Chương 4
Bố tôi qua đời ngày 28 tháng tám 1956. Tôi sinh ngày 9 tháng chín 1948. Lúc bố chết tôi suýt soát 8 tuổi, thiếu vài ngày.
Bố tôi tên là Andrea Cimballi sinh ra ở Campion. Đó là một thành phố Ý nhưng không ở trên đất Ý mà ở bên Thụy Sĩ; một mảnh nước Ý nhỏ nhoi trên đất Thụy Sĩ. Tôi đã tới đây, một thị trấn xinh xắn, yên tĩnh, phẳng lặng, sòng bạc ở chung một mái với nhà thờ Đức Mẹ Dòng Con Nhạn. Trèo qua các bậc thềm nhà thờ ta nhìn khắp bốn phía đều là đất nước Thụy Sĩ; hồ và thành phố Lugano phía trước mặt. Nhưng ta vẫn đứng trên đất Ý, tuân theo luật pháp Ý. Làng Thụy Sĩ đầu tiên, Bissone cách đấy ba kilomètres, bên kia cây cầu chưa xây khi bố tôi còn sống, bây giờ vừa là đê, vừa là cầu đường bộ, đường sắt và xa lộ. Nếu bố tôi chào đời cách chỗ này ba kilomètres có lẽ mọi chuyện sẽ khác, sẽ không xẩy ra điều gì không hay. Có khi vì thế mà ông vẫn còn sống đến ngày nay.
Gia đình bố tôi là người Florenz, không giàu nhưng đủ ăn, trên nữa là người xứ Lombardi thì phải. Gia đình cổ điển: Buôn bán, một hai giáo sư, vài ba nhà luật. Vào đúng lúc sắp nổ ra Thế Chiến Thứ Nhất, ông tôi tậu ngôi nhà ở Campion, nấp bóng nền trung lập Thụy Sĩ để tránh đại bác quân Áo mà vẫn được ở trên lãnh thổ của tổ quốc mình. Bố tôi ra đời ở đó. Ông là người rất thông minh. Ông vừa kết thúc việc học hành - tốt nghiệp kỹ sư và cử nhân luật - thì bị động viên, bị đưa đi đánh nhau ở Libi, Tripoli, bị thương, bị bắt làm tù binh. Đầu năm 1946, sau một năm ở Canada và Hoa Kỳ, ông trở về Ý. Một năm trên đất khách quê người đã gợi cho ông một ý mà ông cho rằng sẽ giúp ông trở nên giầu có: Kinh doanh ngành bất động sản, bằng một loạt hoạt động mua đất, sửa sang, xây dựng rồi cho thuê làm bãi đậu các nhà lưu động và làm chỗ trú chân cho các đoàn đi du lịch, đi cắm trại thường có nhiều ở Bắc Mỹ. Điều phiền phức duy nhất: Ý định này chỉ thực hiện được ở các bang nước Mỹ thôi, và một chừng nào đó ở Canada. Bố tôi có một ít vốn. Ông quyết định đưa vào kinh doanh. Ông làm đơn xin chính quyền Ý cho phép chuyển vốn ra nước ngoài. Nếu là người Thụy Sĩ, người Đức, đơn xin phép này chỉ là chuyện thủ tục. Nhưng ở Ý, ở Pháp, những nước vẫn được coi là tự do, thì lá đơn của một người không có tên tuổi như thế này chỉ tổ làm các nhà chức trách cười khẩy. Đơn bị bác. Sự khước từ này quyết định tất cả.
***Tôi dừng lại ở Sainte Maxime phía bên kia vịnh đợi đêm xuống, mãi gần mười giờ mới nổ máy xe. Không đi thẳng được vào St. Tropez, tôi rẽ phải, rẽ trái, rồi đi vòng vèo qua nhiều đường hẻm ra đường lớn đi Pampelonne, chính mình cũng lấy làm lạ sao lại thuộc đường đến thế. Những năm còn đi học, giữa hai lớp chẳng ra rì, tôi đã nhiều lần trở lại St. Tropez nhưng chưa lần nào đi đâu đến Capilla. Có một cái gì đó luôn cản bước tôi. Ngôi nhà không còn là của tôi nữa và cho đến bây giờ tôi vẫn không thể chấp nhận ý nghĩ nó đã lọt vào tay người khác, đã thay đổi.
Ở một chỗ trên con đường hẹp phải qua cây cầu nhỏ tí bắc qua suối. Quặt sang phải, một đoạn thẳng, thông bên trái, nhô bên phải. Tôi bỏ xe ở lối rẽ vào con đường nhỏ. Người ta đã xây dựng được khá nhiều trong mười ba năm nay; hay là tôi nhầm, nhớ lại chỗ này vắng vẻ hơn là cảnh có thực ngày xưa. Tắt máy, im lặng hoàn toàn. Bóng đêm bất động và êm dịu, mọi hương thơm đều nồng nàn hơn mùi thơm trong ký ức. Cơn sốc thứ nhất, ở đây có con đường mòn tôi tìm ra rất tự nhiên như thể mới dẫm lên nó hôm qua. Biển và bãi tắm cách tôi sáu trăm mét, như vậy ngôi nhà ở chếch về phía tay trái tôi, nếu nó vẫn còn. Một khoảnh rừng dương mai thấp nở hoa ngào ngạt. Đường mòn hết lên dốc, trái lại nó bắt đầu đổ xuống bờ biển. Tôi bỗng thấy trong lòng bối rối: Đáng lẽ ra, nếu tôi không nhớ nhầm một lần nữa, lúc này tôi phải trông thấy ngôi nhà thẳng trước mặt, trông thấy ánh sáng đèn. Mặc dầu có những bụi trúc đào. Thế nhưng chẳng thấy gì sất. Không một ánh lửa, không một tiếng động. Hai trăm mét nữa; và rất đột ngột tôi cảm nhận ra nó, hiện diện trong tối đêm. Cảm nhận thấy nó như ta cảm nhận thấy người đàn bà nằm cạnh mình ban đêm. Nhà không có người ở.
Gần một tuần lễ sau khi nhà cầm quyền Ý bác đơn, bố tôi về Lugano, ở đây, ông ng gặp và quen biết một chủ ngân hàng Thụy Sĩ hơi lớn tuổi hơn tên là Martin Yahl, người Zurich. Yahl sang đây mở một chi nhánh của ngân hàng tư nhân đặt trụ sở ở Zurich rồi Geneva. Bố tôi và Yahl tỏ ra hợp nhau, hoặc bố tôi đã tỏ ra có sức thuyết phục. Dù thế nào đi nữa, Martin Yahl nhận tài trợ bố tôi, hoặc bằng cách tìm ra phương pháp chuyển sang Thụy Sĩ số vốn bằng tiền Ý của bố tôi, hoặc cho bố tôi vay tiền. Bằng cách nào thì không rõ, chỉ biết là hai người cộng tác với nhau. Hơn nữa Martin Yahl vẫn là giám đốc ngân hàng, lại còn là người góp vốn, là cổ đông trong công ty của bố tôi, và là người quản trị, người được ủy thác trông nom công ty này.
Đây là một Holding, tức là một công ty vô danh được thành lập để chuyên trách việc giám sát và điều hành một tập đoàn doanh nghiệp cùng loại với nhau - trong trường hợp này, chúng có quy mô toàn cầu - và cùng hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh, Martin Yahl chính thức chịu trách nhiệm quản trị công ty này, theo một văn bản gọi là chứng thư ủy quyền. Trong tiếng Anh chứng thư này gọi là “chứng thư tin cậy”. Martin Yahl là người tin cẩn, người duy nhất xuất đầu lộ diện, duy nhất biết chắc có ai, có bao nhiêu tiền, ai sáng lập, ai thực sự điều khiển công ty Holding này.
Bố tôi nhất thiết cần phải giữ tuyệt đối bí mật các điều đó. Ông đã, một cách nào đó, gian lận với thuế vụ Ý. Mặc dù số tiền ông bỏ ra để thành lập công ty là tiền của ông, đã chịu thuế ở Ý. Nhưng nhà chức trách đã cấm ông sử dụng số tiền đó theo ý ông, mà ông cứ làm, đó là tội lỗi của ông. Ông có thể vung hết vào cuộc cá ngựa, dán nó lên tường nhà ông ở Campion, nhưng không được đưa ra nước ngoài dù là để lập ra hãng Dupont De Nemours hay hãng General Motor. Trừ phi ông là thành viên, là chủ tịch tổng giám đốc một công ty đa quốc gia thì trong trường hợp này mới có thể dàn xếp xong được với trời.
Bố tôi cần sự bí mật và tận dụng nó. Sau đó, thời gian trôi qua, ông không thể lùi được nữa. Khó lòng đến chường mặt ông thuế Ý và bảo: “Tôi đã lậu thuế, ông có vui lòng bỏ qua - với cái giá! - và cho tôi chính thức tái định cư ở quê hương tôi, với tư cách là người sáng tạo ra quyền lực?” Hơn nữa trong thời gian đó bố tôi đã sang Pháp ở, lấy một cô Do Thái gốc Áo gặp ở chỗ Yahl, đã lập nghiệp hợp pháp bên đó, có thu nhập đóng thuế đầy đủ. Trong tài sản hợp pháp của bố tôi, ngoài hai xí nghiệp xây dựng, tiền hùn vốn vào nhiều công ty khác nhau, nhiều ngôi nhà trong đó có cái bố tôi chính thức cư ngụ tại phố Pompes ở Paris, còn có ba chục hécta đất và ngôi nhà ở Đông Nam bán đảo St. Tropez
Hoạt động chính của công ty Holding là xây cất nhà và các cuộc đầu tư có lãi lớn: Phân lô, mua đất và bất động sản nói chung, cùng với việc tham gia mạnh mẽ vào các doanh nghiệp xây cất, chế biến vật liệu xây dựng trên khắp thế giới. Có người nói với tôi vào một lúc nào đó: “Cái khác thường nhất của ông nhà, là mỗi khi có một dịp làm ăn hé ra qua một chỗ hở, một kẽ nứt là ông lập tức nhảy vào ngay với sự nhanh nhạy kinh khủng, mở rộng khoét sâu ngay, phát triển ngay. Nói đơn giản, ông suy tính nhạy hơn mọi người xung quanh. Lúc mọi người vừa nhận ra ông đang xây dựng cái gì thì ông đã vọt đi chỗ khác rồi. Có hai cách thành đạt: Kiên nhẫn hoặc nhanh như chớp. Ông nhà thuộc phái thứ hai.”
Từ 1946 đến 1956, mười năm. Trong mười năm ấy, ý tưởng cơ bản của bố tôi tỏ ra rất hiệu nghiệm. Ông không thỏa mãn. Ông tấn công nhiều hướng, khắp nơi. Tôi còn nhớ những chuyến đi vào những tháng cuối của cuộc đời ông, của cuộc sống chung ngắn ngủi giữa hai bố con; sang tận Châu Mỹ La Tinh; còn nhớ mẫu kim loại ông đưa cho tôi xem và bảo: “Trong công nghiệp hiện nay còn ít dùng đến. Một ngày kia nó sẽ thành chủ yếu. Ngày đó bố, cả hai bố con mình sẽ là những người hiếm hoi trên trái đất nắm giữ quyền đưa nó ra thị trường”.
Tôi biết - nhưng chỉ biết sơ sơ thôi - rằng công ty Holding là công ty vô danh đặt trụ sở ở Curacao, trong quần đảo Antill thuộc Hà Lan. Công ty này trước khi đột ngột biến đi vào một ngày tháng chín 1956, nắm trong tay nó toàn bộ các cổ phần của nhiều công ty khác có trụ sở chính ở Neveda, Hong Kong... những công ty này lại nắm toàn bộ cổ phiếu của một lớp thứ ba những công ty đặt trụ sở ở Hoa Kỳ, Argentina, Luxembourg, ở Pháp... Một kim tự tháp huyền diệu trên đỉnh là Curacao, bản thân công ty này lại nằm trong tay một chi nhánh bí mật của ngân hàng tư nhân Martin Yahl. Và năm 1956, tháng tám 1956, mọi dấu hiệu đều chứng tỏ kim tự tháp này đúc bằng vàng ròng.
***Tôi đứng cách nhà có ba mét nhưng không nhìn rõ gì hết. Bên trái, dãy nhà để xe, các kho và cái chái nhỏ trước để chiếc Ferrari đỏ lửa - ngựa của tôi. Mọi cánh cửa gỗ ở đây đều đóng chặt, chằng xích khóa lại. Không thể nhìn bên trong có những gì.
Trước mặt là ngôi nhà ở. Không nhớ kỹ, nó có độ mười hai hay mười bốn phòng thì phải. Ngôi nhà hình chữ u mở ra phía biển. Cửa chính có hai cánh cách tôi có vài mét. Tôi đến gần, đập chiếc búa gõ cửa. Tiếng búa trầm đục vang to trong đêm khuya nhưng sau mấy phút vẫn không có động tĩnh gì. Tôi bật đèn pin, luồng sáng soi rõ hàng rào trúc đào bên phải tôi, các bụi cây hình như đã mọc cao thêm, nhưng tôi chợt cảm thấy mảnh vườn có lẽ đã bị bỏ hoang.
Khi ngôi nhà bị rao bán, ai đã mua nó?
Tôi đi vòng quanh nhà, mùi nước biển luôn sực nức. Vườn vẫn còn đó với các cây cọ, cây thúa, cây hoa giấy, ngọc giá, trúc đào, những bồn tú cầu xếp thành đội ngũ dày đặc. Bể bơi chắc vẫn còn ở phía bên trái, cuối vườn có lẽ còn bức tường đá cao ba mét, có cửa chấn song và bậc thang đi ra bãi biển và cầu nổi. Tôi quay lại, bước lên mấy bậc thềm đi vào giữa chữ U, lên chỗ giống như chiếc sân trong kiểu Tây Ban Nha, nơi gia đình tôi thường ngồi ăn tối, có những cánh bướm làm rung động màn đêm, cả sáu cửa đều đóng kín. Ánh đèn từ tay tôi lần lượt chiếu sáng ba bức tường mặt tiền, các khuôn cửa đóng, con trạch ngói màu son nhô cao trên mái nhà, và càng nhìn tôi càng tin chắc rằng những cửa lớn cửa sổ kia không hề mở ra từ nhiều năm rồi. Có lẽ nào ngôi nhà Capila này lại trống rỗng vào giữa tháng bảy, tháng cuộc sống mùa hè của St. Tropez đang sôi động, mỗi mét vuông đất lại bị hai đợt người thay nhau đến chiếm chứ không chỉ có một như các tháng khác? Hơn nữa, Capila vẫn nguyên như cũ, không bị thay đổi chút nào.
Tôi tìm lại được con đường thuở nhỏ: Trèo lên nóc chái là nóc cao nhất dãy nhà kho, bò lên đến tận chỗ có chiếc cửa sổ nhỏ. Như ngày xưa, tôi dễ dàng mở được chiếc móc cửa; một phút sau đã nhảy được vào lầu một, trong lòng cảm thấy tăng dần cảm giác lo lắng âm ỉ và cảm giác mơ hồ về một sự có mặt câm lặng. Tuy ngôi nhà hoàn toàn trống vắng, tôi dám cam đoan như thế. Vậy mà vẫn cứ thấy... Bên tay trái là khoảng trống phía trước phòng ngoài mênh mông, bên tay phải là các phòng ngủ. Phòng tôi ở cuối hành lang, nhìn thấy biển qua cửa sổ. Phòng bố mẹ tôi ở chái bên kia, thành ra mỗi buổi sáng tôi vừa ra ban công thì mẹ tôi ở ban công buồng mẹ đã cười, hỏi tôi qua khoảng cách tám chín mét của sân trong.
Do dự. Nhưng có cái gì đó hút tôi xuống tầng trệt. Xuống mỗi bậc thang tôi lại có cảm giác đắm mình sâu thêm trong một thế giới vừa thân quen vừa xa lạ. Một sức hấp dẫn mỗi lúc mỗi tăng, tôi cảm nhận rất rõ nhưng không giải thích nổi. Gần như không có chủ định, tôi đưa luồng sáng đèn lên cửa căn phòng ở chái bên tay trái, căn phòng của bố mẹ. Cánh cửa phòng vẫn hé mở. Kỷ niệm kéo đến dồn dập: Hai bố con đều ở ngoài bãi tắm, vài phút sau khi người khách đó ra đi. Trên bãi có ba cô gái trần truồng nhìn bố tôi mà cười. Bố tôi nói gì đó với các cô bằng giọng trầm âm, ông nói tiếng Pháp hơi lơ lớ. Hai bố con rời bãi tắm, lên mấy bậc tam cấp, đi qua vườn. Chiếc Ferrari đỏ nằm ở sân trong giữa những chiếc tràng kỷ. Tôi ngồi vào xe. Bố tôi xoa đầu tôi làm tóc rối tung, đi qua, vào phòng làm việc của ông ở chái bên trái. Trong nhà chỉ có hai bố con. Mẹ tôi ra phố, hai vợ chồng bác Pascal giúp việc đi mua bán gì ở đâu không rõ. Bố tôi quay điện thoại. Nói bằng tiếng Đức. Tôi cố khởi động chiếc Ferrari mãi không được. Bỗng có tiếng va chạm mạnh, tiếng kêu tắc nghẹn, phải mất một lúc tôi mới hiểu ra và chạy vội vào phòng. Bố tôi nằm dưới đất, đang cố lồm cồm bò lại với tôi, mặt đỏ gay gắt, mắt trợn trừng. Ông lết dưới đất, giơ một tay về phía tôi mồm lắpắp không ra tiếng. Tôi hét toáng lên, chạy vào bếp, thấy không có người, tôi đâm bổ ra bãi tắm. Ba cô gái trần truồng đã đứng lên đi cách xa tôi chừng một trăm mét. Tôi cũng cắm đầu chạy trên bãi cát ướt và chắc. Khi bốn chúng tôi vào nhà thì bố tôi đã chết rồi, nằm ngửa dưới đất, mồm há to, tay còn cầm bức tượng Phật bằng đá đen như hạt huyền. Phật cũng trần truồng, bụng phệ, hai tay duỗi cao trên đầu, ngón tay xòe thẳng đứng, đầu gục một bên vai, mắt nhắm nghiền miệng mở nụ cười nhập định huyền bí.
Tôi đẩy cửa bước vào phòng, bị động với luồng ánh sáng đèn pin trên tay. Sửng sốt đến bàng hoàng. Thảm trải sàn vẫn còn kia, nó như bị nhàu nát ở chỗ bố tôi lăn xuống, vẫn nhăn nheo vết bò của ông hồi nào. Bộ tổ hợp điện thoại bố cầm trên tay lúc chết vẫn còn nguyên chỗ mười ba năm trước đây, nguyên vẹn, không thay đổi, giống hệt trước kia một cách kỳ quái. Thời gian đứng lại, tôi lên tám. Tựa lưng vào cánh cửa đã đóng lại, tì đầu vào đó, tôi òa lên khóc, lần đầu tiên từ mười ba năm nay, mặt lẫn vào bóng tối, chỉ có luồng sáng đèn rọi thẳng vào tượng Phật đen nhánh đặt trên góc bàn đang cười với tôi, nụ cười bí ẩn từ cõi cực lạc vô biên.
***Bố tôi mất sau một cơn đau tim ngày 28 tháng tám 1956 trong phòng làm việc ở ngôi nhà St. Tropez lúc đang gọi điện thoại cho một người nào đó tung tích hoàn toàn bí mật. Lúc ấy bố tôi ba mươi bảy tuổi. Tháng tám 1956 theo ý nguyện của cha tôi, tôi là người thừa kế duy nhất. Trên giấy tờ, tôi phải nắm quyền sở hữu công ty ở Curacao, ít nhất cũng được quyền sở hữu những phần vốn đã góp vào công ty. Di chúc của bố tôi ghi rõ như vậy, đồng thời ủy thác cho hai người: Martin Yahl và bác Giancarlo. Thư ủy thác di sản bao gồm toàn bộ các khoản có, các khoản thu nhập chính thức ở Pháp, Thụy Sĩ và qua công ty Holding.
Trên giấy tờ. Tôi nhận được quyền sở hữu các cổ phiếu vô danh. Tôi đã nhìn thấy chúng, họ đã cho tôi xem, và khi tôi đủ hai mươi mốt tuổi họ đã trao tận tay. Nhưng chúng chẳng có giá trị gì, không đáng giá bằng số giấy in ra chúng. Họ giải thích rằng nguyên nhân là do cái cung cách bố tôi xây dựng cơ nghiệp ngay từ buổi đầu. Đấng Tốì Cao giám đốc ngân hàng Martin Yahl bảo tôi: “Bố anh là một bậc kỳ tài, có năng lực kinh doanh xuất chúng. Nhưng kinh doanh đòi hỏi phải quản lý chặt, đào lò đến đâu phải chống lò đến đấy. Bỏ qua những lời cảnh cáo kịch liệt của tôi, bố anh không chịu chống lò. Thế là nó đổ sập. Đáng tiếc, cơn đau tim đã cướp ông cụ đi có thể do cảm giác thất bại gây ra”. Đấng Tối Cao nói thế. Lão nhấn mạnh “những lời cảnh cáo kịch liệt của tôi”. Tôi cho rằng trên đời này không thể có một người nào bị tôi căm ghét đến thế. Ngay cả ông bác Giancarlo, một kẻ ngu ngốc.
Người ta còn bảo tôi: Tất cả các khoản có bên Pháp, bên Thụy Sĩ đều đập hết vào các khoản thua lỗ ở nơi khác. Tất nhiên họ có đủ chứng từ, họ sẵn sàng tiếp nhận sự kiểm tra của bất kỳ chuyên viên nào trong trường hợp khó xảy ra là có sự nghi ngờ thiện chí của những người được ủy thác di sản. “Anh Franz, chúng tôi và bác anh đã chăm sóc anh, theo dõi, chiều chuộng anh có lẽ hơi quá, nói thẳng là như thế. Bây giờ anh đã đủ hăm mốt tuổi, đã thành niên theo luật lệ Pháp. Vì trong tình nghĩa với bố anh, tuy ông có lầm lạc, chúng tôi quyết định trích tiền riêng cấp cho anh ít vốn để anh bước vào đời đỡ chật vật do việc học hành của anh không được trôi chảy lắm”. Tôi nhận tấm séc họ đưa và bỏ đi, sang Anh, sang London là nơi tôi tưởng rằng ở đó sẽ không đến nỗi cô đơn vì có cô gái nọ, cô gái hôm nay không còn sống. Tôi ra đi vì căm ghét hai tên đó, lòng căm ghét không giải thích được vì sao nhưng nó làm tôi gần phát điên. Mà không phải chỉ gần phát điên nữa: Tôi đã tiêu sạch số tiền đó trong có hai tháng mười bốn ngày, trong tâm trạng cuồng loạn chết người.
***Tôi ngồi vào bàn làm việc của bố, trên chiếc ghế bành lưng tựa cao bọc da đen, ghế của bố tôi. Phật quay lưng lại phía tôi. Tôi xoay bức tượng, để tôi và Phật nhìn thẳng vào nhau tuy mắt Phật nhắm nghiền. Tôi móc túi sơmi lấy ra mảnh thư nặc danh nhận ở Mombasa hai ngày trước lễ Noel. Đọc lại đến lần thứ một nghìn: «Lúc thư ủy thác di sản hết hạn ông đã nhận khoảng một triệu franc số dư tài sản của phụ thân ông. Thực tế số tài sản ấy vào khoảng từ năm mươi đến sáu mươi triệu đôla. Chúng đã cưỡng đoạt của ông».
Đối với Martin Yahl và bác Giancarlo thì bố tôi chết hồi tháng tám 1956 trong phòng tôi đang ngồi vì cơn đau tim sau khi bị phá sản đến nỗi phải bán hết, bán cả ngôi nhà có căn phòng này, cả Capilla. Và vì trân trọng tình thân hữu với ông nên mặc dù vậy, Đấng Tối Cao ngân hàng và bác Giancarlo vẫn tài trợ thời niên thiếu của tôi, đã nuông chiều tôi - đúng hơn là đã đầu độc tôi, bây giờ tôi biết họ đâu có tử tế gì - hơn nữa khi tôi trưởng thành họ còn bỏ tiền túi ra tặng món hồi môn cho chàng trai tân này. Đó là cách giải thích của họ. Tôi biết chắc là nó không đúng sự thật.
Trong ba tiếng sau, tôi lục soát mọi xó xỉnh trong ngôi nhà, hi vọng tìm ra một cái gì do bố tôi để lại, để lại cho một mình tôi, một dấu vết, một tín hiệu. Nếu từ bên kia cái chết ông có điều nhắn nhủ tôi, nhất định ông gửi gắm trong ngôi nhà này chứ không ở đâu khác. Bố tôi yêu Capila, nhất định ông không đánh đổi nó lấy bất cứ cái gì. Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra điều này: Trong cơn hoạn nạn nguy khốn nhất thể nào bố tôi cũng tìm ra cách cứu được ngôi nhà. Ông đã không làm. Đối với tôi thế là rõ.
Khi ánh bình minh đầu tiên thấp thoáng mặt biển tôi rời bỏ ngôi nhà. Mang theo bức tượng Phật ngồi nhập định tôi đánh cắp.
***Tôi tới khách sạn Carlton ở Cannes lúc chín giờ. Tắm xong tôi bắt đầu quay điện thoại, mất gần một tiếng mới tìm ra ông công chứng viên.
— Tôi quan tâm đến một dinh cơ ở St. Tropez gần bãi tắm Pampelonne. Tên là Capila.
— Dinh cơ này không đặt bán.
— Tôi sẵn sàng xem xét bất cứ giá nào.
— Rất tiếc, thưa ông. Không hề có chuyện đem bán.
— Nhưng người ta cho tôi biết hiện nay bỏ không.
Im lặng.
— Họ nói không đúng.
Giọng nói lịch sự nhưng chắc nịch, hơi pha giọng xứ Provence.
— Tôi có thể gặp chủ nhân được không? Tôi muốn trực tiếp bàn với ông ta vì những lý do riêng tư.
Tôi đi thật sâu vào việc nhưng không xưng tên. Vô ích.
— Không được đâu thưa ông.
Công chứng viên quả là một bức tường. Tôi cảm ơn, gác máy, đứng nhìn chiếc máy trong vài giây. Tại sao không thử ướm tiền nhỉ? Nếu không xin được tin tức, vẫn có thể mua được bằng tiền. Nhưng tôi tin, dù có làm chuyện ấy tôi cũng sẽ thất bại. Tôi nổi cáu trong mấy phút sau đó. Sao lại có điều bí ẩn này? Ai đã đứng mua Capila, mua chỉ để giữ nguyên hiện trạng như cách đây mười ba năm, như trong ngày bố tôi qua đời. Ngày 28 tháng tám? Chắc không phải ông bác Giancarlo, con người đã cảm như chiếc màn che phòng tắm, hơn nữa lại ganh ghét người em tài ba. Martin Yahl chăng? Chuyện nực cười!
Người “đang có quyền sở hữu dinh cơ” theo công chứng viên cho biết, khi mua đã phải cố gắng lớn về mặt tài chính. Dù cách đây mười ba năm rồi, nhưng ba mươi héc ta đất trên bán đảo St. Tropez vẫn có giá cao nhất là vì trên khoảnh đất còn có ngôi nhà mười lăm phòng, có bể bơi, nhiều công trình phụ, cầu nổi riêng. Người đứng mua rõ ràng thuộc loại có máu mặt, hiện nay vẫn thừa thãi đến mức không cần đến số vốn tồn đọng ở đấy. Chủ nhân bí mật rất giàu.
Chiều hôm ấy tôi rời Cannes đi Paris. Ngày 10 tháng bảy tới Paris, vào trọ khách sạn Ritz là nơi chưa bao giờ đến, do đó không sợ gặp người nào còn nhớ thời trai trẻ điên cuồng của tôi. Lại chầu chực bên điện thoại sau nhiều phen vật nài, đe dọa, nài nỉ tôi mới được biết rằng tối hôm đó người tôi đang cần tìm sẽ đến ăn tại khách sạn La Burgo ở phố Bosque. Thoạt đầu người đó tỏ vẻ ngạc nhiên, đến khi tôi nói đến tiền anh ta mới tỏ ra dễ tính hơn, chấp nhận một cuộc gặp gỡ ở quảng trường Trocadero, ngay đầu đại lộ Georges Mandy. Anh ta nghi ngại hỏi thêm:
— Làm sao nhận ra anh?
— Tôi ngồi xe Rolls Royce.
Câu đó làm anh ta yên trí, làm gì có bọn bắt cóc ngồi xe Rolls? Đúng giờ anh ta dừng chiếc Citroen ngay cạnh chiếc Rolls. Hơi do dự giây lát, nhưng thấy tôi còn trẻ và chỉ có một mình, anh ta lên ngồi cạnh tôi, nhận xét:
— Anh còn rất trẻ.
— Không phải bệnh truyền nhiễm đâu.
Tôi đưa xấp giấy bạc:
— Mười ngàn đôla.
Anh ta cười có vẻ hơi xúc động; sau này nhớ lại buổi đầu gặp gỡ hai chúng tôi đều buồn cười:
— Nếu anh còn một đàn em.
Tôi đưa cho anh ta cuốn sổ tay và chiếc bút chì.
«Ngân hàng Martin Yahl, trụ sở ở đại lộ General Grisan, Geneva. Và Giancarlo Cimballi. Địa chỉ...»
Tôi thuật lại đầu đuôi vụ Curacao. Những nghi vấn thực ra là điều tôi tin chắc rằng đã xảy ra chuyện biển thủ cách đây mười ba năm. Anh ta sửng sốt: Đã từng ấy năm rồi!
— Tôi muốn biết có chuyện lừa đảo đó không, có tìm ra chút chứng cớ nào không, tóm lại có thể phanh phui được mưu đồ của chúng không? Sau hết tôi muốn biết có tên nào khác can dự ngoài Yahl và Giancarlo.
— Nếu quả thật có một âm mưu.
— Anh mở cuộc điều tra được chứ? Nhất thiết phải tuyệt đối bí mật. Không được để Yahl đánh hơi thấy.
Anh ta chăm chú nhìn tôi. Nhờ bóng tối trong xe, tôi không sợ lộ mặt, vả lại tôi có kính mát. Anh ta hỏi:
— Sao anh biết tôi?
Tôi nêu tên nhân vật cuối cùng của đường dây, tôi đã lần tới sau mười lăm, hai mươi số điện thoại. Đó là một bộ trưởng đương quyền.
— Tôi sẽ kiểm tra lại, tất nhiên, - anh ta nói.
— Tất nhiên.
Rõ ràng từ nghi ngại anh ta đã chuyển sang tò mò. vẻ bí mật của tôi làm anh ta thắc mắc. Tôi cũng thấy anh ta hay hay. Tên anh là Marc Lavater, trạc năm mươi tuổi, về sau sẽ trở thành một bạn thân nhất của tôi; đã từng là quan chức cao cấp trong ngành thuế quan Pháp, chỉ huy đội kiểm tra thuế phố Volney; sau đó lại nhảy sang bên kia chiến tuyến, mách nước cho những người anh săn đuổi trước kia. Tôi đã nghe nhiều người ca tụng khả năng của anh, những mối quan hệ tầm cỡ quốc tế của anh, và cái mà anh ta gọi là “sự đáng tin cậy” theo tiếng lóng của anh.
— Cái khó là ở chỗ việc của anh dính líu với Thụy Sĩ nhiều. Bên ấy tôi khó hoạt động hơn ở Pháp. Vả lại...
— Anh nhận lời, hay từ chối?
— Để tôi nói nốt. Vả lại ngay trên đất Pháp, cuộc điều tra này cũng đã khó, nhất là vì phải giữ rất bí mật với các đương sự.
— Có hay không?
— Mặt khác, tôi vẫn còn nhiều bạn thân trong ngành thuế bên Thụy Sĩ.
Anh ta nhìn xấp bạc. Tôi nói:
— Một trăm ngàn đôla khi hoàn thành. Khi tôi nhận được mọi câu trả lời.
Anh ta cười:
— Được, tôi nhận. Không phải vì số tiền. Tuy nó... nhưng vì câu chuyện của anh làm tôi thú vị. Thật đấy.
Lúc ấy tôi không tin. Tôi đã lầm. Sau này tôi mới biết. Tôi nói:
— Còn việc khác nữa...
Tôi nói về ngôi nhà St. Tropez.
— Cần biết ai tậu. Và biết xem chủ nhân hiện nay có phải vẫn là người cách đây mười ba năm không?
Anh ta hỏi tôi vài điều. Không, anh ta không tiện tìm gặp tôi, trái lại tự tôi phải đến tìm anh ta. Cuối cùng tỏ ra thoải mái hỏi qua nụ cười:
— Tôi muốn biết anh tên là gì?
Tôi trả lại nụ cười cho anh ta.
— Gọi tôi là Monte Cristo
***Hôm sau 11 tháng bảy tôi trở về Mombasa, người hơi lảo đảo. Tôi bảo Sarah:
— Seychelles, thiếu em như bữa ăn thiếu pho mát vậy!
Lát sau, bảo Hyatt:
— Cậu có nói đến chuyện chúng mình cùng đi Hong Kong. Nào thì đi. Kenya từ nay thuộc về quá khứ.