← Quay lại trang sách

Chương 5

Nước nào cũng có thứ tiền của mình, tiền các nước chuyển đổi trong quá khứ xa xăm, sự chuyển đổi này là lí do tồn tại của những người ngày nay được gọi là nhà kinh doanh tiền tệ, thời ấy họ hành nghề trên chiếc ghế dài[5]. Ví dụ bạn có florin Hà Lan nhưng lại cần có peseta Tây Ban Nha. Bạn đi mua đồng tiền thứ hai bằng đồng tiền thứ nhất theo tỉ giá giữa hai thứ tiền. Bạn đưa florin nhận peseta. Bạn vừa hoàn thành một cuộc đổi tiền rất đơn giản.

Chỗ lí thú trong việc này xuất hiện khi bạn mua ngoại tệ hoặc vàng mà không trả tiền ngay, mua hoặc bán chịu. Đôi khi bạn cần làm như vậy vì công việc, nhưng nó còn là một trò chơi đầy ma lực, rất nguy hiểm, có thể được lớn mà cũng có thể thua to. Bạn ngụ ở Bresse bên Pháp, chăn nuôi gà, những chú gà béo tròn mềm mại có cặp mắt to nũng nịu. Bạn bán gà cho một người ở New York chẳng hạn. Tất nhiên người ấy phải trả bằng đôla. Vì Bresse không ở liền cạnh New York và vì hàng loạt lí do khác, khách hàng không thể trả tiền ngay hôm bạn gửi gà đi, mà chỉ trả khi nhận được gà, có khi còn muộn hơn nếu bạn chịu nhận hối phiếu. Tóm lại bạn sẽ nhận được tiền gà sau ba tháng. Bạn bán một nghìn con, mỗi con mười đôla (loại gà có cặp mắt rất nũng nịu) và sẽ nhận được mười ngàn đôla sau ba tháng. Bạn không khoái lắm vì phải chờ ba tháng, và trong ba tháng ấy đồng đôla có thể mất giá. Nghĩa là khi kí kết hợp đồng bán gà thì một đôla ăn năm franc, nhưng sau ba tháng bạn sẽ không được lĩnh năm chục ngàn franc mà có thể chỉ bốn tám, hoặc bốn lăm, có khi chỉ bốn chục ngàn franc. Phải chấp nhận sự rủi ro, bạn tới ngân hàng trình bày đầu đuôi. Ngân hàng sẽ hiểu ngay; họ rất thông minh trong việc này. Ngân hàng nhận mua trước số tiền mười ngàn đôla đó, sau khi đã kiểm tra khả năng thanh toán của anh bạn hàng Mỹ kia. Ngân hàng trả ngay cho bạn mỗi đôla ăn năm franc, trừ lãi suất một phần trăm tháng, mười hai phần trăm năm và phí bảo hiểm. Nói cách khác, ngân hàng chịu thay cho bạn sự rủi ro đồng đôla mất giá. Họ đã được bảo hiểm một phần rồi. Và nếu gặp may, giá đôla tăng lên họ sẽ được lợi lớn.

Đấy là trường hợp việc mua bán này do một nhà kinh doanh tài chính đeo trên ngực tấm Bắc Đẩu Bội Tinh, bận quần lửng, đứng ra chấp nhận sự rủi ro đồng đôla có thể tăng hoặc giảm giá trị trong một thời gian ngắn hoặc dài - nhân danh một tình yêu hoàn toàn vô tư đối với nền tự do kinh doanh. Còn nếu do một con người bình thường tiến hành, như tôi chẳng hạn, chỉ cốt thu lời, là mục đích không bao giờ ông chủ ngân hàng đặt ra, thì người ấy sẽ bị coi là môt tên đầu cơ đốn mạt.

Điều phải chứng minh là như vậy.

*

Ngày 11 tháng sáu, tôi lên máy bay. Không đơn độc; đến phút cuối cùng, Sarah đột nhiên đổi ý làm tôi ngớ ra: Cô quyết định đi.

— Thế khách sạn của em?

— Quỉ tha ma bắt nó đi.

— Sarah, có chuyện gì thế?

— Đâu có, chẳng có chuyện gì hết!

Vẫn cái nhìn quái quỉ, mặt hơi ngửa ra sau, mắt lim dim lấp lánh vẻ giễu cợt, tuồng như coi tôi là thằng cha trông tức cười nhất thế giới.

— Em thực bụng nói là sẵn sàng bỏ việc làm quí báu của em chỉ vì muốn đi với anh?

— Nếu không thích có em thì cứ nói thẳng.

Một hình ảnh chợt tái hiện: Giữa đám đông đen bóng trên đại lộ Kilindini ở Mombasa, nụ cười chế giễu và thân hình của Sarah tặng cho tôi đang ngồi trong cũi như một con thú. Nụ cười đã sưởi ấm tôi chính vì nó có vẻ giễu và thân tình, như muốn nhắn nhủ không sao, không có gì nghiêm trọng đâu, lại còn ngộ ngộ là khác.

— Anh rất cần có em, cần từ khoảnh khắc gặp em lần đầu.

— Anh yêu, nghe anh nói mà mát lòng mát dạ! Tất nhiên em trả tiền mua vé của em.

Cô nhận lời cùng đi một chuyến. Nhận cả chầu champagne tôi đãi trên máy bay, vừa nhấm nháp vừa nhìn bình minh ló dạng trên quần đảo Hong Kong, rải rác trên mặt biển Trung Hoa.

Đích của chúng tôi: Zurich qua Roma.

*

Tôi đã nói: Các dữ kiện chồng chất, Alfred Morf đưa tôi ra cửa hôm tôi rời London ngày 23 tháng 11 năm 1969; tôi tới Mombasa ngày hôm sau, 24; đến soát ngôi nhà St. Tropez một đêm trong tuần thứ hai của tháng bảy; cũng vào thời gian này tôi tiếp xúc với Lavater; vài ngày sau tôi ra đi vĩnh viễn khỏi Kenya; sang Hong Kong gặp ông Hak rồi tung món đồ vặt lạ mắt ra thị trường vào tháng mười; đi London, Paris, Geneva, gặp các cô nàng Ute và Letta ở Roma, cô Sarah sang Hong Kong với tôi; nhân dịp Noel vợ chồng Lavater đến ở với tôi tại Victoria Peak và cùng nhau thảo kế hoạch đánh Landau; khởi sự tấn công hắn vào tháng hai vào dịp tôi găp Catherine Varles ở Nassau, Bahamas, cuộc tấn công dựa vào kết quả gặp gã Thổ, kéo dài trong những tháng tiếp theo đồng thời với cuộc nghỉ cuối cùng trên hòn đảo của ông Hak; lời đề nghị kỳ lạ của ông ta.

Lời đề nghị ấy khiến tôi đáp máy bay đi Zurich, đi xe hơi, thẳng tới cổng khách sạn Baur bên hồ. Tôi tới đây một mình. Một lần nữa Sarah lại chứng minh với tôi cô là người khó đoán trước: Khi tạm dừng ở Roma đột nhiên cô báo cho tôi biết với vẻ mặt thản nhiên và nụ cười châm biếm, rằng cô không cùng đi với tôi sang Thụy Sĩ nữa trái lại cô vừa quyết định đi một mình về Dublin.

— Em sang Ireland làm quái gì vậy?

— Thăm bố mẹ.

— Bao năm nay em không về, không thư từ rồi còn gì?

— Vì thế càng cần phải về.

Không moi được gì hơn. Một bức tường, tuy cô nàng vẫn mỉm cười bình thản. Cô ôm hôn tôi.

— Em sẽ điện về khách sạn ở Zurich.

— Không biết anh sẽ ở đây bao lâu.

— Nếu vậy, em sẽ hỏi Lavater. Hắn biết chỗ anh, phải không?

— Đồ quỉ!

— Đúng đấy anh yêu!

Ngày 12 tháng sáu tôi đổ bộ xuống Zurich. Nếu tính cả tình thế do Sarah tạo ra, đến nỗi bực tức cô gây nên, hoàn cảnh của tôi là như thế này: Việc kinh doanh đồ vặt tiến triển rất tốt, nhờ nó tôi thanh toán xong với gã Thổ năm triệu franc tiền mua bản khế ước của Landau, còn thừa một triệu đôla và một ít “bụi bặm” đó vẫn là nguồn lợi lớn nhưng đã có dấu hiệu báo trước nguồn này đang cạn dần; đã có những kẻ chu đáo hơn, kiên nhẫn và được trang bị mạnh hơn tôi đang sắp nhảy vào thay chân tôi, nhất là bọn Nhật.

Tôi có trong tay một triệu đôla là số lẻ. Tôi quyết định tung một triệu này góp vào số một trăm triệu của ông Hak gửi. Món nào hời cho ông Hak tất nhiên cũng hời cho tôi, cả xứ Hong Kong này ca tụng tài kinh doanh của lão. Tung hết vào đây là sự liều mạng đối với tôi và tôi chỉ còn chừng ấy tiền, vì tôi sẽ chỉ còn duy nhất tiền lãi bán đồ vặt để chi tiêu hằng ngày, số lãi này càng ngày càng giảm. Tệ hại hơn nữa; ném một triệu bé bỏng này vào cùng với tiền ông Hak phải sau ba tháng nữa, tức là đến tháng tám mới biết kết quả. Tức là chỉ hai ba tuần trước cuộc bán đấu giá nhà máy bia lần thứ hai, ở đó tôi phải chìa ra năm, sáu triệu franc để chiếm được hoàn toàn cơ ngơi của Landau.

Đây là cú nhào lộn siêu đẳng; tôi biết rất rõ như vậy.

Xế trưa ngày 12 tháng sáu, theo lời giới thiệu của ông Hak tôi tới chi nhánh ở quảng trường Paradeplatz của công ty ngân hàng Thụy Sĩ, đặt trụ sở chính ở Bâle. Tôi gửi vào, đúng hơn là chuyển vào đó số tiền một trăm lẻ một triệu đôla trong tài khoản đứng tên tôi rải rác khắp các ngân hàng trên thế giới.

Chiến dịch tôi sắp mở, theo đúng chỉ thị của ông Hak (trừ một triệu con con của riêng tôi tuồn lẫn vào trong gói) là một vụ đầu cơ đôla và vàng. Bằng cách mua chịu vàng trả bằng đôla sau ba tháng. Làm như sau: Tôi yêu cầu ngân hàng Thụy Sĩ đứng tên - nhưng do tôi chịu rủi ro - ký hợp đồng với một ngân hàng Hoa Kỳ, ví dụ ngân hàng Quốc Gia Số Một, trị giá năm trăm lẻ năm triêu đôla, qua hợp đồng này ngân hàng Thụy Sĩ cam kết sau ba tháng sẽ giao năm trăm lẻ năm triệu đôla cho ngân hàng Quốc Gia Số Một, còn ngân hàng này phải cam kết sẽ giao số vàng tương đương với số tiền ấy theo thời giá hiện hành của đồng đôla. Nếu trong thời gian đó đồng đôla bị sụt giá so với vàng, ngân hàng Thụy Sĩ sẽ mua số đôla ấy đúng vào thời điểm phải giao nộp để trả cho ngân hàng Quốc Gia Số Một. Anh này dù không muốn vẫn phải giao số vàng theo giá cũ từ ba tháng trước, khi đồng đôla chưa sụt giá. Cả hai ngân hàng chẳng thua thiệt gì: Họ chỉ đứng tên để giao dịch chứ không bỏ tiền. Chỉ có khách hàng đứng mũi chịu sào: Ở Zurich là Hak và tôi, ở New York hoặc ở một guichets bất kì của ngân hàng Quốc Gia Số Một là một gã nào đó, hai đối thủ chọi nhau bằng sự tăng và giảm giá đồng đôla (hoặc của bất cứ đồng tiền nào, của vàng hoặc bắp, lúa mì, đồng, hoặc bất cứ hàng gì đang có giá).

Nếu khách hàng chơi trò đầu cơ này vẫn là người có máu mặt xưa nay, có khi ngân hàng không yêu cầu phải kí quĩ, thành ra gã đầu cơ được đặt vào tình thế rất kỳ lạ: Nếu hắn ta trúng quả, hắn thu lãi qua việc bán hàng triệu đồng toàn nước bọt, trong tay chẳng có đồng vốn nào mà được lời vô kể. Tất nhiên, nói chung các ngân hàng thường đòi kí quĩ. Mặt khác tính cẩn thận đáng yêu của các chủ ngân hàng đã nặn ra rừng tiếng Anh rất đẹp margincall có nghĩa là nếu trong thời gian thỏa thuận, sự biến động trên thị trường vượt quá số tiền kí quĩ hoặc vượt quá khả năng chi trả của khách thì ngân hàng có quyền đòi bổ sung, nâng thêm độ an toàn “Xin trả thêm nếu không thì ngài bể mánh và mất đứt tiền cược”.

Ông Hak biết rõ những điều ấy, chính lão đã giảng giải cho tôi. Theo tỉ lệ phải kí quĩ mười phần trăm giá kinh doanh, cứ có một trăm triệu đôla trong tay lão có thể thực hiện việc chuyển dịch trị giá một tỉ đôla. Lão khôn ngoan xin ký quỹ với tỉ lệ hai chục phần trăm, chấp nhận khả năng giảm một nửa tiền lãi nhưng lại thủ tiêu được triệt để khả năng phải trả thêm margincall. “Ngộ nhỡ vẫn có, tôi gọi điện cho ông chứ?” Ông Hak: “Gọi cho Li và Lưu”. - “Hai thằng hề chuyên về đồ vặt và kĩ xảo điện ảnh này sao lại chen vào đây?” - “Vì chúng là cháu tôi, anh không biết sao?” Mẹ kiếp! Có ai nói cho đâu mà biết!

Đại diện giám đốc ngân hàng Thụy Sĩ chưa gặp tôi lần nào.

— Năm trăm triệu đôla phải không?

— Năm trăm lẻ năm triệu.

Dưới vẻ mặt thản nhiên nghề nghiệp, thực ra anh ta đang bối rối: Số tiền không bình thường, tuổi trẻ của tôi làm anh ta ngần ngại.

— Có cần xem hộ chiếu?

— Vâng, xin cảm phiền.

Rõ ràng tôi đã đủ hăm mốt tuổi, rõ ràng tôi vừa nói năm trăm lẻ năm triệu, kí quĩ một trăm lẻ một triệu. Anh ta xem kĩ các lệnh chuyển khoản, cộng lại thành số tiền tôi gửi.

— Số tiền lớn tôi cần xin lệnh cấp trên trước khi thỏa thuận với anh.

Tôi trả lời: Rất thông cảm. Tất nhiên chỉ có anh ta và người cấp trên chuyên trách các tài khoản đánh số là hai người duy nhất ngoài tôi ra, được biết rằng tài khoản số 18790 do ngân hàng Thụy Sĩ đứng tên để thực thi việc chuyển dịch năm trăm lẻ năm triệu đôla thành vàng, thực ra là của Franz Cimballi. Chính tôi.

— Tôi sẽ trở lại sau một giờ, được chứ?

Anh ta trả lời được. Tôi ra ngoài; Zurich là nơi tôi đã tới cùng với mẹ tôi hồi bé, hai mẹ con đã từng ngồi tàu đi chơi trên hồ; trong kí ức tôi vẫn còn in sâu hình ảnh dãy Alpes xanh ở Glaris khi hoàng hôn xuống, bờ hồ vách đứng như sắp đổ dưới những ngôi biệt thự tuyệt diệu. Zurich là nơi mẹ tôi đã sống thời thơ ấu khi chạy trốh khỏi nước Áo phát xít, nơi bố mẹ tôi gặp nhau. Bây giờ tôi đang ở đây. Khoảng hơn một giờ sau, qua nhiều lần ngược xuôi đại lộ Bahnofstrasse, sau khi đã trông thấy mặt tiền nhà ngân hàng tư nhân Martin Yahl trên bến Guisan như khi ở Geneva, tôi quay lại gặp người đại diện giám đốc. Họ bằng lòng, chấp nhận rủi ro. Đối với họ nào có rủi ro gì!

Tôi về khách sạn, gọi gã Thổ.

Gã phản ứng nhanh hơn tôi tưởng. Mới nói ba câu gã đã hiểu ra.

— Anh ở đâu, Franzy?

— Franz.

— Anh ở đâu?

— Zurich.

— Chỗ nào?

— Khách sạn Baur.

— Sai lầm. Bọn kinh doanh tiền tệ đều ở đấy cả. Cậu sẽ bị chúng tỏi. Mình không mhúng bắt gặp ở đấy cùng với cậu, Yahl hơi mạnh hơn mình. Sẽ tới Dolder. Năm giờ sẽ có chuyến bay. Hẹn gặp ở Dolder ăn tối. Cậu chi tiền.

Phản ứng nhanh nhậy của gã làm tôi ngạc nhiên, nhưng gã giải thích cho tôi ngay khi ngồi riêng với nhau. Ngồi riêng chỉ là cách nói thôi: Gã kéo theo bốn ả, nhìn cảnh bọn bồi bàn của Dolder đỏ lựng mặt khi len lỏi giữa những thân hình gần như trần truồng này cũng đủ bõ cất công tới đây.

— Trên máy bay đã trần truồng rồi?

— Đậy bằng chiếc dù; mình chưa đến nỗi thành quái vật. Thôi, nói chuyện nghiêm chỉnh đi, kể nghe thử.

Chẳng bao lâu tôi đã kể hết và ngạc nhiên thấy các tin tức của tôi rõ ràng không có trọng lượng nhiều, Cặp mắt mượt như nhung của gã Thổ nhìn tôi chằm chằm.

— Tóm lại, cậu buộc mình đi theo, nhả tiền ra, vì thằng cha Hong Kong nắm được nguồn thông tin cho biết đồng đôla sắp sụt giá?

— Mình không buộc, chỉ đề nghị thôi. Do cậu quyết định.

— Cậu có tin thằng Tàu dở hơi ấy?

— Có chứng cớ.

— Cái thằng gàn đi trên không khí, dưới đáy biển mà lại có những tin tức người khác không có?

Tôi có suy nghĩ của tôi. Ông Hak không kinh doanh riêng lẻ, ông có liên hệ với Bắc Kinh, đó là một nguồn tin. Sau này tôi còn được biết cuộc viễn du bí mật của Kissinger đến Bắc Kinh, những cuộc tiếp xúc kín đáo hồi này biết qua báo chí như mọi người khác, và tôi chỉ việc chắp nối mối quan hệ nhân quả.

Gã Thổ vẫn nhìn tôi:

— Cậu tung vào đấy bao nhiêu?

— Một triệu.

— Đôla Úc hay Hong Kong?

Tôi nhún vai:

— Mỹ

Gã huýt gió:

— Thế mà mới vài tháng trước, cậu mua của tớ bản khế ước bằng năm triệu franc Pháp. Khá khen! Cậu lên mây?

— Sáu mươi tám tuổi, Thổ ạ! Khi chúng mình chia tay hồi tháng hai ở London, cậu dặn tớ rủ cậu tham gia vào vụ làm ăn sau đó của mình. Rồi lại nhắc một lần nữa. Mình thả thang máy xuống cho cậu lên, thế là sòng phẳng với nhau chứ!

— Nếu trúng quả.

— Đúng, nếu trúng.

Gã Thổ mút con tôm hùm. Lắc đầu:

— Mình đến phát khóc lên vì vui mừng, lòng tràn ngập biết ơn cậu, Franzy!

— Cậu làm mình căng đầu quá. Đừng gọi mình là Franzy.

Gã tiếp tục lắc đầu, chùi mồm, uống cạn li champagne.

— Đánh cá con Rồng Bạc mười bốn ăn một! Cứt thật! Tớ sẽ nhớ đời. Con nghẽo đó là cái gì? Điệp viên của Mao chắc? Chơi, Cimballi, tớ chịu chơi! Tớ cũng buộc như cậu; một triệu đôla. Tôi đã theo cậu và còn theo tất cả những đòn đánh Landau. Tớ không biết cậu thù hằn gì nó nhưng rõ ràng cậu đang giết nó. Răng cậu to thật, chú bé!

Gã tủm tỉm cười nhìn tôi bằng cặp mắt đàn bà. Bất thình lình gã đưa cánh tay gấu chộp lấy gáy tôi; chưa kịp phản ứng gì, môi đã bị ngoạm chặt. Tôi dãy giụa, vớ được cái gì đánh bằng cái ấy. Hóa ra là con dao, má gã đã bị cứa nhẹ, môi bị một nhát khá sâu. Gã lùi lại, gào lên cười, mặc cho máu túa ra.

— Mình chỉ muốn bộc lộ lình bạn thân thiết, - gã nói giữa hai trận cười.

— Còn làm thế nữa tớ sẽ giết!

Gã im bặt. Không phải vì sợ, gã đâu có biết sợ là gì. Nhưng thái độ quyết liệt của tôi làm gã sửng sốt và thắc mắc. Gã lim dim mắt.

— Cậu bị kích động quá đấy, Franzy. Vì đứa nào? Chắc không phải Landau. Nó là đồ mạt hạng như mình đã nói: Vậy đứa nào? Yahl? Nó mạnh hơn cậu nhiều. Cả hai đứa mình hợp lại, nó vẫn còn mạnh hơn hai mươi lần.

Bữa ăn vừa mới bắt đầu, nhưng tôi khinh bỉ ném xuống bàn một đống tiền rồi bỏ đi.

*

Tôi mong đợi một tín hiệu nhắn gọi của Sarah, nhưng chẳng thấy gì. Bỗng nhiên nhận thấy mình biết về cô quá ít; có lẽ cô không ở Dublin. Cô sẽ còn im hơi lặng tiếng lâu, ngoài lá thư, thực ra chỉ là mẩu giấy ghi vắn tắt quẳng ở nhà Lavater: “Nhờ anh bảo Franz đừng lo lắng. Tôi chỉ muốn yên tĩnh một mình thôi.” Sau này được giải thích về sự im lặng đó tôi mới hiểu. Còn bây giờ, chỉ thấy tức giận phát điên. Bỏ rơi tôi vào giữa lúc này. Đến nỗi tôi không ngần ngại quay số máy ở Kensington, London, chẳng cần nghĩ cũng nhớ ra ngay vì đã gọi về đó nhiều lần trước. Một giọng ngái ngủ đáp lại.

— Suzie phải không? Franz đây.

— Trời! Anh biết đang mấy giờ không?

— London đang ba giờ sáng.

— Có một thời giờ này là giờ tốt nhất của em. - Cô thì thầm - Em lấy chồng rồi, nỡm ạ.

— Anh muốn biết địa chỉ Catherine Varles.

Im lặng. Tôi đã đoán trúng: Hai ả thông đồng nhau.

— Hôm ở Nassau, cô ấy đã cho em địa chỉ ngay trước mặt anh.

— Có, một địa chỉ ở Paris, anh đến đấy tìm và thấy một thứ công chứng viên người ở tận Breton, tính nết rất khó chịu, nó coi anh là thằng điên và tống cổ ra ngoài. Thôi Suzie, đừng giả ngây giả dại nữa, nếu không anh sẽ sang London kể hết với chồng em.

— Kể hết cái gì?

— Nhớ lại xem.

Nếu cô ả, cũng nhớ được ít chuyện cũ giống như tôi thì càng hay.

— Đồ khốn, em chẳng hiểu anh nói gì nữa.

— Anh muốn biết địa chỉ đó mà Suzie.

Cô ta im lặng rất lâu, tôi tưởng đường dây đã bị cắt. Mãi mới nói:

— Thôi được. Vả lại, đằng nào nó cũng đã hỏi thăm tin tức về anh rồi. Hai người liệu thu xếp. Chỗ ấy là Fournac, bên Pháp, vùng Thượng Loire, gần một nơi khỉ ho cò gáy gọi là Chomélix.

— Này, cô lại nói vờ...

Suzie đã gác máy.

Fournac chẳng là cái gì, hoặc chỉ là một nơi không đáng gì. Chỉ cần đi vòng qua thân cây, nhấc vài tảng đất là trông thấy làng, nếu có thể gọi đấy là cái làng. Lúc đến thành phố Lyon tôi gọi điện thoại cho viên thứ ký tòa thị chính để hỏi thăm đường, và đi theo đúng lời chỉ dẫn của anh ta. Tôi còn gọi cả cho Lavater ở Paris hỏi anh có nhận được tin tức gì của Sarah không. Anh trả lời không - vì lúc ấy chưa nhận được mảnh giấy vắn tắt báo cô ta chỉ cần yên tĩnh một mình.

Ngôi nhà rất lớn, không dưới hai chục phòng. Tôi nhấn còi rất lâu mà không thấy ai thưa. Tôi bèn vào thẳng gian bếp rộng, tối, trong có hai người đàn bà đang gọt khoai. Người trẻ hơn độ sáu mươi tuổi. Cả hai đều có ria mép như những gã Hungari.

— Tôi tìm cô Varles, Catherine Varles.

Cả hai cụ vẫn nhìn củ khoai đang gọt, coi như không có tôi.

— Nói đi, nếu không tôi sẽ cởi truồng và gào lên bây giờ!

Hai cụ quyết định thừa nhận sự có mặt của tôi. Ngón cái tay phải ướm lên lưỡi dao. “Ở đằng kia”. Tôi trở ra ngoài vườn, trèo lên mô đất phủ cỏ, trồng nhiều cây đại thụ, từ đây nhìn xuống thung lũng rất đẹp. Bên phải có con đường nhỏ xuống dốc, tôi xuống theo dốc. Qua vườn cây, một mảnh đồng cỏ, nghe tiếng nước sông trong trẻo. Con đường mòn luồn qua tán lá đổ ra cánh trảng nhỏ.

Nàng đang ở đó. Nàng ngồi ngay ngắn trên khúc gỗ, nghiêng mặt quay đi, da rám nắng, thân hình mảnh mai, xinh đẹp hết mức. Cạnh nàng có con chó to kềnh, giống chó ở đảo Đất Mới, nặng đến tám chục ký đang nằm ngủ.

Nàng cảm thấy tôi đang tới, yểu điệu quay sang nhìn tôi, trong mắt lóe lên tia vui sướng pha lẫn chút giễu cợt:

— Anh đi tìm có dễ không?

— Chẳng có vấn đề gì, sau vài tuần.

Con chó vẫn ngủ. Tôi đập nhẹ mũi giầy lên người nó:

— Sẵn sàng chiến đấu, chú vệ sĩ!

Chó mở một bên mắt lườm tôi rồi ngủ tiếp.

— Sao em không đóng yên lên lưng nó?

— Làm thế nó bị nhột.

Tôi nhìn quanh: Nơi đây thật đẹp, toàn cây và hoa, con sông nhỏ róc rách, tô điểm bằng đàn chuồn chuồn, bươm bướm vờn múa khắp nơi, và nắng.

— Anh ngồi được chứ?

Cặp mắt ánh vàng tươi tỉnh.

— Mmmm...

Tôi ngồi xuống cỏ dưới chân nàng, quay nhìn ra con sông. Tôi gối đầu lên đùi nàng. Lát sau, bàn tay nàng lướt nhẹ lên vai tôi, ngón tay gần chạm vào má. Thời tiết tuyệt diệu. Tôi hoàn toàn sung sướng.

Chú thích:

[5] Banque (ngân hàng) gốc từ banc (ghế dài), ngay trên đường phố.