Chương 6
Tháng bảy đến rồi đi, tôi vẫn không có tin gì về Sarah ngoài mảnh giấy đã nói trên. Sực nhớ có một hôm cô ta đã nói đến một thành phố ở Ireland, tôi tra cứu bản đồ và tìm ra cái tên đó: Ennis, quận Clare, gần sân bay quốc tế Shannon. Tới Ennis tôi tìm ra nhiều cô có họ Kyle nhưng không cô nào có chị em xa hay gần tên là Sarah làm trong ngành khách sạn. Tôi dò hỏi không sót nơi nào, tiếp xúc cả với khách sạn White Sands ở Mombasa, hỏi tất cả các chủ cũ và những người cùng làm với cô, hỏi cả nơi chỉ trọ có vài ngày như khách sạn Parador ở Morzine. Không thấy gì. Biệt vô âm tín hoàn toàn. Cô biến mất không để lại chút dấu vết nào.
Thiếu vắng cô kia nhưng vẫn không được tận hưởng cô này. Chương trình nghỉ hè của Catherine chẳng ăn nhập gì với tôi: Tháng bảy đi tham quan các đảo Hy Lạp, cả tháng tám nghỉ chơi ở nhà bạn bè người Mỹ mà cô nhất định giấu tên. Sau đó? Chương trình đại học; dù sao nàng cũng vừa thi đỗ tú tài, điều mà tôi không hề biết. Từ Fournac tôi chỉ ở gần nàng có một thời gian ngắn, vì nhà này là của một ông chú, ông chú này tuy chưa đến nỗi hằn học nhưng cũng tỏ vẻ bực mình thấy có tôi trong nhà nên tôi không muốn ở lỳ.
Vợ chồng Lavater mời tôi nghỉ hè ở nhà nông thôn của họ phía Chagny. Chỉ một tuần mùa hè thôi vì họ cũng có chương trình đi chơi năm tuần ở Yucatan hoặc một nơi khác không kém vớ vẩn, từ 10 tháng tám đến 15 tháng chín. Họ rủ tôi cùng đi, nhưng thà bị treo cổ còn hơn đi Yucatan! “Franz, ngôi nhà Chagny là của cậu bất cứ lúc nào cậu cần đến, trong bao lâu cũng được.” Marc và Francoise hơn tôi ít ra cũng hai chục tuổi, tôi chỉ đáng tuổi con họ; nhưng cũng đã qua thời cần có bảo mẫu.
*Cú điện thoại tới gã Thổ, gã đang rất phấn khích sau khi vừa nghe tin các công ty đa quốc gia của Mỹ cũng bắt đầu bán tống, bán tháo đôla, mà bán chịu nữa. “Tin tức do tên Tàu dở hơi của cậu xì ra có vẻ đúng, Franzy. Một cú thần kỳ đấy.” Gã làm tôi tức điên lên với kiểu gọi là Franzy.
Tôi quay về Hong Kong, vụ đồ vặt bắt đầu trục trặc. Sự cạnh tranh của bọn Nhật ngày càng gay gắt và tôi bị chúng qua mặt, chắc vì tôi không quan tâm đầy đủ đến công chuyện này. Hong Kong làm tôi ngạt thở. Chưa một lúc nào cái gọi là “sức quyến rũ” của nó ảnh hưởng được tôi, ý định rời xa nó lại ám ảnh tôi. Nhưng đi đâu, thu nhập giảm, tài khoản giảm, tôi bắt đầu phải cân nhắc các khoản chi. Hyatt cũng trở về Hong Kong, gã hơi cằn nhằn, cứ làm như tôi đã gí súng vào ngực bắt hắn tham gia kinh doanh đồ vặt với tôi! Rốt cuộc trong hội chỉ còn Li và Liu thường xuyên tiếp xúc với tôi thôi. Hai đứa hoàn toàn điên rồ, những tác phẩm nhại theo phim Karate hay Kungfu của chúng thật là hoang tưởng. Người ta có thể cho là chúng không có họ hàng với Hak, là cháu Hak. Dù sao, mãi sau này tôi mới biết rõ thói điên khùng, lố lăng của chúng nhiều khi chỉ là vỏ ngoài. Còn lúc này, tôi hài lòng về tình thân thiện giữa đôi bên, tình thân mà chúng đáp lại khá hào hiệp. Tình thần làm tôi còn lâu mới hiểu được ngọn ngành điều sắp xảy ra.
Vào khoảng ngày 7 hoặc 8 tháng bảy, tôi sang Nhật. Có thể nói là chính hai gã Liu và Li đã tống tôi sang đấy, sau khi thuyết phục được tôi rằng tiền đồ sẽ sáng lạn vô cùng nếu tôi tung ra thị trường các đồ dùng diện tử. Một cuộc viễn du vô ích; tôi thất bại không gạ nổi các bạn hàng Nhật đồng ý để tôi bán ra thế giới các đồ vặt kỳ diệu của họ, Liu và Li giải thích:
— Vì bản thân anh không tin tưởng lắm. Lý do là như vậy. Đáng tiếc, anh quay cuồng lung tung.
Chúng nói đúng, tôi quay cuồng không có hiệu lực, nếu quả thật tôi còn quay được. Lúc này vũ khúc Cimballi chẳng khác gì chiếc máy hát đã rão. Tôi càng ngày càng ít lui tới ngôi nhà Sarah đã từng ao ước, phòng khách đó vẫn quét vôi tím nhạt. Tuy vậy, đêm hôm đó tôi ngủ ở đó và nhận được một cú điện thoại, không phải do tình cờ vì sau này tôi biết cô ta đã hỏi Li và Liu để biết tôi ở đây.
— Franz?
Còn chưa tỉnh ngủ hẳn, tôi máy móc cầm ống nghe. Liếc nhìn đồng hồ: Ba giờ sáng. Bên Châu Âu, lúc này đã sáng rõ: Chín, mười giờ rồi còn gì.
— Em ở đâu?
— London, nhưng không ở lại lâu. Anh để em nói, nhé.
Từ giường tôi, giường chúng tôi, có thể trông rõ những con thuyền, những con xuồng tam bản trong cảng nhỏ Stanley, những đốm lửa người Tàu đôi khi nhóm lên ban đêm xung quanh đền Tin Hau. Tôi ngắm những con thuyền đang đậu trên bến.
— Anh sẽ không nói gì, Sarah.
— Nghe đây anh. Em không thể cầm máy hàng mấy tiếng được đâu. Đáng lẽ gọi cho anh từ lâu. Em không gọi... Không gọi, thế thôi. Lúc ấy đang có mang, với anh, tất nhiên. Giờ thì xong rồi, em đã làm cái cần phải làm. Mới vài phút trước đây em quyết định không nói cho anh biết, nhưng thế là xong. Cho qua. Đừng hỏi sức khỏe ra sao: Em rất khỏe. Đúng là đã trải qua một đận gian nan, nhưng bây giờ thì hết rồi, hết hoàn toàn, bây giờ em tẹt như một tấm áp phích ấy. Từ tháng hai em đã hiểu là chúng mình không còn có gì với nhau nữa, những cái sau đó chỉ là thêm thắt mà thôi. Vả lại ngay từ đầu em đã biết rằng chúng mình chẳng lâu dài với nhau, em đã đoán đúng. Em không về Hong Kong nữa đâu, tất nhiên rồi. Người ta đã cho việc làm ở chỗ khác, em không cho anh biết, để một hôm nào đó bất thình lình ta nhảy vào nhau mới khoái hơn. Một ngày nào đó, hoặc hai chục năm nữa lúc anh đã thành tỉ phú. Nhân thể, yêu cầu anh điều này: Đừng có mua ngôi nhà em đến ở, em không thích thế. Hứa chứ? Hôn anh.
Cô ngừng bặt nhưng không gác máy. Nghe rõ tiếng thở. Vài giây sau: “Anh Franz. Em hôn anh”.
Cô gác máy. Tôi vẫn nhìn những con thuyền kia. Hai đứa đã từng ôm nhau nằm hàng giờ như thế. Cô ta chọn ngôi nhà này chính là vì từ đây có thể phóng được tầm mắt ra quang cảnh đó: Bến nhỏ, ngôi đền thờ, bãi biển lúc nào cũng vắng vẻ chếch bên tay phải. Hầu như tôi thấy lại hương thơm của tấm thân mảnh dẻ mà cuồng ấy căng lên trong ái ân để sau đó rất lâu mới dịu lại như làn sóng tắt dần. Đến khoảnh khắc cuối cùng ấy mà cô mới nhắm lại, cô nằm thật yên gối má lên nệm, lảng tránh không nhìn thẳng vào mắt tôi cho đến tận lúc đã hoàn toàn làm chủ được mình mới nguýt tôi giễu cợt: “Thằng nhóc không đến nỗi quá tồi!” Vậy đây, bây giờ thằng nhóc đang bưng mặt khóc ròng.
Tôi ở nhà nghỉ của Lavater ở Chagny đã được vài ngày. Đọc sách, lái chiếc Renault già nua của Lavater tới Chalon trên sông Saône, tôi vét hết các cuốn viết về kinh doanh ngân hàng, về hoạt động tài chính, tóm lại về tiền tệ nói chung. Tìm được cả một cuốn của nhà Rockefeller: “Trí tưởng tượng sáng tạo trong kinh doanh”. Đúng cái tôi đang cần. Lại nữa vì đằng nào cũng phải bắt chước ai đấy, tôi mua luôn cuốn Bá Tước Monte Cristo, cuốn sách tôi chưa hề đọc, chưa bao giờ đọc thật sự. Cụ Dumas bố, rất hấp dẫn, nhất định sẽ xua tan nỗi buồn chán trong lòng tôi. Đọc đến chương “Quán ăn bên cầu sông Gard” trong đó Caderousse, một trong những tên đã phản bội Dantès đang gặp một linh mục “bận đồ đen, đội chiếc mũ ba sừng” thì chuông điện thoại reo. Kể từ khi Marc và Françoise lên đường đi lang thang dưới những cây ngọc giá ở Yucatan, đây là lần đầu tiên có chuông điện thoại. Tôi lừng khừng không muốn nghe, sau cũng phải nhấc máy cho xong chuyện. Người đang gọi là Cannat phụ tá của Lavater.
— Tôi không được phép quấy rầy nếu không có việc hệ trọng. Vừa có một sự kiện tôi thấy đáng lưu ý: Alvin Bremer vừa từ trần ở Chicago, vì cơn đau tim. Ông Marc có nói là ông quan tâm đến ông ta.
— Cảm ơn.
Lúc ấy tôi đang ăn sáng, do người giúp việc được Françoise Lavater giao trông nom tôi dọn cho. Bà ấy nói giọng bourguignon nặng đến nỗi từ lâu tôi vẫn ngỡ bà là người Ba Lan. Tôi đứng dậy đi vào phòng riêng.
— Cà phê của ông nguội mất rồi!
Tiếng rồi có đến hăm hai chữ R chứ không ít!
— Tôi sẽ quay lại ngay.
Trên một bức tường phòng tôi ghim tất cả những ghi chép, bảng kê, danh sách tích lại trong tám tháng qua kể từ ngày Lavater mang tới Hong Kong cho tôi tập hồ sơ đầu tiên. Tôi nhìn bản danh sách. Tôi đã dự tính riêng cho Bremer một đòn hiểm hơn nhiều so với đòn đánh gục Landau. Vậy mà thằng chó đẻ lại lăn cổ ra chết. Tôi thấy bị hẫng đến nỗi điên lên được.
— Tôi hâm lại cà phê cho ông nhé?
Tôi tới bên bản danh sách, gạch tên hắn. Nhìn tấm ảnh trong hồ sơ; một thằng béo ị, đỏ lửng, mắt lạnh ánh thép. Trước nay tôi vẫn thấy nó có những nét Đức theo nghĩa xấu chứ không phải có ý khen ngợi hắn.
— Khổ chưa, ông nhìn xem. Cà phê lạnh tanh rồi...
Bảy trừ một còn sáu. Chưa đến năm rưỡi. Bây giờ đã trung tuần tháng tám, Landau chả còn được mấy nả. Với điều kiện tôi không phạm sai lầm khi chạy theo ông Hak vào những vụ đầu cơ.
— Thật nguội rồi đấy nhé, nguội ra nguội.
Tôi không hề phạm sai lầm: Sau hôm nghe tin Bremer đột tử, một tin khác nổ bùng: Đồng đôla không còn giá trị chuyển đổi ra vàng nữa. Một sự kiện quan trọng phi thường. Suốt hai mươi lăm năm nay đồng đôla là đồng tiền bản vị của thế giới, đồng tiền độc nhất gắn với giá vàng một cách chính thức. Đồng tiền độc nhất có giá trị như vàng theo nghĩa đen. Bây giờ khả năng hoán đổi không còn. Hậu quả đầu tiên tất nhiên là đôla bị sụt giá. Đó chính là tin tức quan trọng ông Hak đã nắm được; biết trước chính xác ngày Chính Phủ Hoa Kỳ công bố tin này, ông ta đã tính được gần đến ngày kết thúc kỳ hạn gửi tiền.
Tuy đồng đôla mất giá ít thôi, nhưng số lãi thu được rất lớn. Khi tôi gửi năm trăm lẻ năm triệu đôla vào ngân hàng Zurich, giá chính thức một ouce vàng là ba mươi tám đôla chín mươi. Ba tháng sau đã lên thành bốn mươi hai đôla sáu mươi. Mức trượt nhỏ nhoi? Đúng. Dù thế, tiền lãi của ông Hak (tôi sẽ thích thú nếu được kiểm tra sổ sách của ngân hàng, nhưng chắc nó chính xác) lên tới bốn mươi bảy triệu đôla, trong đó tôi được trích lấy hai triệu rưỡi như đã thỏa thuận về tiền công đứng làm người môi giới kín tiếng, không lệ thuộc vào số phần trăm ngân hàng trừ đi phần của họ. Cộng với một triệu của tôi bỏ ra và số lãi bốn trăm bảy mươi lăm nghìn năm trăm bảy mươi tám đôla, tính đến ngày 12 tháng mười tôi đã có trên bốn triệu đôla.
Tôi cứ tưởng mình sẽ nổ tung vì sung sướng. Nhưng không, vẫn bình tĩnh, gần như dửng dưng, vẫn ở một mình trong ngôi nhà Chagny, và biết rõ đã đến lúc hành động.
Trước tiên phải kết liễu Landau, đó chĩ là chuyện ngày một ngày hai thôi. Rồi chuyển sang thằng khác.
Tôi lại hỏi gã Thổ:
— Bằng lòng mình đấy chứ?
— Mình yêu Franz.
— Đồ pêđê bẩn thỉu, đi ngủ.
Im lặng. Rồi tiếng Ute.
— Chào Franzy thân thương.
— Em làm gì ở Hampstead, ở nhà thằng cha ngoại quốc tài sản bất minh ấy?
— Tình yêu vĩ đại mà anh bạn!
— Với gã Thổ?
— Với gã ngoại quốc tài sản bất minh. Anh ghen à?
Tôi phá lên cười. Cảnh tượng hai anh ả cặp đôi làm tôi cười rũ.
— Không đâu. Gã vẫn giữ lại đội vũ nữ khoả thân chứ?
— Càng đông lũ điên càng vui. Điều quan trọng nhất là em làm trưởng trò, và thực tế em đang làm trưởng trò ở đây.
— Cho anh nói chuyện với ông chúa động. Hôn em.
Gã Thổ lại cầm máy. Gã cười sặc sụa. Tôi thật không thể căm ghét được gã.
— Ngạc nhiên, hả?
— Ngạc nhiên cái đít! Nói chuyện nghiêm chỉnh nào. Được chứ?
— Được.
— Mình cần được giới thiệu. Nassau, Bahamas.
— Một quả khác à?
— Việc riêng.
Gã nghĩ ngợi. Rồi bật:
— Không nói tên qua điện thoại, mình không thích điều đó. Bao giờ tới đây?
Tính nhẩm thật nhanh:
— Cuối tháng mười, tức cuối tháng này.
Tôi nghe tiếng Ute nói nhưng không hiểu nói gì. Dù thế nào đi nữa, cô ta vẫn còn cầm máy trong lúc tôi và gã Thổ nói chuyện với nhau, điều đó chứng tỏ cô nói đúng “cô thực sự là trưởng trò”. Gã Thổ:
— Franz này, mình và cô Đan Mạch sẽ có mặt ở đấy từ 25 tháng mười. Có làm phiền cậu không đây?
— Trái lại.
— Cậu thật sự không cáu vì chuyện cô Ute chứ?
— Không. Hôn cô ta thay mình. Chào.
Tôi sang cuốn băng để tặng Lavater chắc sắp từ Yucatan khỉ gió trở về. Gọi lại số 2 ở Chomélix, nhưng ông chú Catherine không có nhà, chẳng ai trả lời.
Tôi lên máy bay đi Hong Kong.
Cuối cùng tôi cũng tò mò ra Hyatt ở Bull và Bear, quán rượu Anh xây dựng bằng những cấu kiện làm sẵn mang từ Anh sang dần từng mảnh. Hyatt chưa say hẳn. Gã nâng cốc.
— Ông chủ nhỏ đã về.
Biệt danh họ tặng tôi ở Mombasa.
— Khao anh một chầu bia, - Hyatt còn nói thêm. - Bia Guinness nhiều bọt, Made in Dublin. Định ở lâu không?
— Không ở lại. Có công chuyện bàn với cậu, sang cho cậu toàn bộ khoản vặt.
— Toản bộ?
— Ừ. Cậu sẽ tiếp tục, ưng không?
Đối với hắn món này không đến nỗi tồi. Tuy bây giờ không được lãi to như mấy tháng đầu, nhưng nhờ các bằng của tôi, nó vẫn là một món kinh doanh đáng chú ý, thu nhập khá, đối với ai thích có doanh thu không lớn nhưng đều đặn hơn là những cú có thể phất to nhưng cũng có khi sạt nghiệp. Như Hyatt. Nhưng há miệng còn mắc quai vì trước kia gã đã từ chối. Phải bàn cãi mất nữa giờ, bàn chuyện giá cả, tiền nong. Gã xin khất hai mươi bốn tiếng để suy nghĩ và tôi biết đến sáng mai gã sẽ chấp thuận với giá tám chục ngàn đôla.
— Một li cuối chăng? - Hyat hỏi.
— Không. Dạo này có gặp Chinh Không?
Từ đầu tôi đã cảm thấy gã người Anh hình như có điều gì hậm hực, lần này không còn nghi ngờ gì nữa. Đã thế gã còn giả ngây giả ngọng:
— Ching nào ấy nhỉ?
— Cậu biết quá đi rồi. Hắn đang làm gì?
— Không hiểu.
Gã lại nhúng mũi vào li Guinness đen. Tôi không ép, tuy trong bụng bồn chồn, cảm thấy đã hoặc sắp xảy ra chuyện gì có liên quan trực tiếp hoặc nhiều hoặc ít đến tôi. Tôi đổi tờ giấy bạc lấy tiền xu và bắt đầu gọi điện thoại. Không thấy Ching gì đó ở đâu cả, ở văn phòng, ở xưởng máy, ở nhà riêng đều không. Tệ hại hơn cả là mỗi lần tôi hỏi, họ đều im lặng một lúc rồi mới trả lời, tuy vẫn cùng một giọng. Không, không biết Ching đang ở đâu? Không biết.
Tôi gọi Li và Liu ở xưởng của chúng ở đại lộ Kennedy. Chuông đổ nhưng không ai cầm máy. Chính điều đó làm tôi lo lắng: Đang giữa tuần làm việc, hai thằng hề của tôi còn có nhiều tay sai, vậy mà không một ai nhấc máy. Tôi thử gọi về nhà riêng của chúng. Cũng không. Không lúc đầu thôi, vì sau nhiều lần đổ chuông, vào lúc tôi định bỏ máy thì có người ở đầu kia cầm máy.
— Li? hay Liu?
Im lặng. Tuy vẫn có ai đó ở đầu dây đằng kia.
— Li hay Liu đây?
Thằng cha nào đó nhẹ nhàng gác máy vào mũi tôi. Tôi ra khỏi cabin. Hyatt chuồn mất rồi. Tôi đi ra đường, đám đông Hong Kong ở ngay kia, nặng trĩu, đồ sộ như một đại dương. Bất thình lình cơn lo sợ ập đến, không giải thích nổi nhưng chính vì thế mà càng mãnh liệt.
Hyatt cần một ngày suy tính, nên hôm sau chúng tôi gặp nhau ở ngay cửa phòng đăng ký của Caxton Hause, phố Duddel lúc mười một giờ. Do đó tôi còn ở lại Hong Kong chừng hai mươi tiếng đồng hồ nữa. Tôi biết trước rằng hai mươi tiếng đồng hồ này sẽ nặng nề bất tận, chỉ muốn nhảy ngay lên chuyến bay đầu tiên đi bất cứ đâu miễn là chuồn khỏi đây.
Tôi về Stanley nhặt nhạnh nốt vài thứ còn lại, mấy chiếc quần áo và mấy cuốn sách của Sarah, tôi bỏ hết vào vali, trong lòng vẫn rối bời. Trở về khu trung tâm, đi xuyên qua đó để tới Cửu Long thuê một phòng ở khách sạn Peninsula giữa những bà quý tộc từ Ấn Độ trở về và những đại tá về hưu, cựu binh bên Miến Điện. Ở đấy tôi chợt nảy ra một ý, không chín chắn nhưng mãnh liệt không cưỡng nổi. Đi taxi đến sân bay, thuê chiếc máy bay nhỏ, hình như chiếc Cessna, do một chàng trai Australia có bắp tay gân guốc lái đi. Anh ta lạnh lùng nhìn tôi.
— Anh không biết tên hòn đảo khốn kiếp ấy thì tôi làm sao tìm?
— Tôi sẽ nhận ra.
Ngộ nhỡ lạc vào không phận Trung Quốc? Ngộ nhỡ bị quân Áo Xanh bắn thì sao? Ngộ nhỡ nó chỉ là hòn đảo anh tưởng tượng ra, mặc dù tôi đã hạ cánh xuống hai lần rồi? Gã Australia tranh cãi, nhưng vẫn đi chuẩn bị máy bay. Tôi chỉ hướng, gã bay theo tay tôi. Một tốp đảo tiên.
— Kia chăng?
— Đi nữa. Sau một con đê lớn.
Gã Australia bảo đây là hồ chứa nước Plover Cove. Chúng tôi bay rất thấp, khoảng ba bốn trăm mét phía trên các vật thể. Người ta thường hình dung Hong Kong chật ních người, nhưng khoảng đất dưới kia tuy là đất của thuộc địa nhưng gần như không người ở; không đường xá, chỉ có những lối mòn lúc này rải rác mấy bà nông dân đội nón to vành phủ kín khăn đen.
Biển chợt hiện ra dưới cánh.
— Thế nào, quý ông?
— Hòn kia.
Theo bản đồ, chúng tôi đang bay trên vịnh Mirs ở chót vùng Đất Mới của Hong Kong.
— Làm gì có đường băng? Đến con ruồi cũng không dám đáp xuống đẻ trên tảng đá này.
Tôi chưa kịp trả lời gã đã nhìn thấy bãi hạ cánh. Có thể nói là gã hơi phịch xuống đất; thản nhiên hãm lại thật đột ngột, tắt máy ngay, tựa vai trái vào thành máy bay, châm điếu xì gà Philippine đang hút dở, nhả ra luồng khói có thể giết chết một con bò.
Tôi báo trước: Sau một giờ là tôi vù.
— Không chắc tôi kịp trở lại sau một giờ.
— Đúng sáu mươi phút, thưa quý ông. Ba chân bốn cẳng lên. Tôi bay theo mắt nhìn, mà trời thì sắp tối.
Tôi nhảy xuống, giận dữ bước đi. Được vài chục mét tôi chợt ý thức rõ tình thế của mình lúc này. Ăn đòn, chuyến này chắc bị ăn đòn! Liếc nhìn chiếc máy bay: Gã Australia đã xuống đất, vừa hút thuốc vừa khoan khoái nhìn lên mảnh trời Tàu với vẽ giễu cợt. Tôi vội vã rảo bước: Thằng đểu có thể vù đi bỏ mặc tôi.
Tôi đã tới đảo này hai lần, đều đi xe hơi. Tôi dự tính sẽ phải vắt chân lên cổ mà chạy, như chạy việt dã. Nhưng vừa cắt ngang một lèn đá, vượt qua một mỏm cao, tôi sửng sốt thấy mình đã lọt vào trong vườn, cũng tức là vào đến nhà.
Yên lặng. Yên lặng càng lan rộng, càng đặc quánh như màn sương mù khi tôi càng đến gần. Yên lặng nặng nề khi tôi đặt chân lên lối đi giữa hai hàng đa và long não. Tôi cất tiếng gọi, không có hồi âm. Tôi đi qua mảnh vườn đang bướng bĩnh tỏa hương, đặt chân lên thềm cửa lát cẩm thạch đen.
Cánh cửa kéo để ngỏ.
— Ông Hak! Cimballi đây!
Tiếng vang đập đi đập lại không dứt. Tôi đâm sợ.
— Ông Hak!
Ông đã dặn tôi: “Xong việc, vào khoảng cuối tháng tám đầu tháng chín, anh trở lại Hong Kong. Có lẽ sẽ có việc khác cho anh. Anh trở về được, tức là mọi việc đều êm xuôi”. Tôi bước qua ngưỡng cửa phòng khách thứ nhất, nơi lần tôi đến vừa rồi có trang trí nhiều tấm thảm, bàn, bình phong lộng lẫy và vô giá, bây giờ chẳng còn gì. Tất cả đã dọn sạch. Phòng khách trống trơn. Phòng thứ hai, các phòng khác, phòng tôi nằm ngủ với Sarah, tất cả đều như thế. Tuy khiếp sợ nhưng vì tò mò tôi vào hẳn khu vực trước kia chưa bao giờ đặt chân tới. Chẳng còn gì. Mọi thứ đều dọn đi hết. Trong các căn bếp chắc là được tự động hóa cao, chỉ còn lại những chiếc lò gắn trong tường vì chúng được đúc hẳn vào bê tông. Xa hơn có gian kho, xếp những chiếc bàn điều khiển từ xa của ông Hak vẫn dùng, trông như những quái vật đứng nghỉ trên bánh xe. Đi vài bước tôi lọt vào gian phòng mênh mông có tấm vách cong bằng kính, ít nhất là trước kia bọc kính còn bây giờ ra sao không rõ vì bức sơn mài vẽ rồng đỏ rực đã che kín. Phòng này cũng trống trơn nốt. Trừ một thứ: Dưới đất có chiếc hộp hình chữ nhật thường thấy trong tay những người chơi mô hình máy bay có rất nhiều núm gạt. Tôi gạt một, hai, ba núm. Thoạt tiên chẳng thấy gì. Đột nhiên ba chiếc bàn hiện ra như ba cái bóng tạo bằng nhung đen và sắt thép sáng loáng. Chúng chạy về phía tôi, dừng lại đúng tầm tay, ngoan ngoãn lạ lùng, dễ sợ, như những con thú dữ đã thuần thục. Chỉ chút nữa là tôi phát sợ thực. Tôi gạt thêm những cần gạt khác: Các bức vách trượt đi, kéo lên, hạ xuống, tạo thành những gian phòng mới, nhạc nổi lên, bàn xoay dọc xoay ngang, cả ngôi nhà sống động theo lệnh tôi như một sinh vật.
Tôi không nghe tiếng nó chuyển động, có lẽ nó đã trượt đi ở sau lưng mà tôi không hay, do tôi vô tình ấn nút. Chỉ biết rằng khi cảm thấy có cái gì đó hiện diện phía sau, tôi quay lại thì cảnh tượng đập mạnh ngay giữa mặt tôi. Tấm vách hình bán nguyệt che bức tường thủy tinh đã trượt đi, cuốn gọn lại. Bọn cá mập lù lù ngay trước mặt, cách đó hai mét, có khi chưa đến hai mét, ngang tầm mắt, ba con dài ngót nghét hai mét rưỡi, con nào cũng như con nào đều tỏ vẻ hùng hổ rợn người. Ánh đèn pha do tôi vô tình bật sáng chiếu lên thân chúng những ráng đỏ máu. Ấy chỉ là cảm giác của tôi trong khoảnh khắc đầu tiên. Nhưng ngay sau đó tôi đã hiểu ra. Hiểu ra, khi tôi đưa mắt nhìn thẳng xúc thịt mọi khi ông Hak vẫn treo vào móc sắt cho chúng nuốt. Tôi hiểu ra sau khi nhìn, khắp người run bần bật vì khiếp sợ, tôi nhìn thật kỹ những tảng thịt đó. Không nghi ngờ gì nữa, chúng có hình dạng của thân người. Có cả đầu và tay. Một bàn tay đứt rời, nhợt nhạt vẫn đang lập lờ giữa làn nước biển.
*Hyatt nhìn lảng sang phía khác. Tôi nói tiếp:
— Không hiểu tại sao tớ chưa đấm nát mõm cậu!
— Anh Franz, tôi không biết thật mà. Bây giờ cũng chưa biết gì hơn. Ngoài những điều đã nói với anh.
Đó là: Dân Hong Kong đồn đại ông Hak đã chiếm dụng nhiều món tiền không phải của mình mà là của Chính Phủ Trung Quốc, nguy hiểm hơn, có thể của những quan chức cao cấp ở Bắc Kinh dùng để làm ăn mảnh, Hyatt không biết rõ hơn. Tôi dễ dàng dựng lại một phần điều đã xảy ra: Lợi dụng nguồn tin tức từ Bắc Kinh lộ ra, ông Hak đã lợi dụng tiền của kẻ khác để mưu lợi cho bản thân; chắc chắn ông ta có ý định sẽ hoàn lại đầy đủ số một trăm triệu đôla đã chiếm dụng, nhưng họ không để ông ta có đầy đủ thì giờ. Sau này, mãi mãi tôi không thể biết người bị ném cho cá mập ăn thịt là ai.
Hyatt tới phòng đăng ký gặp tôi trễ mất bốn mươi phút. Tôi thực sự muốn đập cho hắn gẫy vài chiếc răng. Cơn giận qua đi, dù sao Hyatt ở đất Hong Kong này là ở trên đất hắn, tôi chỉ là người vãng lai: Tôi đi, hắn vẫn còn ở lại. Hơn nữa hắn đã thuận mua khoản đồ vặt của tôi theo đúng giá tôi đặt. Tôi hỏi:
— Chúng đâu?
Gã lắc đầu không hiểu.
— Li và Liu đâu?
Gã cũng chẳng hay. Thề độc. Chúng tôi cạn ly cuối cùng; cuộc chia tay sắp tới làm cả hai đều thấy lại vài mảnh vụn của một tình bạn đã được phác họa nhưng chưa hình thành trọn vẹn, tuy đáng lẽ đã được hình thành, chỉ cần một chút xíu nữa là xong.
— Anh có bao giờ trở lại Hong Kong?
— Không, nếu tránh được điều đó.
Các cô gái cởi trần của câu lạc bộ Kosukai tủm tỉm cười với chúng tôi. Hyatt nói:
— Anh có nhớ mấy cô Ethiopia ở Nairobi không? Và cô anh cặp bồ ở Mombasa?
Tôi vẫn nhớ. Cũng như vẫn còn nhớ Joachim, nhớ Chandra, nhớ gã cảnh sát thối tha, tên dự thẩm gian xảo, ngôi nhà Jomo Kenyatta, nhớ bè bạn ở đại lộ Kilindini, nhớ Ching gì đó, Li và Liu, ông Hak, Landau. Và nhớ Sarah. Một dĩ vãng đã qua hẳn.
Tôi đang có trong tay bốn triệu hai trăm ngàn đôla. Vũ khúc Cimballi càng tăng nhanh nhịp điệu.