn khoanh lại tựa hồ một bối giẻ nhét cứng họng! Xoay bàng hoàng nhổm dậy nhưng không đủ sức, anh cố điều khiển trí não, không để nó lâm vào tình cảnh u tối đáng sợ vừa qua. Anh đưa tay lên đầu gãi và nhận ra mồ hôi tràn lên trán. Hãy để cho trí não bình thản, nếu không rất nguy hiểm. Xoay nghĩ. Nếu như bây giờ có một ngụm nước! Nếu như bây giờ có một trái chua! Nếu như hôm đi, anh nhét vào túi cóc vài quả chanh!... Không, làm gì có chuyện nếu như vậy. Suốt cả chục năm đánh Mỹ, chưa bao giờ Xoay lâm phải tình huống bất lực, đến nỗi chỉ còn nằm chờ sự may rủi thế này! Tại sao lại chờ may rủi nhỉ? Nhất định ngày may một trong hai tổ sẽ đem nước về! Cả chiều nay cậu Lã và cậu Cần mò lần tìm sự may rủi mà rừng khộp khô cằn không bố thí cho họ một nhúm rau nào. Không một thứ lá nào nhai được! Thế có nghĩa là chết, nếu như ngày mai cả hai tổ cùng không trở lại! Thần chết báo cho họ biết rằng, trước khi nó đến, nó đã sai con quỷ khát tới hút máu các người! Và giờ đây con quỷ khát đã châm vòi vào rồi đấy! Không, ý chí con người nhiều khi thắng hoàn cảnh! Bây giờ ngoài ý chí ra, không còn thứ vũ khí nào khác! Ta hãy nghĩ sang chuyện khác! Ta hướng mọi ý nghĩ vào trái bưởi chua, những múi bưởi mọng và chùm khế ngọt! Có một bài hát ngợi ca quê hương ngợi ca chùm khế ngọt! Chắc rằng tác giả bài hát ấy cũng từng trải qua cái cảnh khát cháy họng như ta bây giờ? Rồi những vại bia ánh vàng sủi bọt. Rồi những ly sinh tố lấp lánh đá. Rồi mía tím, cam vàng, những chùm dâu da rừng, những vạt lau và những giọt sương. Anh chợt nhớ có lần lên chốt các anh đã đào hố, chăng ni lông hứng hơi nước từ dưới lòng đất bốc lên... Sao khi chiều mình không nhớ ra nhỉ? Không phải chỗ nào cũng có thể làm như thế. ở đây lòng đất cũng khô cằn! Anh khẽ cựa mình và lập tức toàn thân co rúm lại khi bàn tay chạm phải tàu lá khộp khô. Tàu lá hình như vỡ tan ra, rắc lên mặt anh những mớ lông hăng hắc! Tại sao đêm xuống mà không có sương nhỉ? Anh chậm rãi co bàn tay khi cảm thấy có một cọng lá mát và anh đưa cọng lá lên miệng. Cọng lá đắng ngắt và anh vội vã nhè ra. Thôi, ngồi dậy! Ngồi dậy! Hình như trong túi còn mấy viên Polivitamin bọc đường? Anh mừng rỡ lần vào túi cóc và quả nhiên, mấy viên thuốc đã nhoe nhoét bết vào nhau trong bọc ni lông. Anh vội vã véo một ít cho vào miệng. Anh có cảm giác toàn thân run lên. Không thể âm thầm ăn một mình được. Anh lặng lẽ véo thêm một tí nữa cho vào miệng rồi nhoài sang chỗ Lã. Sao cái thằng Lã lại mò đi đâu rồi? Anh hoảng hốt nhìn quanh. Lã đang nằm sấp, úp mặt vào giữa hai rễ cây, thở khò khè. Lã đang ngủ? Anh chuyển sang chỗ Cần. Cần nằm co con tôm. Anh véo một tí thuốc khéo léo nhét vào miệng cậu ta. Cần choàng tỉnh và cũng như anh, cậu ta chóp chép một cách đầy khoái cảm. Không thể dừng sự sung sướng lại được, anh lay Lã dậy, nhét nốt phần thuốc vào miệng cho chú bé. "Thủ trưởng chu đáo quá!". Cần nói." Chu đáo cứt gì, may thì có?" Anh xé cái túi ni lông thè lưỡi liếm trước, rồi đưa cho Cần, Cần liếm xong trao cho Lã, Lã cho luôn cả vào miệng...
- Nếu thủ trưởng... buồn... đái... Cần nói.
- ừ, không được lãng phí.- Xoay tiếp.
- Tại sao không lấy muối ra ngậm nhỉ? - Cần nói.
Họ cùng rộn ràng hẳn lên. Nhưng muối cũng chỉ làm cho họ vui lên được rất ngắn. Cuối cùng Xoay lại phát hiện ra bên cạnh họ có một lùm cây, những chùm lá ánh lên trong cơn khát.
- Liếm sương!..
Cả ba cái đầu cùng xúm quanh lùm cây. Mặt lá chỉ giúp họ mát dịu chút đỉnh nơi đầu lưỡi, nhưng gây nên một không khí căng thẳng khác thường. Và người đầu tiên gục xuống dụi đầu vào trong lùm cây ấy là Lã, rồi đến Cần và sau đó là Xoay. Xoay còn đủ bình tĩnh cào những cọng cỏ khô ra khỏi cổ Cần và Lã, trước khi anh chúi đầu vào đám lá. Hình như Lã đang ngáy? Không phải. Lã thở khò khè thì đúng hơn. Anh cố hướng trí não vào một ý nghĩ nào đó bớt căng thẳng. Sáng mai... Cùng lắm là trưa mai, nhất định sẽ có nước? Chắc là gần sáng... Gần sáng... Và anh lịm đi trong ý nghĩ mơ hồ ấy.
Mặt trời chói chang như một quả cầu lửa bay là là trên những cành cây khẳng khiu chĩa ra những cánh tay cụt. Anh có cảm giác đầu đang bốc cháy. Trong khoảnh khắc của sự tỉnh táo anh trườn nhanh được tới chỗ ba lô của mình. Hình như cậu Lã chồm lên rồi ngã gục xuống đâu đó. Anh chỉ còn nhớ loáng thoáng là bóng Lã và Cần cùng lúc bị tung lên rồi cùng sập xuống... Một đám lửa ngùn ngụt cháy và sau đó là mưa! Mưa ào ạt, nhìn thấy mưa mà sao không có nước nhỉ? Ôi, mưa! Đúng là mưa mà khi hứng tay ra, bàn tay anh hình như bị cụt! Đúng là cụt tay rồi! Sao lại thế nhỉ? Mưa? Đấy, nước mưa đang rắc xuống đầu anh. Anh có cảm giác như nước mưa đang chảy vào miệng, ngọt lịm. Đúng là nước thật chứ không phải nằm mơ. Đôi môi khô nứt của anh giờ đây không còn nóng bỏng nữa. Hình như nó không còn sưng nữa. Đúng là nước đang chạy trong cơ thể anh. Hình như các mạch máu đang bắt đầu hoạt động. Và da thịt anh đang được nước xoa mát. Đúng rồi, đây này, hình như có cái bát "bê năm hai" đầy nước đang kề nơi miệng anh. Đúng thật rồi! Anh thầm reo lên. Anh ráng hết sức gọi Cần và Lã, và anh bị sặc...
- Hết chết rồi!
- Đã bảo nhà văn nhà báo theo anh em làm gì cho khổ.
- Chút xíu nữa thì anh em lãnh kỷ luật!
Xoay nghe được hết những lời bình luận ấy. Anh mỉm cười nhận ra Cần và Lã cũng đang hồi tỉnh. Anh giật mình khi thấy hai cánh tay anh tím sẫm và khô khốc...
Họ lại tiếp tục hành quân. Phía trước họ là hai chiến sĩ không rõ vì sao chưa thấy quay về. Họ không lường trước được rằng dưới lòng suối Y, vẫn còn những vũng nước trong các khe đá. Và hai chiến sĩ của họ cũng không biết rằng, chính vì có nước mà thú dữ đã tìm tới...
Những người lính bối rối nhìn tiểu đội trưởng ngồi phủ phục, ôm mặt khóc, gương mặt họ cũng sắt lại. Họ xách súng vào rừng và chiều hôm đó, trên một tảng đá lớn, họ đứng vâyquanh những di vật còn lại của đồng đội...