Chương 5
Điều chắc chắn là Hyatt biết rất rõ Hong Kong, nơi anh ta sinh ra. Anh nói thạo tiếng Tàu, rõ ràng anh ta ở đây như ở nhà mình vậy. Chúng tôi đã tới đây được hai tuần. Chúng tôi, riêng bản thân tôi đã rời Mombasa bốn ngày sau chuyến đi Châu Âu về. Tôi thấy Sarah do dự và tôi cũng do dự, không biết nên giữ mối quan hệ này hay nên nhân dịp ra đi này mà kiếm cớ cắt đứt. “Có lẽ em sẽ đuổi theo anh sau. May ra kiếm được việc làm ở bên ấy”. “Không cần đi làm, có anh rồi mà”. Lắc đầu: “Dẹp, em thích độc lập”.
Trên đại lộ Des Voeux, đảo Victoria giữa trung tâm Hong Kong, tôi đi theo vệt đã đi hai ba chục lần từ khi tới đây, tới ngay trước hai ngôi nhà vàng xám, vuông vức xấu xí nhưng đồ sộ, bên trái là Trung Quốc Ngân Hàng, bên phải là Hong Kong - Thượng Hải Ngân Hàng. Ba trăm năm chục ngàn đôla “Kenya” của tôi đang nằm ngủ ở ngân hàng này. Hai tháng nữa tôi sẽ hăm hai tuổi. Điều gì đã xảy ra bên Kenya? Có những ngày tôi tự hỏi không biết mình có ngủ mê không. Có phải tôi đã kiếm ra từng ấy tiền thật không? Nhanh đến thế? Có phải vì gặp được những điều kiện đặc biệt không? Giá trị của tôi thực sự như thế nào?
Đường tàu kéo bằng dây cáp chạy sau khách sạn Hilton vài trăm mét. Dốc đứng, toa tàu - thực ra là hai toa giằng nhau - càng lên cao, càng thấy chóng mặt hụt hơi, trước hết thấy nhà thờ St. James và các ngọn đồi bọc bờ biển, bên trái là sở thú, dần dần cảnh tượng huyền dịu mở rộng ra các tháp cao trên đảo Victoria, bãi biển và thung lũng Hạnh phúc, rồi Wanchai và Causeway, đằng trước mặt phía bên kia eo là bán đảo Cửu Long, địa đầu lục địa Trung Hoa có đại lộ Nathan thẳng tắp thọc sâu.
Tôi đã được lãi ba trăm năm chục ngàn đôla. Dù may dù không. Tôi có thể dừng lại ở đây, dẹp sang bên được, mua một quán rượu - thuốc lá, lấy một cô nào đó. Cũng có thể quẳng hết vào một ván bài khác, bắt đầu từ đầu như ở Mombasa. Thực ra tôi không bị cảm giác mệt mỏi này đánh lừa: Do thiếu vắng Sarah, tôi thiếu nàng nhiều hơn tôi hình dung trước kia; còn do nỗi lo ngại, bực bội mỗi khi tôi nghĩ đến chuyện đang tiến hành bên Châu Âu qua Trung gian Lavater. Nó còn do cái đất Hong Kong này, không phải là đất của tôi; đám đông người Châu Á không ngừng di động kia làm tôi khó chịu. Vả lại biết làm gì ở đây? Tôi đã thuận theo lời Hyatt mà tới đây. Tới đây rồi mới thấy hết qui mô phức tạp to lớn của cái mà tôi đương đầu. Đến nỗi đâm nhớ tiếc những buổi ngồi trên chiếc Mini Moke đi vênh vang trên đại lộ Kilindini, chào hỏi khách hàng, bè bạn, họ coi tôi là “Ông Chủ Nhỏ”. Ở đây, tôi chẳng là cái gì, mà cũng chưa nghĩ được cách trở thành một cái gì.
Từ toa tàu kéo ra, tôi vào thẳng Lo Fung, tiệm ăn trên lầu hai tháp Victoria Peak. Các cô phục vụ len lỏi qua các dãy bàn, cổ đeo những chiếc giỏ đựng đến hàng chục thậm chí hàng trăm mặt hàng khác nhau. Hyatt bảo Lo Fung là cái “nồi ninh kiểu Quảng Đông”, một cái dimsum nghĩa là trái tim nhỏ theo tiếng Quảng Đông. Gã đã ngồi đây rồi, giơ tay vẫy:
— Sao mặt mũi thế kia? Không ổn hả? Nhưng ít ra cũng đừng rắc rối với tay sắp đến. Tuy chỉ là giám đốc hãng buôn thôi, nhưng nhiều thứ phụ thuộc hắn.
Gã bắt đầu thao thao về tương lai đang chờ đón chúng tôi, vừa vặn người chúng tôi chờ gặp đang đi tới. Một anh chàng người Tàu mảnh dẻ, sang trọng, mặc bộ đồ có lẽ bằng hàng Sơn Đông, dù sao cũng là hàng mầu kem sữa, nói tiếng Anh như xướng ngôn viên đài BBC. Anh ta hơi có vẻ bề trên đối với Hyatt, tuy anh này tỏ ra không nhận thấy điều đó, hoặc làm ra vẻ như thế. Thái độ của anh ta đối với tôi có khác. Tuổi trẻ của tôi làm anh ta băn khoăn. Nhân một lúc Hyatt ngừng nói, anh ta hỏi tôi:
— Hai anh làm ăn với nhau lâu chưa?
Tôi cười:
— Từ nhiều năm nay. Đã tham chiến bên nhau.
Hơn hai giờ sau cả ba chúng tôi phóng xe trên vùng đất liền, qua Cửu Long về hướng Đất Mới. Tôi nhìn phương hướng: Tây Bắc. Bên trái có hòn đảo.
— Tsing Yi đấy. - Hyat bình phẩm. - Các xưởng đóng tàu của Hong Kong nay dời về đó.
Xe chạy dọc theo cơ ngơi bất tận của nhà máy bia San Miguel, cùng với bia Tsing Tao là thứ đang tràn ngập thị trường Châu Á. Chạy thêm một quãng:
— Đến rồi.
Xí nghiệp có sáu trăm người. Không có một dân Châu Âu nào, đây là thế giới người Tàu.
— Làm đồ chơi, - Hyatt lại thuyết minh. - Mình có đầy đủ: Điểm chạm bên Châu Âu, mối với bạn bán buôn, đủ hết. Cậu có biết con búp bê làm ở đây so với con búp bê y hệt làm bên Âu giá thành bao nhiêu không? Chưa tới một nửa. Tối đa! Đây là một áp phe ngon lành. Mỗi năm làm việc ba bốn tháng, sau đó...
Đôi bàn tay nhỏ mũm mĩm vung rộng. Tương lai Hyatt là đó: Yên tĩnh, chắc chắn, ba tháng làm việc ngắn ngủi rồi vui thú với chữ nhàn đến hết năm. Tóm lại, sự rút lui.
— Cậu có vẻ không khoái hả! Làm đồ chơi có gì đáng phản đối? Sắp Noel rồi.
Tôi không phản đối đồ chơi, cũng không phản đối nhàn hạ. Nhưng không chấp nhận sống ở Hong Kong, giữa biển người ai trông cũng như ai không phân biệt nổi. Chúng tôi lượn qua các phân xưởng, mọi người đều mỉm cười dễ thương, một quản đốc, hoặc tương đương, tuôn ra một tràng dài. Hyatt dịch lại cho tôi. Nhưng tôi lại nghĩ đến Sarah, đến thân hình mảnh mai nhạy cảm, đến ánh mắt diễu cợt thường hé qua cặp mi lim dim.
— Chỗ này là phòng nghiên cứu của xí nghiệp.
Tôi thấy có đủ thứ máy chạy pin, các con thú, xe cộ, những con búp bêiết gọi mẹ bằng ba mươi sáu thứ tiếng, biết khóc. Ở hai giờ trong nhà máy tôi đã thấy chán muốn chết. Lúc sắp ra về, tôi mới để ý đến một thứ, giống cây gãi lưng. Đúng, nó là thứ đồ dùng để gãi lưng.
— Nhưng chạy bằng điện. Đặt nó lên lưng, nó tự động gãi cho anh, khỏi cần động đậy tay cho mệt. Chỉ là một đồ dùng lạ mắt.
Viên giám đốc thương mại đã ngồi ăn trưa với chúng tôi tên là Ching gì đó. Tôi hỏi anh ta:
— Có còn những trò loại này không?
Anh ta lắc đầu cười:
— Bọn thanh niên ở phòng nghiên cứu thích nghịch thế thôi. Một đồ dùng lạ mắt thôi mà.
— Có bán không?
Lại cười:
— Không, tất nhiên. Nó chỉ là...
— Một đồ dùng lạ mắt, tôi hiểu.
Một trò ngốc. Hết sức ngốc.
Trở về Hong Kong. Theo đề nghị của tôi, Ching gì đó kể cho tôi nghe về “bọn thanh niên ở phòng nghiên cứu thích nghịch”. Hai cậu trong bọn chắc là hai cậu điên gàn nhất ở ngay khu trung tâm. Họ làm chủ yếu trong ngành điện ảnh, chuyên về những kĩ thuật kĩ xảo đặc biệt, có chân trong đội ngũ những chuyên viên làm máu chảy như nước lũ trong các bộ phim Made in Hong Kong. Ngay tối hôm đó tôi gặp họ trong khách sạn Wanchai. Một tên Li, một tên Liu hoặc ngược lại thì phải, mãi tôi vẫn không phân biệt nổi cậu nào là Li cậu nào là Liu. Cũng trạc tuổi tôi. Nghe tôi trình bày dự định xong, họ cười bò ra.
— Anh định tung các máy gãi lưng đó ra bán ở đường Carnaby London thật chứ?
— Cả các nơi khác nữa.
Lại cười, chảy cả nước mắt. Chúng tôi cùng uống một thứ rượu Saké tàu, tên là Hsiaoshin hoặc na ná thế, một loại rượu mầu vàng nước đái, hoàn toàn giống nước đái, cất từ gạo, uống nóng, đựng trong bình hâm cách thủy đặt ngay trước mặt. Mới sau ba bốn ngụm tôi đã phải bám chặt lấy bàn. Sáng hôm sau lại gặp nhau ở đại sảnh phòng thương mại, và sau khi nghe tôi phác qua vài ba đề án chế tạo đồ dùng lạ mắt, cả hai anh chàng lại cười lăn cười lóc, mà lần này rõ ràng không phải vì rượu Hsiaoshin.
Ở Hong Kong không có những luật lệ hải quan đánh vào hàng nhập, tất nhiên càng không có đối với hàng xuất khẩu: Họ chỉ có thuế gián thu đánh vào vài loại sản phẩm như thuốc lá, rượu và xăng dầu. Các thứ đồ vặt của tôi không có vấn đề gì, sẽ chỉ làm nhà chức trách phì cười mà thôi. Vụ đăng ký kinh doanh của Bộ Công Thương cấp ngay cho tôi giấy môn bài miễn phí và còn kèm theo một nụ cười nữa. Họ bảo tôi, điều này Hyatt đã nói trước với tôi rồi, rằng các hàng xuất khẩu của tôi được miễn thuế. Tuy nhiên tôi cũng phải trả khoản tiền không đáng kể vì nguyên liệu - chất dẻo chẳng hạn - là những thứ sản xuất tại địa phương, phải đóng thuế trước khi xuất khẩu trực tiếp từ một nhà máy. Sau này, tôi đã vận động để họ hủy bỏ quy định này đối với tôi. Lúc này thì chưa. Chiều hôm đó, Bộ Công Thương đồng ý trên nguyên tắc sẽ cấp cho tôi bằng chứng nhận xuất xứ, mặc dầu sản phẩm chưa ra đời nhưng chắc chắn không bao lâu nữa chúng sẽ xuất hiện. Đây là bằng chứng nhận xuất xứ loại ưu đãi toàn bộ, nó sẽ cho phép tôi tự do xuất hàng sang sáu nước đầu tiên tham gia thị trường chung Châu Âu, cộng thêm các nước Anh, New Zealand, Cộng Hòa Ireland, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Áo, Nhật, Hoa Kỳ, Đan Mạch, Hy Lạp, Canada, Australia và nhiều khu vực khác.
“Còn thiếu Béloutchistan, Burundi và Samoa” Hyatt vùng vằng nhận xét. Hyatt cho rằng tôi đã điên thật rồi. Vào giai đoạn này của công việc, không thể trách được gã. Tôi cố giải thích, nói cho gã biết điều tôi đã cảm nhận trên đường Carnaby London, trước đống đồ vặt vãnh không tên gọi, vô nghĩa, ngớ ngẩn mà thiên hạ tranh cướp nhau như điên, những thứ càng vô dụng lại càng được ưa chuộng, càng bị xâu xé dữ dội. Mà chỉ là những thứ bày bán trong những quán tồi tàn phơi mặt bên cửa hàng Mary Quant.
— Bây giờ, đang có nhu cầu về những thứ không dùng được vào việc gì. Nếu chưa có thì chúng ta sẽ tạo ra nhu cầu đó.
— Không phải chúng ta. Mình không chơi.
Gã dở bướng, hờn dỗi. Tôi làm đủ thứ để thuyết phục nhưng gã không lay chuyển. Gã nhất định bám lấy kế hoạch: Làm một quí chơi ba quí, không chịu rời ra. Gã tuyên bố dứt khoát không nhượng bộ. Tôi thì lại cần đến gã, nếu không cần con người gã thì cũng cần đến tiền của gã. Xưởng máy của Ching gì đó nhận sản xuất khối lượng vô cùng lớn những thứ: Đồ xỏ giầy dạ quang để đi giầy không làm vợ tỉnh giấc, đục lạnh để cắt kính, bật lửa biết chửi một câu khi anh châm điếu thuốc, tượng gã say có mũi đỏ nhấp nháy khi cốc anh đã cạn, quả chuối biết hét (khi bóc vỏ)... Sản xuất bằng dây chuyền liên tục nếu tôi chịu kí hợp đồng ổn định sản lượng. Có nghĩa là tôi phải ném vào đây toàn bộ vốn liếng. Mà đồng vốn của tôi đâu phải là thứ có thể giãn nở vô cùng tận, hơn nữa có thể tôi còn phải thanh toán khoản tiền công - chín mươi ngàn đôla - do Lavater gửi tới vào bất cứ lúc nào. Đóng vai bá tước Monte Cristo ngồi xe Rolls tốn quá trời, tuy lúc này rất thích thú. Lại còn phải có tiền để sang Châu Âu đặt mối, tiền ăn tiền ở Hong Kong, ở các nơi khác trong khi chờ có tiền lãi. Nếu có lãi.
Lời khước từ kiên quyết của Hyatt khiến tôi hết đường chống đỡ. Tôi thiếu độ một trăm, đúng hơn là một trăm năm mươi ngàn đôla; các ngân hàng tôi hỏi vay đều không tin sản xuất đồ vặt lạ mắt mà phải cần chừng đó vốn.
— Hyatt, ít ra cũng phải cho mình vay ít tiền.
Gã rụt cổ:
— Mình mách cho cậu một áp phe bằng vàng, ba tháng làm, chín tháng chơi mà cậu không chịu. Đến lúc mình cũng không chịu.
***Ngày lại ngày trôi qua. Lúc này vào khoảng giữa 15 và 20 tháng tám. Hai lần tôi định gọi Paris nhưng cả hai lần văn phòng Lavater đều trả lời Lavater đi vắng không nhắn lại gì cho tôi hết. Có lẽ anh ta chưa có tin gì mới, chắc thế, tôi cho anh không phải loại người sống chết mặc bay tiền thầy đút túi. Nhưng sự im lặng này làm tôi bứt rứt. Cùng như thái độ của Sarah: Tôi đã hai lần gửi điện tín, điện báo, gọi điện thoại đến sạt nghiệp, lúc thì bốc lên: “Có tiền cho anh vay năm trăm ngàn. ” lúc thì van nài: “Đến với anh, anh thiếu em ” - “Khó tìm ra việc làm ở Hong Kong lắm anh ơi, nếu là con gái thứ thiệt” - “Đồ quỷ, anh cần gì phải nói đến việc làm” - “Em cần, không phải nói suông đâu, anh bạn!”...
Lại còn Ching gì đó, mỗi lần gặp lại lễ phép báo tin nhà máy đang đợi tôi. Gã Hyatt một lần cuối: Vô hiệu. Gã còn nói dù lúc này gã có thiện chí cũng đành bó tay: Gã đã bỏ vốn vào áp phe đài bán dẫn. Tôi quay lại với Ching gì đó.
— Ching này, phải có cách dàn xếp chứ.
— Nếu không có đảm bảo chắc chắn thì không thể thay đổi biểu đồ tổ chức của nhà máy.
Cuộc cãi vã này giữa chúng tôi đã diễn ra mười lần rồi.
— Công ty của anh cũng phải gánh một phần rủi ro. Thị trường đồ chơi đã bão hòa, thị trường đồ vặt đang mở ra.
— Liệu có thật là một thị trường không?
Lại quay lại từ đầu.
— Ai có quyền quyết định cho hãng anh có thể tham gia cùng với tôi? Ai chỉ huy?
— Không phải tôi.
—Ai?
Một tối kia Hyatt đã nói ra một tên, lúc này tôi thật sự nhớ.
— Ông Hak.
Ching gì đó nhìn tôi ngạc nhiên.
— Ông Hak là nhân vật rất quan trọng, rất rất quan trọng.
— Tôi muốn gặp ông ta. Thu xếp cho tôi một cuộc gặp.
— Không thể được.
Tôi cố nài. Cuối cùng gã nhận lời sẽ thử xem. Đêm sau tôi gọi Paris lần thứ ba, vào lúc bên đó đã mười giờ rưỡi sáng do chênh lệch múi giờ. May sao, chính Lavater đến cầm máy.
— Tôi đã lượm được vài thông tin anh cần. Về ngôi nhà đã: Ngày 11 tháng mười năm 1956, một tháng rưỡi sau khi phụ thân anh qua đời, một công chứng viên được ủy nhiệm riêng đã đứng ra mua với giá một triệu một trăm ngàn franc mới. Không đắt, phải không ạ? Chủ nhân chính thức là một công ty ở Liechtenstein, bên ấy họ gọi là Einstein, doanh nghiệp. Hoàn toàn kín nhẹm, không dò thêm được gì.
— Bây giờ vẫn ông chủ ấy?
— Vẫn.
— Hoạt động của Einstein này?
— Không biết. Hoàn toàn mù tịt. Chỉ biết có người hàng năm nộp một ngàn franc Thụy Sĩ tiền thuế lợi tức cho chính quyền Liechtenstein và trả tiền thuê luật sư ở Vaduz là người chính thức làm đại diện cho doanh nghiệp. Tôi lần theo dấu vết và biết: Tiền từ Thụy Sĩ sang, đăng ký ở tài khoản đánh số. Xin đừng hỏi tôi đã làm cách nào để biết thêm điều này nữa: Một luật sư thứ hai ở Geneva cũng nhận tiền công trích từ một tài khoản đánh số khác, được thường xuyên bổ sung. Tôi đã gặp hắn nhưng hắn cũng câm như hến. Chỉ dò được tới đây là hết, thật không thể tìm hiểu gì về điều bí mật kín như hũ nút này. Có điều chắc chắn: Đó không phải là vị giám đốc ngân hàng của anh. Chính lão cách đây vài năm cũng mở cuộc điều tra như tôi và đã gẫy răng.
Thì ra Martin Yahl cũng đã tìm hiểu tung tích người tậu ngôi nhà. Tôi nghiền ngẫm tin mới này.
— Còn việc kia?
— Đang hình thành.
Tuy cách xa mười ngàn kilomètres tôi vẫn thấy giọng anh ta có vẻ xúc động, khác hẳn mọi khi vẫn điềm tĩnh, rõ ràng. Bản thân tôi cũng bị ảnh hưởng đứng trước đêm Hong Kong sáng choang tôi bỗng thấy người nóng bừng bừng gần như run bắn lên.
— Nghe đây, - Lavater nói, - đúng là vụ biển thủ quái dị nhất mà tôi biết. Xin chú ý: Tôi không có chứng cớ. Và nếu anh hỏi lời khuyên của tôi, tôi sẽ không bao giờ có. Không hy vọng gì, lát nữa sẽ nói tại sao. Không, không có chứng cớ, nhưng đây không phải chỉ là cảm tưởng mà gần như là một niềm tin tuyệt đối. Phụ thân anh không thể trắng tay khi qua đời. Cuộc điều tra đã khẳng định...
Tôi bỗng chú ý: Lavater nói “Phụ thân anh” tức là anh ta đã biết tôi là ai. Thì đã sao?
— Đây là vụ gian lận, biển thủ, cưỡng đoạt, chiếm tài sản thừa kế, anh muốn gọi là gì thì gọi. Người viết thư nặc danh nói từ năm mươi đến sáu mươi triệu đôla. Theo tôi định giá còn thấp. Phải đến gấp đôi, có khi gấp ba chừng đó.
— Có khả năng tiến hành tố tụng không?
— Không trừ phi có những yếu tố mới, ít ra phải có người nào đó cung khai. Ngay trong trường hợp ấy cũng chưa chắc.
— Sao vậy?
— Vì vụ này được bố trí vô cùng khéo.
— Tên nào?
— Không nói trên điện thoại được. Thủ phạm, hoặc các thủ phạm có nhiều đồng phạm. Chúng tôi đang sàng lọc. Có điều chắc chắn là có những người cách đây mười ba năm đã đột ngột trở thành giàu có, hơn hẳn mơ ước của họ, mà chỉ trong có vài tháng.
— Tôi muốn biết tên.
— Sẽ được biết. Cho tôi ít thời gian nữa. Tôi cần có tiền.
— Gửi cho anh bốn chục ngàn.
— Xin đừng đề tên tôi, gửi vào tài khoản, số tôi đã dặn.
— Đồng ý. Chỗ còn lại sẽ giữ sau khi nhận báo cáo của anh.
— Tôi không biết địa chỉ.
Không do dự:
— Đề tên tôi. Nhờ người chuyển thư: cô Sarah Kyle khách sạn White Sand, Mombasa, Kenya. Ban nãy anh bảo sẽ giải thích tại sao tôi không bao giờ chứng minh được đã có biển thủ. Tại sao?
— Vì tôi tin rằng chính kẻ đã vạch ra sơ đồ công ty của bố anh sau đó đã rất khôn khéo, tài tình tháo tung tất cả, xóa sạch tất cả, mang đi nơi khác. Không để lại dấu vết gì, bằng chứng gì. Tôi không ngần ngại nói rằng kẻ đó là một thiên tài. Hắn làm như trò ảo thuật, như phép thần thông. Cá nhân tôi rất khâm phục, thật tình khâm phục.
— Anh có biết nó là ai?
— Anh có xem cuốn phim cũ của Errol nhan đề Robin Chúa Sơn lâm không? Trong ấy có diễn viên John Carradine sắm vai Scarlett, Will Mặt Đỏ. Vì cũng có tên là John Carradine nên mọi người tặng biệt hiệu Scarlett cho một luật sư Mỹ tốt nghiệp Harvard, ở đó hắn cùng học với một giám đốc ngân hàng Thụy Sĩ mà hình như hắn không ưa. Chính Scarlett đã thực thi vụ gian lận này. Tên phù thủy là hắn.
Từ lúc bắt đầu nói chuyện Lavater khăng khăng từ chối không đụng đến tên người nào, vậy mà lúc này anh ta chẳng do dự tung cái tên vừa rồi lên không trung.
Anh ta cười khẩy:
— Đáng tiếc Scarlett ngoẻo rồi.
***Ching gì đó gọi điện thoại:
— Chiều mai, sau sáu giờ anh rỗi không?
— Nhất định.
— Tôi xin phép được tới đón và dẫn anh tới khách sạn Mandarin lúc năm giờ rưỡi.
Thế thôi, nhưng tôi đã hiểu: Sẽ đi gặp vị rất quan trọng ông Hak. Tôi muốn biết rõ thêm về nhân vật này nhưng Hyatt ngạc nhiên nhìn tôi:
— Cậu mà gặp được hắn là chuyện lạ.
— Hắn có cái gì ghê gớm? Sống trên đời, cưỡi trên mây à?
— Hắn rất quan trọng.
— Tớ là thằng quan trọng nhất từ trước đến giờ. Hắn giàu thế cơ à?
— Không phải chuyện lắm tiền nhiều của. Chỉ thế không đủ. Ta đang ở Hong Kong.
Rồi chằm chằm nhìn tôi, như thể vừa tiết lộ một tin tức đặc biệt. Ngày nào đó có lẽ tôi sẽ giết chết gã.
***Chiếc Mercedes to kềnh đón chúng tôi vừa đổ bộ ở Star Ferry. Xe chạy về sân bay Kaitak, chúng tôi lên chiếc máy bay du lịch xinh xắn. Hướng chính Bắc, tức là phía lục địa Trung Hoa. Ching gì đó ngồi bên tôi không nhúc nhích. Đường bay rất ngắn, sau mười phút dưới ánh chiều ta đã thấy xuất hiện dưới cánh máy bay một hòn đảo núi non nhấp nhô hình như chỉ có sinh khí nhờ làng chài nhỏ bên vũng sâu.
— Đang bay trên không phận Trung Quốc à?
— Không, vẫn là Hong Kong, trên vùng đất mới. Trung Quốc ngay kia.
Một vệt trên đường chân trời, cách có vài kilomètres. Máy bay hạ cánh, nẩy trên đường băng ngắn lát xi măng. Chiếc xe có gã lái xe người Tàu hoàn toàn câm lặng, con đường nhỏ xuyên qua vài ba quả đồi trọc lởm chởm đá tảng, đột nhiên thảm cây xanh hiện ra làm thay đổi hẳn khung cảnh ảm đạm. Tôi nhận ra những cây đa, cây long não, cây thông... do bàn tay con người trồng tỉa. Xa hơn một chút, có chiếc cổng xây ở cuối con đường hai bên trồng bạch đàn chạy xuyên qua một biển trắng xoá hoa trà, hoa mộc lan lùn, hoa lệ quyên. Ching và tôi xuống xe đi dọc bức tường hoa phong lan. Dưới chân nền lát xi măng rất mịn phẳng phiu không có qua một bậc nào cao thấp. Thật là đẹp, sự yên tĩnh khác thường gần thành nặng nề.
Nhà ông Hak ở trước mặt. Tôi sắp có cuộc hội kiến trông ấy, cuộc hội kiến lạ lùng nhất đời tôi.