Chương 6
Ngay từ phút đầu tôi đã dán mắt vào đôi bàn tay ông ta: Dài, thon, duyên dáng, có thể nói là yêu kiều nữa; móng ngón áp út vươn dài có dễ đến mười centimét.
Chỉ một thoáng sau sự chú ý của tôi lại chuyển sang một điều lạ lùng khác, bị hút chặt vào hai chân ông ta. Ông Hak bận tấm áo mặc trong nhà bằng lụa đen, xẻ tà từ lưng chừng đùi để lộ hai bộ máy kỳ lạ bằng kim loại sáng bóng. Những đoạn ống không được gia công cho giống những ống chân người. Sự thờ ơ đối với mĩ thuật, đối với tập tục ấy thật đáng kinh ngạc, ít ra nó cũng làm tôi kinh ngạc. Trên ống thép, ở vào khoảng đầu gối, có những rãnh đan nhau vạch thành tám ô vuông. Cả hai chân đều như thế. Ông Hak đang ngồi.
— Ông Cimballi ưa dùng thứ giải khát gì?
Tôi quay lại: Ching gì đó đã lẳng lặng rút êm, bỏ mặc tôi một mình. Căn phòng tôi đang ngồi là phòng khách, các phòng bên cạnh, rất nhiều, chỉ ngăn cách bằng những tấm vách mỏng nhẹ, chắc có thể tháo lắp dễ dàng. Nền nhà hình như bằng cẩm thạch xẫm đen có vân màu xám bạc, không có bậc cao thấp, cầu thang toàn bộ nền nhà đều hết sức bằng phẳng. Đồ đạc rất ít, thứ nào cũng trên mức xa hoa, như những tấm bình phong lạ mắt kia bằng hàng sơn mài hai màu: Đen nhánh, đỏ son.
— Ông dùng champagne?
— Xin lỗi. Vâng, cảm ơn.
Tôi tưởng sắp có đầy tớ mang ra. Nhưng vẫn có hai người thôi, chỉ có bàn tay ông Hak cử động: Đặt lên đùi trái ông ta. Móng ngón đeo nhẫn lách vào đường rãnh nạy một cặp rất bé lộ ra chiếc bảng tí hon có bốn nút bấm nhỏ bằng đầu đinh ghim. Ngón tay Hak lướt trên nút bấm theo một thứ tự nào đó. Nắp đậy lại như cũ. Ông Hak đứng dậy, tôi trố mắt ngạc nhiên, nhìn ông ta bước đi: Chân bước nhưng thân hình không hề cử động, tôi dám cam đoan đôi vai ông ta kẻ một đường thẳng tắp. Trong khi ông chuyển dịch, tiến lên phía trước, y hệt những đồ chơi điện tử được căn chỉnh hết sức chính xác, chỉ có riêng cái bệ cử động. Cử động của ông ta cũng trơn tru, cùng với kỹ thuật hoàn hảo như chúng.
Chúng tôi vào căn phòng có bức tường hậu hình bán nguyệt. Giữa phòng bày mấy chiếc ghế bành, tràng kĩ, đều quay mặt vào bức vách cong.
— Xin mời ngồi.
Sau lưng tôi có tiếng động nhè nhẹ: Một chiếc bàn lắp bánh xe cao su đang lặng lẽ từ từ chạy về phía chúng tôi, không người đẩy người lái. Đến bên ông Hak nó tự động dừng lại rất có ý tứ.
— Ông thích dùng champagne hiệu nào?
— Tôi không nghĩ có nhiều đến thế. Xin ông chọn cho.
Ông Hak ngồi xuống. Rõ ràng đây là động tác khó nhất đối với ông ta: Gần như ngã xuống. Sau khi yên vị, ông ta mở những nắp khác bên đùi phải; nhiều sự việc khác liền diễn ra trước mắt tôi: Một bàn thứ hai nhiều tầng cũng lặng lẽ như chiếc trước chở đến hàng tá những miếng patê tí xíu, cá băm viên, tôm, mực, nhiều món tẩm bột rán, bánh mì có nhân, bánh kẹp, cùng lúc đó nhạc nổi lên tràn ngập căn phòng, những bản nhạc Phương Tây, cổ điển, có lẽ là nhạc Brahms. Sau hết, kì lạ hơn cả là cùng một lúc ấy tấm sơn mài đen nhánh trên bức tường bán nguyệt từ từ trượt từ trái sang phải: Quang cảnh cho thấy chúng tôi đang ở dưới mặt biển lúc này sáng rực ánh đèn pha nhiều màu thay đổi ngăn cách với chúng tôi bằng một khoang kính cao hai mét rưỡi, dài mười hai mét.
Tôi rất xúc động.
— Cảm ơn, ông Cimballi.
Tự tay ông ta rót champagne mời tôi. Rồi đột ngột hỏi về nước Kenya. Tôi không rõ ông ta đã biết về tôi những gì, nhưng tôi cũng chẳng có gì phải giấu giếm. Tôi thuật lại hoàn cảnh khi tôi rời London, chuyện mua bán đôla. Cả chuyện buôn vàng. Đôi mắt linh hoạt, thông minh không lúc nào rời tôi.
— Sao lại đi Kenya?
— Sao lại không đi Kenya?
Ông Hak tủm tỉm cười:
— Đồng ý. Cho tôi nghe vụ đồ vặt lạ mắt của ông.
— Chẳng có gì đáng nói, tôi tin chắc có nhu cầu và tôi sẵn sàng mở thị trường hoặc phát triển rộng thêm. Có thế thôi.
Mấy phút trước đó tôi có ý định giải thích thật hùng hồn, đề cao sáng kiến của mình. Nhưng từ khi đứng trước mặt con người bán nhân tạo này tôi bỗng có cảm tưởng là thế chẳng đi đến đâu. Có khi sự kín đáo của tôi lại làm ông ta xiêu lòng cũng nên; mà cũng có thể sự việc đã được quyết định trong có vài giây như vẫn thường xảy ra. Dù thế nào đi nữa, tối hôm đó ông ta cũng thông báo với tôi rằng nhà máy do Ching gì đó làm giám đốc thương mại là nhà máy của ông, cũng như nhiều nhà máy khác và nhân tiện đây ông cho biết: Bằng lòng cấp vốn cho tôi sản xuất đồ vặt với mức một trăm năm chục ngàn đôla. Nếu cần có thể cấp hơn. Tuy nhiên ông không nói ra điều sau đó sau tôi mới biết: Thực ra ông là một nhà kinh doanh đầu tàu của nước Trung Hoa ông Mao; với tư cách đó ông ta quản lý nhiều tài sản, vốn liếng rất lớn không chỉ có ở Hong Kong mà ở khắp nơi trong vùng Đông Nam Á, và ở xa hơn nữa. Thực tế này về sau đối với tôi sẽ có ý nghĩa rất cơ bản, quyết định, và trên một số phương tiện, nó sẽ là nguồn gốc một nỗi lo sợ lớn nhất cuộc đời tôi.
Dù sao đi nữa khi tôi quay về Hong Kong, khách sạn Victoria, không còn có gì cản trở tôi lao vào công việc mà Hyatt đã chê. Tuy vậy, cuối tháng này, có lẽ vì thấy tôi lập được kỳ công trong việc tìm kiếm tài trợ của ông Hak, gã cũng có phần nao núng và nhận giúp tôi: Mạng lưới thương mại tại Châu Âu mà gã vẫn phô trương thực ra là có thật, và gã hứa sẽ cùng đi với tôi sang Paris để bố trí những đầu mối cần thiết. Tôi đề nghị lần cuối cùng (một việc ngu ngốc), nhưng gã từ chối góp vốn với tôi (thật may hết sức). Gã chỉ thích được trả một khoản tiền không cố định.
Đây sẽ là thất bại lớn nhất trong cuộc đời kinh doanh của gã. Trong mười một tháng kém vài ngày, việc sản xuất, phân phối và tung ra bán các đồ vặt lạ mắt đã đạt doanh thu mười triệu đôla. Phần của tôi sau khi trừ phần của ông Hak: Một triệu rưỡi đôla.
Cuộc nhảy tiếp tục. Càng nhanh, càng nhanh hơn...
Hyatt cũng tới London đã vài ngày; ở đây những quan hệ của Hyatt xét cho cùng là rất có ích, tuy ít hơn lời khoe của gã nhưng nhiều hơn mong ước của tôi. Tất nhiên tôi không có ý định tự mình đi gặp từng người bán lẻ trên toàn nước Anh để chào hàng, nên đã thuê một cô gái rất đẹp làm việc này, người Đan Mạch, tên Ute Janssen, cao một mét tám sáu hoặc tám bảy, mỗi khi được hỏi tại sao cứ khư khư mãi chiếc măng tô trên người lại thản nhiên bộc lộ thân hình trong một mảnh vải che. Tôi tìm được cô ta trong một cửa hàng cho thuê các cô chiêu mẫu quần áo. Đích thực một cô chiêu mẫu, không thể nghi ngờ gì được: Chỉ cần nhìn cô la cà đây đó với hai tập Bách Khoa Toàn Thư Anh đội trên đầu, mồm nhai củ cà rốt ưa thích. Cô không đeo nịt vú, nên mỗi khi cô cúi xuống để trình bày cái mở nút bằng thuốc nổ TNT, con cá sấu móc túi đạp chân, thì khách hàng có thể nhìn suốt đến tận đũng slip của cô ta, ấy là nói nếu cô có mặc thứ đó. Ngoài tội ngốn một khối lượng cà rốt đáng sợ, cô không đến nỗi đắt. Tôi định trả theo giờ công như thường trả các cô chào mẫu quần áo. Cô cực lực phản đối:
— Tôi muốn hưởng theo phần trăm. Món hàng đồ vặt ấm ớ của anh là thứ hết sức ngu ngốc, nhưng mỗi ngày thiên hạ lại lập một kỉ lục mới trong việc tiêu thụ món hàng này, phải bán được hàng tấn.
Chúng tôi đang ở trong khách sạn Ritz tại London: Sau lưng cô gái Đan Mạch, anh chàng Hyatt như một gã thủy thủ hải quân hoàng gia bị đắm tàu đang đứng sau ả cá voi mắc cạn, đang múa tay ra hiệu cho tôi đừng nhận lời cô ả (làm ăn với Hyatt có lợi ở chỗ: Hễ gã phản đối có nghĩa là công việc sẽ trôi chảy, lần nào gã cũng nhầm)
Ute phát hiện ngay các tín hiệu cờ tay của Hyatt, cô cặp luôn gã vào nách, lôi ra ngoài hành lang, đóng chặt cửa.
— Thế đấy! Tuy tôi trông như cái tháp canh nhưng không đến nỗi đần. Tôi đòi giữ độc quyền ở Anh và Đan Mạch.
*Ở Pari.
Sau cơn tỉnh công phu thường ngày, tôi biết lúc này ở Hong Kong hơn ba giờ sáng, giờ Li và Liu khỏe khoắn nhất trong ngày. Do một phép thần có thể làm bất cứ công dân người Pháp nào cũng phải sửng sốt, hệ thống điện thoại hoạt động ngay lập tức, tôi gặp ngay Li hoặc Liu ở đầu dây. Hôm ở London tôi đã phát hiện thêm được những đồ vặt mới và đã đăng ký xin ngay bằng sáng chế, trong khi đó có “Túi cười” (khi ta nhấc túi lên nó sẽ tuôn ra một chuỗi cười của ma cà rồng), và nhất là “Ngân hàng Fantomas”, cái ống tiền có bàn tay thò ra giật lấy đồng tiền trong tay ta bỏ vào ống; đây sẽ là một con ngựa chiến hàng đầu của tôi. Li và Liu cho ra một tràng cười xuyên lục địa. “Hãy khoan định giá đơn vị” Hyatt nói, càng ngày càng tỏ ra bực bội vì nhận thấy áp phe này càng ngày càng phát triển không ngờ. Thành công trông thấy. Thấy qua phản ứng của thị trường Pháp. Càng thấy rõ hơn khi gã tiếp xúc một số nhà kinh doanh Hoa Kỳ. Họ chú ý món hàng của tôi, tôi lại nắm hết bằng sáng chế trong tay; chúng tôi ký ngay hợp đồng cho phép họ mua thẳng của tôi để bán lại, hoặc sản xuất theo giấy phép của tôi. Tôi quyết định cử Hyatt đi với họ sang Mỹ để giải quyết nốt các chi tiết, còn tôi ở lại Châu Âu. Đáng lẽ đảo ngược sự phân công, Hyatt ở lại đây còn tôi sang bờ bên kia đại dương, nhưng tôi muốn gặp Lavater.
*Chưa có tin mới, Lavater bảo tôi:
— Tôi đã nói với anh về nhà Leoni chưa nhỉ?
— Chưa.
— Hai vợ chồng được thuê trông coi Capila cách đây mươi mười hai năm. Do công chứng viên thuê. Tôi đã trực tiếp hỏi chuyện họ: Họ chẳng biết, chẳng nhìn thấy gì, ngoài chiếc xe đăng kí ở Thụy Sĩ, hình như xe Mercedes thì phải, tới đây lúc đêm rồi đi ngay khi trời sáng rõ. Viên công chứng đã báo trước cho hai vợ chồng dặn không tiếp xúc và cũng không được tìm hiểu xem ai đi trên xe. Thực tế họ không nhìn thấy ai thật.
— Vào hồi nào?
— Ngày 28 tháng tám, ba năm trước.
— Đúng dịp kỷ niệm mười năm bố tôi qua đời.
Lavater mỉm cười. Tôi còn nghĩ bụng: Biết đâu không phải là anh!
— Hay nhỉ! - Tôi cười phá lên.
— Bình tĩnh. Cặp Leoni không biết gì hơn. Họ chỉ được lệnh trông nom nhà cửa, không được thay đổi chút gì.
Tôi vô cùng tức giận. Ai là chủ ngôi nhà ở St. Tropez? Hắn là ai? Điều bí ẩn này làm tôi phát điên. Tôi hỏi Lavater:
— Còn tay công chứng viên? Mua được không?
— Nghe kỳ quá, - Lavater đáp.
Tôi cười phá lên, anh ta mỉm cười an ủi:
— Thôi, đừng nhìn mọi cái với cặp mắt bi quan thế. Tất cả rồi sẽ rõ ràng. Sao không lại nhà mình ăn tối một bữa?
— Thế còn bản danh sách cậu đã hứa đâu?
— Đang định sau vài ngày nữa sẽ gửi sang Kenya cho anh một bản báo cáo. Nhưng anh lại về Paris. Vậy anh còn phải đợi. Anh có muốn tôi trả anh số tiền năm chục ngàn đôla không? Trả ngay lập tức nếu anh đòi?
Tình bạn của chúng tôi chắc chắn đã có từ trước rồi, nhưng từ phút ấy nó mới chính thức ra đời. Mặc dầu trong bụng vẫn giận thật, mặt tôi vẫn mỉm cười với anh ta.
— Đồng ý đợi đến lúc có báo cáo. Và sẽ đến ăn tối với anh một bữa. Rất vui lòng.
*Hai ngày sau đó là hai ngày chạy long tóc gáy. Dựa trên mạng lưới rất hữu hiệu của Hyatt, tôi tạo nên một tổ chức có đầy đủ tính chất Châu Âu, gồm những người sau này sẽ gắn bó mật thiết với tôi mặc dầu có vụ kinh doanh “đồ vặt”. Những người ấy về sau tôi đều gặp lại, chẳng hạn như Letta ở Roma. Tuy nhiên, những kết quả, có thể gọi là chiến thắng của tôi vẫn không làm tôi trút bỏ được nỗi băn khoăn tức giận, gần như mối hận thù do những tin tức của Lavater làm nẩy nở trong lòng. Hyatt đã sang Mỹ, tôi còn có một mình trong lúc chỉ hai ngày nữa là sinh nhật hai mươi hai tuổi. Sau mười, hai mươi cuộc nói chuyện, tranh cãi, người tôi mệt mỏi, phải trốn trong phòng trọ. Tay mân mê chiếc bật lửa ghi âm, cứ mở nắp là nó hét tướng: “Bạn khốn khổ ơi, mắc bệnh ung thư đấy!” Tế nhị như quỷ sứ, dễ nhìn nữa, tệ hại hơn là nó sẽ rất ăn khách, ngay lúc này đã được ưa chuộng. Trong ba ngày đã bán hơn chục ngàn cái. Tôi ngắt điện thoại.
Cách một ngày sau, vào thứ sáu, tôi cùng với Sarah hạ cánh xuống Geneva. Tôi thuê xe ở Cointrin, không dừng lại Geneva mà quay về Pháp qua Annemasse. Đường lên dốc dần. Đến Cluses tôi rẽ trái về hướng Morzine, ở đấy khách sạn Parador sắp đóng cửa nhưng hứa sẽ đợi và cho trọ với điều kiện chỉ có hai chúng tôi, và số người phục vụ sẽ rất ít. Ánh mắt xanh giễu cợt của Sarah:
— Tại sao bỗng nhiên lại mê núi non đến thế?
— Chán ngấy bọn Kikuyn, bọn Tàu, chán vùng nhiệt đới rồi. Muốn xem bò cái.
— Thế thì phải tới Normandie. Đầy bò cái.
Cô nàng rất ranh ma. Tôi không bao giờ, sẽ không bao giờ giấu nổi cô ta điều gì.
— Lúc nào đi Geneva?
— Ai bảo đi Geneva? Đi làm gì?
— Mắt em bảo. Bao giờ? Hôm nay? Ngay đêm nay, khoác áo choàng, đeo mặt nạ?
— Mai. À không, ngày kia.
— Biết rồi. Hôm ấy là chủ nhật, đường phố sẽ vắng tanh không có ma nào đi ra ngoài. Thừa biết đi ấy chứ! Nhân tiện, chúc mừng sinh nhật chàng Zouave. Anh có biết tại sao em bỏ rơi cả một tá nhân tình người Châu Phi không? Chúc mừng sinh nhật anh! Có những lúc em thấy anh gần như thương được.
*Đúng như cô nàng dự đoán. Chín giờ sáng chủ nhật, Geneva cũng vắng vẻ như khách sạn chúng tôi trọ đêm qua. Để cẩn thận đến cùng, tôi bỏ qua cái cười chế giễu của Sarah, đỗ xe tận bờ bên kia hồ Léman, đi bộ qua cây cầu nhỏ Bergues để qua sông Rhône, dọc đường nghỉ chân trong vườn cây trên đảo Rousseau. Đứng đó nhìn rất rõ trụ sở ngân hàng, mặt tiền có để tên Yahl. Người tôi run lên. Sarah nắm tay tôi, dựa vai vào vai tôi.
— Anh điên mất rồi, Franz. Anh định bỏ cả cuộc đời vào việc trả thù thằng già ấy sao?
Đời thuở nào, có ai rửa nổi hận thù đối với một thằng giám đốc ngân hàng Thụy Sĩ?
... Eo cô áp sát eo tôi. Thân hình Sarah mảnh dẻ thường xuyên rám nắng từ đỉnh đầu đến gót chân, tóc nâu tự nhiên gần như đen; nhỏ con nhưng chắc lẳn, cặp vú nhỏ xinh mà rắn. Làm tình với cô ta không nhất thiết là một cuộc ái ân mà thường là một trận chiến mà tôi chỉ thắng khi gặp dịp.
— Anh ơi, hãy quên hết đi. Chúng mình sang Hong Kong với nhau. Tương lai anh rất sáng sủa, em không biết nói gì nữa, không lẽ anh cần nghe lên lớp? Quên thằng ấy đi. Anh sắp giàu to. Một ngày kia còn có thể giàu hơn nó. Lúc ấy anh sẽ làm cho nó, gì nhỉ, một cánh tay danh dự.
—Cứt!
— Em muốn uống cà phê.
— Ít nhất cũng đi ngang qua đó đã.
— Và đái vào cửa nhà nó một bãi.
Chúng tôi qua sông Rhône, xuyên qua quãng trường đầu cầu Mont Blanc; vòi nước phun bên trái, mặt tiền nhà ngân hàng bên phải. Sarah thì thầm:
— Có khi nó đang nấp trong bóng tối kia kìa, rình anh bằng cặp mắt đen của chó rừng.
— Xanh, cặp mắt nó xanh.
— Cà phê của em đâu?
Đến trước mặt trụ sở câu lạc bộ Touring chúng tôi rẽ phải để ra phố Rive. Thế là hết. Chẳng được việc gì, cố nhiên. Nhưng tôi vẫn còn tái xanh, gần như phát ốm. Sarah lo sợ:” Lạy Chúa! Đến nông nỗi này cơ à, Franz? Anh điên thật rồi. Em nói nghiêm chỉnh đấy”.
Chúng tôi trở về Morzine, ở trên đó, tự cô nàng làm tình với tôi, rất dịu dàng, khác hẳn mọi bận. Xong, cô đi lại trong phòng với vẻ bận rộn mà các cô thường cố trong những nơi họ coi như nhà mình, dù nơi đó chỉ là căn phòng khách sạn. Tôi hỏi:
— Em thật sự tin điều em đã nói chứ, là anh sắp giàu đến nơi ấy?
Cô bật cười, tôi lại nhận được ánh mắt lườm qua mi rất quen thuộc.
— Tin. Và bụng ông sẽ phệ ra, ông sẽ diện những bộ đồ len chải, ông có du thuyền, có hai dao cạo điện để phòng có một cái bị trục trặc. Còn bây giờ, xin ông nhanh chân lên kẻo lỡ chuyến bay.
*Từ Paris tôi lại gọi đi Hong Kong. Công việc trôi chảy, xưởng máy của Ching gì đó chạy hết công suất, nhiều nhà máy khác của ông Hak đã dự vào vũ khúc, nhả ra hàng tấn đồ vặt lạ mắt. Cùng với Sarah tôi đi khắp Châu Âu: Đức, Ý, Tây Ban Nha, Scandinavia, sang cả Morocco và Ai Cập, Hy Lạp. Đến đâu cũng tranh cãi, ký kết hợp đồng. Làm thật nhanh, tôi không thể ngồi yên chỗ, gần như lúc nào cũng cuống cuồng. Hyatt điện cho tôi, ngay sau đó gã trở về từ New York và California, nơi gã thu được kết quả vượt mọi mơ ước. Gã vừa hãnh diện, lại vừa buồn phiền vì những thành công này: Gã không được xơ múi gì. Tôi an ủi gã nhưng không mở két bạc: Có cơ hội tốt mà không xoáy thì mặc xác gã.
Tôi quá bận nên quên không gọi lại cho Lavater như đã hẹn. Cuối cùng cũng tìm được anh ta không ở văn phòng mà ở một máy khác tại căn nhà gần Chagny ở xứ Bourgogne. Anh đã cho tôi số máy từ trước.
— Tôi đang thắc mắc không biết anh ở đâu...
Chắc có tin mới, tôi bỗng nhiên có trực cảm.
— Không biết làm cách nào liên lạc được với anh. Nói vắn tắt, đã có bản danh sách cho anh đây rồi.
Im lặng. Tôi bóp ống nghe gần vỡ bét ra. Trong thù hận cũng có nhiều khoái cảm xác thịt.
— Bao nhiêu thằng tất cả?
— Bảy.
— Có Martin Yahl?
— Tất nhiên. Trong phạm vi có thể, tôi đã xếp các vị này theo thứ tự trách nhiệm, trách nhiệm trong câu chuyện đã xẩy ra, hẳn là vậy, và Yahl đứng đầu bảng, số một.
Tôi đang nói với Lavater từ Roma, đúng lúc định về Hong Kong gặp Ching gì đó, hắn ta đòi gặp tôi từ mấy hôm nay rồi. Tôi nghĩ thật nhanh rồi bảo Lavater:
— Cô Sarah sẽ tới khách sạn Ritz ở Paris tối nay. Anh đưa danh sách cho cô ấy được chứ? Rất tốt.
Sarah cau mày khi nghe tôi tự tiện sai phái cô như vậy.
— Cảm ơn Lavater.
Tôi định gác máy. Lavater:
— Cimballi? Franz?
— Gì nữa?
— Hãy làm cho chúng thật khốn khổ điêu đứng. Chỉ có mỗi thứ đó là chúng chưa ăn cắp được!
Tôi mỉm cười với chiếc máy. Như nước thủy triều đang lên, trong lòng tôi lại bừng lên cơn say dữ dội đã cảm thấy trên đại lộ Old Brompton hồi xưa. Lúc này nó càng mãnh liệt, càng dữ dội bội phần.
Đúng! Chúng nó sẽ khốn đốn vì tay tôi.