Chương 2
Tiếng Anh gọi cái đó là Leverage, đòn bẩy. Nó là một nguyên tắc rất Mỹ - không riêng ở Mỹ mới có nhưng không ở đâu vận dụng nó tài tình như ở Mỹ - theo nguyên tắc này muốn mua một món đồ đã được đem cầm cố; người mua không nhất thiết phải trả toàn bộ số tiền cầm món đồ.
Nguyên tắc đòn bẩy là khả năng rất thực tế như bạn đọc sẽ thấy - bạn chỉ trả hai ngàn đôla để mua một mảnh đất trị giá một trăm ngàn đôla trên hợp đồng cầm cố. Và tất nhiên bạn có quyền đem bán nó và dùng số tiền bán nó mà trả nốt tiền mua - trả nốt chín mươi tám ngàn còn thiếu vì trước đó mới trả có hai ngàn đôla. Hai ngàn đôla đó là đòn bẩy. Đơn giản thế thôi, nhưng “Hãy cho tôi một đòn bẩy tôi sẽ nâng cả quả đất này..v.v..”
Nếu gặp thuận lợi, bạn bán mảnh đất mua một trăm ngàn đôla này (theo hợp đồng cầm cố) được những hai trăm đôla (bạn mới trả có hai phần trăm, tức là hai ngàn đôla), bạn sẽ thu lãi không phải chỉ một trăm phần trăm, mà những năm nghìn phần trăm: Bỏ hai nghìn, thu lãi một trăm nghìn. Đó là cơ chế thứ nhất mà tôi sẽ vận dụng.
Còn có cái thứ hai nữa.
Trong hội đồng quản trị các ngân hàng đang bị vướng cẳng trong Vùng Đình Đốn, và trong các công ty bảo hiểm đã đầu tư vào đấy trong những hoàn cảnh tương tự, tâm trạng tuyệt vọng đã tới mức khiến họ sẵn sàng chấp nhận mọi điều miễn sao nhanh chóng giải quyết được mấy chục ngàn hợp đồng cầm cố ứ đọng kia. Từng ấy tiền vốn bị chôn làm các chủ ngân hàng mất ăn mất ngủ, các nhà kinh doanh tín dụng kị nhất đồng tiền nằm im không sinh lợi. Thứ đó làm họ mọc nhọt. Đến nỗi nhiều ngân hàng, nhiều công ty bảo hiểm quyết định bán đổ bán tháo các thứ họ nhận cầm. Lấy nửa tiền thôi.
Điều kì lạ xảy ra chính là ở chỗ này. Chúng ta thử tưởng tượng, mà cần gì phải tưởng tượng, điều này đã thực sự xảy ra và không phải chỉ xảy ra một lần: Có một ngôi nhà ở Palm Beach bang Florida; tên đầu nậu nhận xây cất nó bị phá sản vì không đẩy được. Ngân hàng của đầu nậu - ví dụ ngân hàng Illinois ở Chicago - đã cho hắn vay mười triệu đôla và nắm trong tay bản hợp đồng cầm nhà với giá mười triệu. Nói cách khác, ngôi nhà này giá mười triệu đôla. Ngân hàng gửi bản hợp đồng đã ba năm nay. Ngân hàng đã phát ớn, không muốn nhìn mặt nó trong bảng cân đối thu chi nữa, mà đâu phải chỉ có một cái mà hàng ngàn cái như thế. Đến lúc ngân hàng Illinois ở Chicago sẵn sàng để lại bản hợp đồng đó lấy nửa tiền. Tức năm triệu thay vì mười triệu đôla.
Và bây giờ, nếu ta áp dụng nguyên tắc đòn bẩy vào số năm triệu này?
Tôi cần có tối đa năm trăm ngàn đôla để được quyền rao bán ngôi nhà trị giá mười triệu đôla. Bán xong tôi sẽ trả nốt ngân hàng bốn triệu rưỡi, giá sang nhượng quyền nhận cầm. Đấy, tóm tắt trong vài câu những điều đã nói.
Vào hồi này mạng lưới bán nhà của tôi bên Châu Âu đã hình thành, cả ở Châu Á nhờ bàn tay của Hyatt ở Hong Kong, nhưng tôi chưa gom đủ năm trăm ngàn đôla, mới được hai phần ba nhưng không dùng làm vốn kinh doanh được: Dù sao tôi vẫn cần tiền ăn uống, đi lại. Tôi có thể đi vay. Không nghi ngờ gì nữa, sau khi được biết lập luận đòn bẩy của tôi, bất cứ ngân hàng nào kể cả ngân hàng Adam cũng sẵn sàng cho ứng số tiền ấy. Nhưng chính đó là điều tôi không muốn, đơn giản thôi: Tôi không muốn ý định của mình lan rộng. Và một lí do nữa không kém phần xác đáng: Đi vay sẽ phơi mặt ra ánh sáng, chẳng khác nào hét vào tai bọn thám tử Yahl đã thuê bám tôi: “Hãy coi chừng, tớ đang chuẩn bị một đòn tóe khói cho ông chủ của mấy người biết tay”.
Sự thực là: Tuy chưa biết làm cách nào đánh Martin Yahl nhưng nhất định tôi sẽ đánh, kiên quyết đánh. Nhưng rõ ràng phải có tiền, thật nhiều tiền. Lão càng có ảo tưởng tôi yếu kém lão bao nhiêu, càng tự ru mình trong ý nghĩ tôi chỉ còn sống nhờ vào số tiền hoa hồng, tuy khá tươm nhưng quá bé nhỏ so với tài sản của lão, do Henry Adam trả cho tôi, thì khi ăn đòn lão càng bị bất ngờ.
Tôi cần năm trăm ngàn đôla, nhưng không được vay của ngân hàng, của gã Thổ, ngay cả của Marc Lavater nữa, tuy cả hai đều đủ sức cho tôi vay. Không, cái tôi cần là một cơ chế có thể vận dụng bất cứ lúc nào, mỗi khi tôi có khả năng đòi sang nhượng quyền nhận cầm một ngôi nhà.
Trong tất cả các anh các ả, như Ute Janssen, tôi đã sử dụng tài năng trong áp phe đồ vặt, có một gã nổi bật về trí thông minh, sức làm việc và cái có thể gọi là tính hung tợn trong khi giành giật hợp đồng, bắt mối, bán hàng. Tên là Letta, hơi Pháp, hơi Ý, hơi Tunisien, hơi đủ thứ. Kể cả cái còn lại. Tôi gặp ở Roma sau một hành trình vòng vèo lắt léo không tưởng tượng được để đánh lạc hướng mọi kẻ bám đuôi dù nó có là nhân viên của “thám tử tư lớn nhất Hoa Kỳ” chăng nữa. Tôi phác ra một chuyến đi California, nhưng lại chuồn sang Montreal, từ đây đi Chicago, bay thẳng sang Geneva rồi thuê xe đi Lyon, từ đây lên tàu hỏa đi Roma. Bảo Letta:
— Cần ngay lập tức mười khách có khả năng trả ngay mỗi người năm chục ngàn đôla lấy một căn hộ.
— Mười?
— Mười.
Gã vẫn bình thản. Lưng hơi gù, đầu thụt trong cổ, tay thỉnh thoảng động đậy theo kiểu tay hồ lì quờ các thẻ thua trên chiếu bạc, mắt hay nhìn trộm người tiếp chuyện như thể muốn định giá người ta theo cân nặng. Gã rút cuốn sổ nhàu nát, bắt đầu tính toán.
— Người Ý? Hay ông thích người nước nào?
— Nước đếch nào chả được.
— Có mười gã Ý đây. Đều có anh em chú bác bên Hoa Kỳ, tôi biết, tôi đã thăm dò chính vì lẽ đó. Dễ mối lái. Sẽ tăm được cho ông trong bốn tám giờ. Có khi không đến, tôi sẽ gặp từng người một. Nhân tiện, có người xưng là sở thuế đến hỏi tôi việc làm chung đụng với ông. Nhưng qua người em họ có anh họ làm trên Bộ, tôi biết chúng theo dõi ông, theo lệnh từ Thụy Sĩ.
Vậy là Đấng Tối Cao ngân hàng săn tôi ngay cả tại đây.
Thạo Roma hơn, Letta dẫn tôi đi ăn ở Trastevere, bên kia sông Tibre, trong một tiệm Tipico chuyên nấu các món hải sản. Tôi ngồi ngắm gã lau chùi một con nhím biển: Sau khi gã chùi xong, có soi kính hiển vi cũng chẳng tìm thấy gì sót trên đĩa. Một thằng cha như thế mà lại kiếm ra cho tôi năm trăm ngàn đôla sau bốn tám giờ! “Có khi chưa đến”. Tôi tủm tỉm:
— Anh họ gì?
— Adriano.
Ngoài tiếng Ý, tiếng Pháp gã nói được tiếng Ả Rập và đôi ba câu Tây Ban Nha.
— Anh nói thạo tiếng Ả Rập?
— Như tiếng Pháp, tiếng Ý.
— Adriano, tôi cần người trông nom công việc bên Châu Âu... không, xem nào, cả Châu Âu lẫn Cận Đông, vì anh nói được tiếng Ả Rập. Được không?
Gã thấy được.
— Có một điều kiện này: Trên danh nghĩa chính thức và trong một thời gian, anh sẽ chỉ là người môi giới như những người khác thôi, những vụ anh làm ăn với tôi chỉ là những vụ mách mối bình thường. Nói cách khác: Làm những tên đến dò hỏi anh tưởng rằng tôi chỉ buôn bán nhì nhằng nay một căn nhà mai một căn nhà. Chuyến hàng năm trăm ngàn đôla này phải được giữ bí mật, tuyệt đối bí mật.
Chúng tôi thỏa thuận: Gã sẽ gom tiền của mười người tậu nhà rồi chuyển cho tôi qua ngân hàng Liechtenstein, không qua Curacao vì chỗ này đã bị bọn mật thám của Yahl tăm rồi. “Curacao vẫn dùng để mách mối”, gã hiểu ngay, tôi tin tưởng vào gã vì không có cách nào khác.
Hai ngày trôi qua. Kể ra đáng lẽ tôi có thể tót sang Paris, hôn mẹ con cô Catherine, nhưng sợ làm thế sẽ lộ chuyện tôi đang ở Roma. Tôi đợi, bồn chồn đi đi lại lại không dứt trong vườn biệt thự Medicis. Sau hơn bốn mươi giờ, Letta thực hiện đúng lời hứa tập hợp đủ mười khách. Không làm tiền ngu ngốc (như sau này tôi sẽ làm để đánh lừa Yahl) là mang nộp số tiền này cho Adam và nhận tiền hoa hồng, tôi lập ra một syndicat người mua nhà, mua bán hợp đồng cầm nhà trị giá mười triệu đôla do một ngân hàng ở Boston nhượng lại với giá năm triệu.
Từ phút này trở đi, tôi không còn là kẻ đứng bán nhà ăn hoa hồng của ngân hàng Henry Adam nữa (sau khi đã bán đủ cho các vị khách Ý mỗi người một căn) mà trở thành chủ bán nhà của mình.
Tuy tôi mới trả có năm trăm ngàn đôla. Năm trăm ngàn này cũng lại không phải tiền tôi bỏ ra, và tôi chỉ phải nộp cho ngân hàng Boston có bốn triệu rưỡi nữa là xong. Tôi có đủ thì giờ trả hết. Ngân hàng cũng rất hài lòng, vì xóa sổ được món hàng tồn kho khó chịu này, đẩy được “của nợ” sang tay tôi.
Trước chuyến đi Florida, trong chuyến đi, và sau chuyến đi, lúc trở về New York tôi đã phỏng vấn rất nhiều người kể cả những tay hàng xách lõi đời, tất cả đều đồng thanh tuyên bố: “Cơn khủng hoảng thừa này không kéo dài đâu, không thể có chuyện đó, ngày hồi 29[9] cũng không thế”. Các ông chủ ngân hàng muốn tống tháo hết mọi hợp đồng cầm nhà đất cho tôi cũng hót theo điệu này. Được thôi, tôi tin họ, và lúc tôi mua lại bản hợp đồng đầu tiên chính là lúc tôi tin nhất trần đời. Tôi biết chắc chắn rằng sớm muộn thì nạn xây thừa - Over built sẽ chấm dứt, mọi thứ sẽ trở lại bình thường, khách hàng truyền thống, người Mỹ, sẽ trở lại với thói quen của họ. Tất cả các ngôi nhà hiện đang phải đem bán đấu giá, đang là đồ đồng nát, do phản xạ đặc biệt Mỹ là vứt bỏ hết mọi thứ chưa cần dùng ngay, chẳng bao lâu nữa sẽ có người tìm mua. Lúc đó chính tôi cũng không ngờ mình lại suy luận đúng đến thế.
Điều quyết định vẫn là: Chạy thật nhanh. Mỗi ngày mỗi tuần đều phải tâm tâm niệm niệm: Chính những ngân hàng mà tôi đang giao dịch theo kiểu hai mang: Vừa bán thẳng nhà của họ lấy hoa hồng, vừa kín đáo mua thật nhiều hợp đồng cầm cố nhà đất mà họ có, chính những ngân hàng này sẽ đứng ra làm việc tôi đang làm, đi kiếm khách hàng bên ngoài nước Mỹ. Họ có thể làm chuyện đó, với những phương tiện mạnh hơn tôi nhiều. Hơn nữa bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của sự hồi phục. Léonard Sussman người nói với tôi trước nhất về Vùng Đình Đốn và chỉ đường cho tôi cũng là người báo động cho tôi trước nhất. Người ta thường nói: Muốn nắm tình hình một đạo quân, đôi khi quen biết một viên đội còn có lợi hơn một vị tướng; Léonard chính là viên đội trong đạo quân của tướng Henry Adam. Léonard điều hành công việc của bộ phận trong ngân hàng Adam chuyên trách về bất động sản. Anh ta thông minh, nhanh nhạy, ít ra là như vậy. Là một trong những chuyên viên đầu tiên của New York tin rằng bắt đầu, sắp bắt đầu hồi phục. Anh ta bí mật báo cho tôi biết tin: “Với một điều kiện, anh Franz: Cho tôi làm ăn cùng với anh”. Tôi nhận.
Ba tuần tiếp theo dồn dập như điên. Khi Léonard Sussman ngỏ lời, tôi mua ba hợp đồng. Trong ba tuần, mua thêm mười sáu cái. Con số thực tế tất nhiên không được tròn trịa và phức tạp hơn nhiều, nhưng có thể hình dung khá chính xác tình hình như sau: Tôi trở thành ông chủ trên giấy của mười chín ngôi nhà trị giá mỗi cái mười triệu đôla, nhưng được các ngân hàng nhượng lại với giá chín lăm triệu tất cả. Giá chín mươi lăm triệu, nhưng theo nguyên tắc đòn bẩy, tôi chỉ trả trước có mười phần trăm tức chín triệu rưỡi thôi. Tôi gom đủ chín triệu rưỡi này một phần nhờ vào syndicats người mua nhà, được một nửa, còn một nửa đi vay các nhà ngân hàng nhỏ do Léonard Sussman chỉ cho. Tất nhiên chưa hẳn đã chắc ăn, chưa chắc đã ăn to. Nhưng thực tế không phải chỉ là một thành công mà còn là một kỳ tích khó tin.
Vì cơn khủng hoảng chấm dứt vô cùng đột ngột, thị trường bất động sản hồi phục nhanh như điện, trên đất Mỹ, phản ứng của thị trường bao giờ cũng nhanh nhạy như điên. Nếu mười chín căn hộ tôi mua chỉ bán lại được đúng giá của chúng là mười triệu mỗi căn hộ tôi cũng đã được lãi khá nhiều. Mỗi cái lãi năm triệu trên vốn bỏ ra có năm trăm ngàn, tức một ngàn phần trăm, cũng đã khá.
Nhưng giá cả bỗng tăng vọt theo tình hình hồi phục, tốc độ tăng rất nhanh, những căn hộ ở bờ biển Florida hoặc California mới sáu tháng trước không ai thèm mua với giá năm triệu tuy nó đáng mười triệu, bây giờ đáng giá hai chục, hai lăm, thậm chí ba mươi triệu đôla. Tôi đã trông thấy thiên hạ xếp hàng, gần đánh lộn nhau chỉ để mua một căn hộ mấy tuần trước Letta hoặc một tay dắt mối ở Bruxelles, ở Geneva ngay đến Hyatt cũng khó lòng gạ bán được cho một ông bác sĩ ăn hối lộ. Bán lại với giá ba chục triệu một ngôi nhà mua bảy tháng trước có năm triệu, mà mới phải trả trước có một phần mười số tiền mua! Không phải chỉ một cái, mà nhiều cái trong suốt thời kì cuồng loạn này. Tôi thu về hai lăm triệu trên số vốn bỏ ra có năm trăm ngàn. Ba lần tiền. Những căn hộ khác tuy không được lãi nhiều như thế nhưng cũng mang về cho tôi vô khối tiền.
Tôi biết phải chạy cho nhanh và đã chạy rất nhanh, nhưng tình hình diễn biến còn nhanh hơn. Nếu được thêm một tháng, nếu có ô dù to hơn, ít nhất tôi cũng lãi gấp mười lần như thế này. Tuy vậy, khi kết thúc cuộc đi chơi nồng nhiệt kéo dài tất cả chín tháng trời, tôi tổng kết toàn bộ và thấy chóng cả mặt.
Từ đầu đến cuối tôi vẫn giữ vững chủ trương lúc đầu: Tách biệt riêng hẳn ra các khoản thu nhập chính thức, sẽ được thông báo cho Martin Yahl nắm, tức là những khoản hoa hồng mười lăm phần trăm do Henry Adam phải chi cho tôi trên mỗi khách hàng Châu Âu, Châu Á (Hyatt sẽ kiên quyết bảo vệ quyền lợi của hắn).
Những khoản này tổng cộng được hơn một triệu bốn trăm ngàn đôla, kiếm được trong chín tháng. Cộng với ba trăm lẻ vài ngàn tôi sẵn có, tất cả thành một triệu bảy. Đó là tài sản tạm coi là chính thức của tôi, mà Yahl chắc đã nắm vững. Lão chẳng bận tâm đến. Ngay từ mười một tháng trước đây, lúc tôi đã có trong tay bốn triệu rưỡi đôla trước khi các chiến hữu của Robert Zarra kéo đến, Yahl đã tỏ vẻ chẳng thèm đếm xỉa đến mối nguy tôi có thể gây ra cho lão. Vậy thì với số một triệu bảy này, hẳn tôi là kẻ vô hại đối với lão.
Điều này lão không biết, tôi dám thề độc như thế, là tôi đã làm ăn hai mang trong vụ Vành Đai Nắng, với hai loại mánh mung hoàn toàn khác nhau. Nguyên tắc đòn bẩy đã phát huy tác dụng tuyệt vời. Vốn kinh doanh của công ty Liechtenstein, do tôi thành lập lên tới bảy chục triệu đôla!
Tôi chẳng bao giờ đánh bài, không thích. Súc sắc cũng không. Chẳng hay biết gì về luật chơi poker. Nhưng tôi tin một điều. Tin rằng trong cuộc sống có những lúc, một hoặc hai ba lần nếu số đỏ, có những lúc trong vài giây ta bỗng nhiên có một thứ giác quan tiên đoán, lúc tập trung tư tưởng cao độ kèm theo một tâm trạng hứng khởi khiến ta mơ màng nửa tình nửa mê. Vào lúc đó, ta biết rằng quân bài còn úp mặt kia chính là quân K thứ tư ta đang cầm. Ta biết chắc chắn quân bài đó sẽ tới tay, dù xảy ra điều gì, trong bất cứ tình huống nào. Ta biết như vậy.
Tôi biết sắp có cách đánh Martin Yahl.
Hôm ấy, vào khoảng thời gian sắp tắt đợt bùng nổ cuối cùng kết thúc chiến dịch Vành Đai Nắng, tôi bay từ California về New York. Đáng lẽ Léonard Sussman cùng đi nhưng đến phút cuối cùng xảy ra trục trặc nhỏ trong việc mua ngôi nhà ở Santa Barbara nên ở lại: Cảm thấy cô đơn, tôi không ngủ được.
Ghế bên là một người lịch sự, trang phục hơi điểm tí chút lạ kiểu vừa phải, đúng mức. Giá có Léonard Sussman ở đây, hẳn tôi đã luôn miệng trao đổi công việc với anh ta suốt dọc đường. Nhưng lúc này tôi chỉ có một mình. Cộng thêm thói ba hoa Mỹ, anh ta bắt chuyện. Mời tôi cạn một li, tôi nhận. Nói về đủ thứ: Du lịch bằng máy bay, xứ Califonia vừa rời chân, New York sắp gặp lại. Anh ta trao danh thiếp, cho xem ảnh chụp nhà riêng ở Harrison vùng ngoại ô rất hợm hĩnh của New York, ảnh vợ, ảnh hai đứa con và con chó. Anh ta là luật sư, luật sư kinh tế, có văn phòng ở Manhattan đã từng làm với Mac Enroe, có hai cậu con trai hình như rất có triển vọng trong môn quần vợt. Toàn chuyện vớ vẩn tôi cóc cần biết. Trên ve áo đeo tấm huy hiệu trông quen quen nhưng thoạt đầu tôi không nhớ đã trông thấy ở đâu. Anh ta cười:
— Tôi tốt nghiệp Harvard.
Tôi chợt nhớ ra: Martin Yahl thường vẫn đeo huy hiệu đó. Tuy chúa ghét cái tên ấy, không muốn nói đến nhưng vẫn hỏi:
— Anh có quen một tay kinh doanh ngân hàng Thụy Sĩ tên là Martin Yahl trước cũng học Harvard không?
Anh ta có nghe cái tên này rồi, đã đọc thấy trong danh sách sinh viên cũ, nhưng Yahl học khóa trước.
— Nếu tôi còn nhớ, ông ta học từ thời còn Carradine danh tiếng cơ.
— Scarlett đấy.
Anh ta ngạc nhiên thấy tôi còn ít tuổi mà lại biết được biệt hiệu Carradine.
— Vả lại ông ta rút khỏi cuộc sống xã hội từ nhiều năm nay rồi.
Có một cái gì man rợ bùng lên trong tôi.
— Sao? Rút lui là thế nào? Người ta nói lão chết rồi mà?
Anh ta tròn mắt nhìn tôi:
— Chết à? Ma nào bảo anh lão chết rồi?
Các sự kiện thời nay đan vào nhau, chồng chất lên nhau rối tinh rối mù dù tôi muốn cũng khó sắp xếp đúng thứ tự thời gian.
Việc sau đây xảy ra trước khi kết thúc chiến dịch Vành Đai Nắng trước cả lúc tôi biết tin Carradine tức Scarlett chưa chết.
Cú điện thoại của Adriano Letta là hồi chuông khai mạc. Tôi đã dặn Adriano không được gọi tôi ở Pierre trong bất cứ trường hợp nào. “Thế nhỡ có chuyện rất cần kíp?”. Tôi chẳng thấy có chuyện gì cần kíp trong việc bán nhà đất nhưng để anh ta vui lòng tôi bảo: Trong trường hợp ấy thì gọi cho Léonard Sussman, anh ấy nói tiếng Tây Ban Nha nên hai người nói chung có thể hiểu được nhau. Léonard bảo: “Hắn nói tiếng Tây Ban Nha như một con bò cái Pháp. Nhưng nếu tôi hiểu đúng thì hắn muốn anh gọi ngay về khách sạn Paris ở Monte Carlo cho hắn”. Adriano gọi điện cho tôi đã là chuyện lạ, nhất là vì anh ta vốn là con người tạm gọi là tằn tiện lại bỏ tiền túi ra trả tiền điện thoại. Nhưng lại còn gọi thẳng từ khách sạn Paris ở Monte Carlo thì lại càng là điều huyễn hoặc thực sự. Tôi gọi ngay, gặp ngay, và được biết phải đến tìm hắn càng sổm càng tốt, rất cần và quan trọng. Hắn không chịu nói thêm. Từ máy bay này sang máy bay kia, tôi tới Pháp, xin lỗi, đến Monaco. Trên bờ biển Xanh bầu trời đầy mây và dữ tợn khi tôi từ sân bay Nice đi ra cùng Adriano Letta anh ta kể cho nghe điều đã xảy ra. Anh ta ở trong tình thế một gã sen đầm đang bình thản đuổi theo tên bắt trộm gà thì lại tóm được “Kẻ Thù Số Một”.
Chúng tôi bắt đầu nói đến chuyện đầu tư sang Hoa Kỳ. Hắn để mặc cho tôi nói tỏ vẻ thích thú và tôi cảm thấy có điều gì khác thường. Tuy thế sau khi tôi thuyết trình xong, hắn bảo:
— Được. Giả dụ tôi không mua của anh có năm nhà mà mua những năm ngàn hoặc năm chục ngàn thì anh nghĩ sao?
— Lạ thật đấy!
— Tôi cũng thấy lạ, thật đấy.
— Anh chưa cho biết tên người đó.
Với Adriano Letta, điều làm tôi thường bực là hắn quá thạo tiếng Ả Rập chính cống. Nên hắn bị ảnh hưởng khi phát âm. Hắn tuôn ra một tràng tên họ nhưng tôi chỉ nhớ mang máng: Aziz.
— Hắn là một tay Ả Rập Saudi. Tôi kiểm tra rồi, của cải như nước... Ở sòng bạc, nếu không đổi tiền cho hắn lấy thẻ đánh bạc, hắn có đủ liền mua hẳn Hội Tắm Biển.
Theo Letta, có chủ bài này: Hoàng tử (hình như đây là một hoàng tử), hoàng tử Aziz cùng tuổi với tôi, đó là một cái cầu chắp mối bang giao. “Nhưng hắn không tự quyết định được, hoặc không quyết định khi chưa xin ý kiến của người đi theo đồng thời là bõ già của hắn. Cần chú ý: Người này gốc Libanais hơi hơi pha Syrien, vẫn giả bộ không thạo tiếng Anh tiếng Pháp tuy thực ra hắn nói như gió”. Đó là một tay già đời trong giới tài chính, kì cựu của Intrabank ở Beidas. Tên là Fezzali.
Vì thế nên sau đó hai tiếng, chỉ kịp tắm qua và thay quần áo, tôi có trước mặt hai gã Ả Rập, một con tôm hùm chiên phồng và một tô chó sói hầm, món đặc sản truyền thống của khách sạn Paris. Tôi quyết định chơi tới cùng con bài thẳng thắn. Tôi kể với họ toàn bộ câu chuyện làm ăn của tôi thật cặn kẽ, ít ra cũng nói hết phần gọi là chính thức: Kenya, Hong Kong, vàng, đồ vặt, vụ bất động sản ở Paris và San Francisco, kể hết mọi chi tiết từ đầu đến cuối vụ Vành Đai Nắng, chỉ giấu kín các vụ giành giật với Landau, Lamm, với vẻ đồng tình, xem chừng hai người có thể ngồi nhậu bên nhau đến nơi, ngược lại người kia hoàn toàn dửng dưng, không tỏ thiện cảm hay ác cảm, cặp mắt chó đá nhìn tôi không một chút tỏ ra quan tâm.
— Anh cho mình là người đầu tiên nảy ra sáng kiến tìm khách hàng ở nước ngoài khi thấy thị trường Hoa Kỳ hết khách?
— Hết khách mua trong thời điểm này thôi. Cơn khủng hoảng không kéo dài.
— Nhưng anh là người đầu tiên.
— Tôi dám thách ai chứng minh được điều ngược lại!
Nói chuyện với Aziz nhưng tôi vẫn nhìn sang Fezzali, đang ăn món tôm rất hờ hững như thể ăn vốc chà là. Cho dù Adriano Letta không dặn trước thì tôi vẫn đề phòng tên này: Vẻ thô kệch nặng nề của dân đầu đường xó chợ giữa khung cảnh thanh tao của Monte Carlo thế nào cũng khiến tôi dè chừng. Chính hắn là người tôi cần thuyết phục, có khi hắn lại là chính. Nhưng ở hắn ta có cái gì đó làm tôi bối rối, cảm giác hắn ta biết một sự kiện mà tôi không biết do đó nên hắn ta hơn tôi một con chủ bài. Hắn dường như ở cách xa chúng tôi hàng ngàn dặm, trong khi tôi cố sức cù cho Aziz cười ầm lên bằng việc kể lại thật dí dỏm cuộc gặp gỡ Henry Adam đầu tiên, chuyến bán hàng đầu tiên ở Bỉ và Luxembourg. Kể chuyện thuê riêng một chuyến bay, nhét tất cả các khách hàng đang ao ước có nhà ở Florida, cho họ hạ cánh xuống Miami, lễ đón tiếp tổ chức trên cơ sở xe hơi Cadillac, dàn nhạc Cuba và gái đẹp mặc áo tắm nhan nhản ở các bể bơi (mỗi khi tôi cần thu về thật nhiều tiền chứ không phải chỉ nhận hoa hồng).
Mắt Aziz sáng rực:
— Nhiều con gái đẹp hả?
— Nhiều cô tuyệt trần đời.
Aziz và tôi cùng nhau cười đồng lõa. Hẳn là giữa hai chúng tôi đã có luồng thiện cảm và sự thỏa thuận ngầm sẽ cùng có cuộc vui chung. Chính vào lúc ấy, tôi đi đến quyết định, được ăn cả ngã về không.
Sự lựa chọn của tôi rất rõ ràng. Tôi có thể đóng vai trò môi giới, cỡ bự, tất nhiên, nhưng vẫn chỉ là người môi giới thôi, làm trung gian giữa bọn Mỹ có nhà bán với khách hàng có tiềm lực kinh khủng là hoàng tử Aziz. Chắc tôi sẽ được nhiều tiền.
Lại cũng có thể tiết lộ trò hai mang của tôi trong vụ Vành Đai Nắng, vừa ăn hoa hồng, vừa làm ăn riêng rẽ bằng cách mua lại thật nhiều hợp đồng cầm cố; một kiểu làm ăn nếu êm xuôi sẽ giúp tôi phất tung trời, nhưng lúc đó tôi chưa thật tin chắc sẽ thành công. Tiết lộ chuyện đó tôi gặp hai nguy cơ. Một là nếu giữa Fezzali và Yahl đã có sự móc ngoặc, tên chủ ngân hàng sẽ được thông báo về sự gia tăng mạnh mẽ có thể về lực lượng của tôi; nguy cơ thứ hai: Tôi có thể để lọt mất khách hàng sộp nhất trước nay tôi chưa bao giờ tìm thấy. Thật vậy, Fezzali dại gì nhờ đến tay tôi để thực hiện một kế hoạch tự hắn có thể làm lấy cũng được, sau khi đã được tôi chỉ vẽ đường đi nước bước?
Tôi đánh bài liều chấp nhận mọi bất bất trắc, mắt dán vào bộ mặt kín như bưng của Fezzali. Hắn trạc sáu mươi, cho đến lúc này vẫn chưa hề tỏ thái độ, chưa mở miệng lần nào, có mỗi một lần thì lại nói bằng tiếng Ả Rập. Nhưng bây giờ nghe tôi giải thích về cơ chế đòn bẩy, hắn bắt đầu xen vào câu chuyện. Hắn hỏi bằng tiếng Ả Rập, Aziz dịch ra cho tôi:
— Nếu lời tiên đoán của anh về đợt khủng hoảng này có cơ sở, điều gì sẽ xảy ra?
Một lần nữa tôi lặp lại sự suy luận của tôi:
— Hãy hình dung một ngôi nhà được cầm lấy mười triệu đôla. Anh trả tối đa một phần mười số tiền đó để chấm dứt hợp đồng cầm cố. Khi đợt khủng hoảng này kết thúc, tôi tin chắc như thế, ngôi nhà này sẽ trị giá mười lăm hoặc hai mươi triệu. Giá đem cầm ngôi nhà chỉ có mười triệu, giá thực của nó khi xây cất là hai mươi triệu. Anh bán nó lấy hai mươi triệu. Trừ đi chín triệu anh còn nợ, anh vẫn còn mười một triệu. Anh thu về gấp mười lần số vốn bỏ ra. Và nếu tìm được những ngân hàng chịu bán hợp đồng cầm nhà với giá bằng nửa giá trị của chúng, anh sẽ thu về gấp hai mươi lần vốn.
Tôi làm xong đĩa cá. Và bài thuyết trình. Tôi ngồi đợi hai gã đối thoại bàn với nhau bằng tiếng Ả Rập. Bộ mặt Fezzali vẫn kín mít, không hiểu gã nói gì, tôi thử đoán qua thanh điệu xem sao nhưng cũng chẳng ăn thua. Một lần nữa trực cảm lại mách bảo tôi: Hắn nắm được một cái gì đó mà tôi không biết, mà tôi nhất thiết phải biết vì nó hết sức quan trọng. Tôi thầm nghĩ theo bản năng: Cimballi hỏng bét rồi, cậu đánh cuộc và thua cuộc mất rồi. Thằng này sẽ khước từ mọi đề nghị cùa cậu. Có khi hắn đã thông đồng với Martin Yahl, hắn thu xếp cuộc gặp mặt này chẳng qua chỉ để tăm mánh lới của tôi thôi. Suýt nữa là tôi đem lòng nghi Adriano Letta phản bội tôi.
— Tráng miệng?
Không tráng miệng, trừ Fezzali gọi cốc kem to đùng, tôi và Aziz cà phê với xì gà. Tôi không nghiện, thỉnh thoảng làm một điếu Havane, tuy không thấy khoái lắm. Tôi châm điếu Château gì đó, ngắm mặt biển và bờ biển sáng rực. Kỉ niệm trồi lên trong ký ức: Cuộc đua giành giải thưởng lớn Monaco, bố dẫn tôi đến dự, những chiếc Ferrari đỏ trên đường băng, hình thù y hệt nhưng kích thước lớn hơn chiếc ở Capila...
— Anh Cimballi?
Giọng nói là lạ, tuy lúc này chỉ có ba chúng tôi ngồi đây, người phục vụ đã ra hết. Tôi quay lại và nhận ra chính Fezzali vừa gọi tôi lần đầu tiên, trực tiếp, bằng tiếng Pháp rất trơn tru.
— Anh Cimballi, tôi rất quen thân phụ anh. Thực ra, ông cụ là bạn thân. Đáng lẽ tôi đến dự tang lễ, nhưng nó được tổ chức riêng trong nội bộ gia đình. Là bạn thân không có nghĩa nhất thiết phải tin tưởng vào con bạn. Hoàng tử Aziz định gửi anh một trăm triệu để anh tung vào áp phe anh vừa đề nghị với chúng tôi. Phải chi nhiều, trong thời hạn gấp đến thế có sự đòi hỏi cần thiết nên vừa rồi chúng tôi phải bàn kỹ. Cuối cùng chúng tôi đã thỏa thuận: Số tiền giao cho anh, dĩ nhiên do tôi kiểm soát, sẽ là hai trăm năm chục triệu đôla. Sẽ có sau không quá hai tiếng nữa.
Tôi há hốc mồm nhìn ông ta. Suýt nữa phì cười. Thế đấy, bản năng của tôi. Cimballi, mày chỉ là thằng ngu!
Aziz không hiểu chúng tôi nói gì bằng tiếng Pháp, cười hỏi bằng tiếng Anh:
— Có cái gì không ổn?
Tôi lắc đầu, tủm tỉm cười với Fezzali hình như đang khoái trêu chọc tôi:
— Không thể tốt hơn thế này.
Tôi không ngờ mình nói đúng đến thế. Không chỉ vì số vốn này thật khổng lồ so với tầm cỡ tôi. Xét đến cùng, đó chỉ là chuyện vặt. Hậu quá của điều vừa xảy ra, mãi sau này mới bộc lộ và những hậu quả ấy mới thực sự li kỳ, hơn nữa, thực sự quyết định.
Chiếc xe thuê đang đợi tôi trước cửa khách sạn Caesars nơi tôi ngủ đêm, ở khu Las Vegas. Tôi lên đường lúc bảy giờ sáng. Chạy trên đường Strip, gần tới “Sahara” thì rẽ trái. Còn sớm, nhưng nhiều máy tự động bán hàng đã có khách. Lại rẽ trái, theo đại lộ Rancho về hướng Reno. Theo bản đồ, phải chạy hai trăm ba chục kilomètres. Tôi chạy với tốc độ vừa phải và tới cửa thung lũng Thần Chết lúc độ mười giờ.
Tôi chưa đặt chân tới đây bao giờ; riêng cái tên cũng đã vừa hấp dẫn vừa làm tôi ngần ngại, tuy thực ra đó chỉ là một biệt danh kiểu Homériques do các người khai hoang đặt ra. Luật sư người New York tôi gặp trên máy bay hôm đó bảo tôi: “Đi theo đường thung lũng Salt Creek, rẽ trái theo hướng Stove Pipe Wells, xuyên qua Đụn Cát. Bên tay trái có con đường mòn đi Mosaïc Canyon và thành phố ma Skidoo. Đừng theo đường ấy, tuy đáng tiếc, những cái tên nghe thật kỳ cục. Phải rẽ tay mặt. Đi hết Titus Canyon, và đi quá Grapevine bốn kilomètres anh sẽ thấy ngôi nhà. Không sợ nhầm đâu: Trong vòng hàng trăm dặm xung quanh không có ngôi nhà nào khác, một mình nó đứng giữa cảnh sa mạc, hoàn toàn cô độc, khá kỳ lạ, xây theo kiến trúc lạ mắt Tây Ban Nha - Hồi Giáo, giống kiểu các trại ấp trong phim quay bên Mexico...”
Ngôi nhà ở đấy thật, ở đoạn cuối trận đồ bát quái được cắm mốc bằng những tên gọi có thể coi là của các nhà biên kịch Hollywood nghĩ ra. Nó ngay kia, toát ra một vẻ cô đơn kỳ lạ. “Này Franz, nếu anh tới đó trong thời gian gần đây thì thật đáng lo ngại cho anh, ở đấy nóng kinh khủng, có lúc lên đến trên năm lăm độ trong bóng râm”. Xe tôi có máy điều hòa vậy mà tôi vẫn cảm thấy sức nóng khô rang như ngoài cửa kính. Nó đập mạnh vào tôi như một cú đấm khi tôi mở cửa xe bước xuống, sau khi lái xe đến sát con đường mòn và tắt máy.
Khoảng một phút trôi qua trong im lặng thời khai thiên lập địa, nặng trĩu như bộ áo tế. Tuy có người trong đó, người ấy đang đi tới, tôi biết rõ vì đã thấy bóng Tôi cứ đợi, người sũng mồ hôi. Nhà có sân trong rất rộng bọc quanh là các công trình chính, một tầng lầu trên nền đắp cao. Ba mặt sân có hành lang, mặt thứ tư là cổng lớn có mái cuốn vòm. Hoa dày đặc mọi nơi, leo lên tường thành chùm lộng lẫy. Trong không khí có có mùi riêng biệt của đất cháy nắng gặp nước.
— Đây là tư dinh.
Tôi không nghe thấy tiếng chân người tới gần. Chẳng đáng ngạc nhiên: Bà ta đi đất, điều không hợp với bộ trang phục trên người: Áo Blouse, mũ y tá sạch bong.
— Tôi hiểu. Tôi cần gặp ông Carradine.
— Ông Carradine không tiếp khách.
Lần này sự chuyển động ở bên tay phải: Một y tá nữa hiện ra cũng lặng lẽ, cũng trạc tuổi người thứ nhất, khoảng năm mươi nghiêm nghị, không một nét nào ưa nhìn, mang trên người tất cả các dấu hiệu của thời gian nghiệt ngã. Người mới tới dừng lại, chắp tay trước bụng, lạnh lùng nhìn tôi. Từ dãy phòng u tối tuy tường rất trắng và hình như không trổ chiếc cửa sổ nào, hiện ra người đàn bà thứ ba cũng khô đét như hai người kia.
— Ông ấy sẽ tiếp tôi. Nếu chị đưa cho ông cái này.
Tôi đưa mảnh giấy chữ nhật vừa viết lên vài từ, chìa ra. Cả ba người đàn bà tôi đang trông thấy không người nào nhận. Và tôi cảm thấy hình như còn có nhiều người đàn bà khác mà tôi không trông thấy, đi chân đất, choàng áo blouse trắng toát và có thể nói là lạnh băng, cũng đứng bất động như thế này, hai tay chắp trước bụng trong một cử chỉ thật đàn bà. Tôi quyết định tiến lên mấy bước, trèo lên bậc tam cấp dẫn vào hành lang bọc sân trong.
— Ông Carradine không bao giờ tiếp khách. Không tiếp bất cứ ai. Không có ngoại lệ.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngoài sân nắng rãi với hành lang mát mẻ không phải chỉ tương đối, mà rất rõ, có đến hai lăm độ. Tôi ngước nhìn lên, thấy những cửa máy điều hòa gắn trên trần.
— Tôi là người duy nhất trên thế giới được ông Carradine nhận lời tiếp. Đưa cho ông mảnh giấy này.
Im lặng. Tôi vẫn cầm mảnh giấy. Tôi đi hết hành lang, bước vào căn phòng tiếp khách rộng rãi bày toàn đồ gỗ kiểu Tây Ban Nha tuyệt đẹp đối với tôi; nhiều tủ, một chiếc tủ buffet bằng gỗ màu rất sẫm, có một phần để ngỏ phô rõ phía trong đầy ứ những bản khắc, ngăn kéo. Tôi đặt mảnh giấy lên chiếc ghế kiểu Tây Ban Nha.
— Ông Carradine sẽ tiếp sau khi đọc được cái này.
— Ông Carradine không đọc.
— Thì đọc cho ông. Tôi sẽ không rời khỏi đây.
Một trong ba người bỗng nhượng bộ. Chị ta chỉ nhún mình động đậy. Đi về phía tôi, ngang qua mặt mà không thèm nhìn, lượm mảnh giấy trên bàn rồi biến mất trong dãy buồng. Mất độ mười phút im lặng nhà mồ, mấy mụ đứng im không động, lạnh lùng canh chừng tôi. Từ cõi hư vô xuất hiện mụ ban nãy mang mảnh giấy đi.
— Mời theo tôi.
Nhìn bên ngoài ngôi nhà đã có vẻ rất rộng, thực ra nó còn rộng hơn nhiều lắm. Tuy nhiên đó không phải là cái làm tôi chú ý, cũng không phải sự trang trí xa hoa điên rồ của nó, không phải bầu không khí bảo tàng ảm đảm ngự trị khắp ngôi nhà. Mà là cái mùi.
Đầu tiên, mùi đó thoảng qua mũi rồi biến mất, khiến tôi ngỡ ngửi phải trong mơ. Sau đó một rồi hai đợt ập đến, tiếp đến là cả một lớp dày đặc trùm lên tôi. Nó quánh nhớp, dán lên da thịt, hôi thối làm ngạt thở, thật kinh tởm. Khi nhận ra mình càng đi sâu thì mùi càng bốc mạnh, tôi lưỡng lự gần như lùi bước. Người đàn bà đi trước dẫn đường chắc đoán ra. Mụ dừng một bước chân, hơi quay về sau:
— Chưa ăn nhằm gì đâu! Nhưng tự ông đòi vào.
Chúng tôi lại cất bước, mùi càng nồng nặc ngạt thở thực sự. Tôi chưa bao giờ phải ngửi thứ gì tởm hơn, tởm hơn tất cả những mùi có thể tưởng tượng nổi. Một mùi thối khẳm không chỉ xộc vào mũi mà còn ám vào từng phân vuông da thịt, như hơi độc.
— Vào đây.
Mụ dẫn đường vừa mở cánh cửa cuối cùng, mùi thối trào ra như một con sóng. Chắc chắn không ở đâu trên trái đất này có một nơi chứa xác chết hôi thối hơn gian phòng tôi vừa bước vào. Một gian phòng khác thường: Trên các bức tường, mà không phải chỉ ở trên tường, cả trên trần, dưới sàn treo đầy các tấm danh họa. Tôi nhận ra tác phẩm của Van Gogh, Renoir, Gauguin đặt bên nhiều họa sĩ tôi không biết tên. Như vậy các bức họa treo trên năm mặt phẳng căn phòng, mặt thứ sáu là khuôn chữ nhật mở ra toàn cảnh không giới hạn của thung lũng Thần Chết đẹp dị thường. Mở ra thực sự, có thể đi qua đó ra ngoài, hàng loạt máy điều hòa đang chống chọi với sức nóng định tràn vào.
Tuy thế con người đang ở trong phòng này mặc dầu có thể thả sức ngắm bộ sưu tập kỳ diệu của ông ta nhưng không thể đụng tay vào các bức họa: Ông ta ở trong một cái lồng thủy tinh úp trong căn phòng, các mặt của chiếc lồng đều cách năm mặt phẳng độ mười centimètres. Tôi chợt hiểu tại sao có sự bố trí lạ lùng ấy khi nhìn thấy các vệt mủ vàng ệch vung vãi trên các mặt kính, cảnh tượng làm tôi lợm giọng nấc lên.
Người trong phòng là một người đàn ông nằm sóng soài trên chiếc ghế sắt nhẵn lì, có lẽ được chế tạo để dễ rửa. Vì toàn thân ông ta chỉ là một cái mụn khổng lồ, đang mưng mủ gớm chết. Không có được mười centimètres vuông da thịt nào không lở loét nhầy nhụa, ngay bộ mặt cũng bị mụn ăn nham nhở. “Ông Carradine không đọc”, mấy mụ nói thế. Lạy chúa, ông ta đọc bằng gì được! Trên chiếc mặt nạ kinh khủng hàng vẩy và mụn, không thấy đâu là mắt nữa. Trong khắp ngôi nhà, không chỗ nào mùi thối khẳm mạnh bằng ở đây, nơi tiếp xúc trực tiếp với cái còn lại của John Carradine tức Scarlett.
Mụ y tá đưa tôi vào đã rút êm như một bóng ma. Mụ hay một người nào khác đã đặt mảnh giấy của tôi lên chỗ tì tay chiếc ghế sắt. Tờ danh thiếp đã vấy bẩn, một vệt vàng trên góc. Bộ mặt lở loét ghê sợ quay chầm chậm về phía tôi. Im lặng rất lâu. Rồi tiếng nói cất lên trong trẻo rõ ràng đến kì lạ, hơi pha giọng Harvard.
— Vậy anh là con trai Andrea?
Tôi nhìn tấm danh thiếp để tránh khỏi nhìn vào điều ô nhục là bộ mặt kia. Người ấy bảo:
— Xin vui lòng đọc cho nghe anh viết những gì.
— “Tôi là con trai Andrea Cimballi. Tôi thách ông tìm được cách đánh gục Martin Yahl”.
Nét mặt mủ hơi động đậy, có thể tạm coi đấy là nụ cười. Nó vẫn quay về tôi như chiếc radar.
— Anh tên gì?
— Franz.
— Sinh năm nào?
— Ngày 9 tháng chín 1948.
— Anh còn nhớ La Capilla chứ? Chắc phải nhớ nếu đúng là con Andrea. Mười lăm năm trước tôi đã cho con Andrea một món quà. To, màu đỏ.
— Chiếc Ferrari kiểu thu nhỏ.
— Có đánh số.
— Số bảy.
Im lặng.
— Giọng anh hệt giọng ông ấy. Anh có giống ông không?
— Hơi hơi.
— Tầm vóc thế nào?
— Hơi cao hơn.
Trong cuộc đối thoại này, điều làm tôi kinh ngạc nhất là tiếng nói của Carradine rất rõ ràng, cách diễn đạt hết sức chính xác; đó là tiếng nói của vị luật sư quen thuộc với phòng xử án, của vị giáo sư đầy danh vọng trên bục giảng. Nhưng lại phát ra từ nắm thịt rữa nát nửa đỏ nửa vàng, chảy mủ, không còn vẻ người.
— Làm cách nào tìm được tôi?
— Tình cờ.
— Nhưng anh có tìm tôi đâu?
— Tưởng ông đã qua đời.
Mỗi giây trôi qua tôi càng thấy buồn nôn hơn tuy đã bắt đầu quen thứ mùi này. Tôi đi vài bước xuyên qua phòng, ra ngoài nắng, lảo đảo dưới sức nóng đột ngột úp xuống người. Tiếng nói sau lưng:
— Franz, tôi đang tính tuổi anh, độ hăm ba hăm bốn thì phải. Vậy mà định đánh Martin Yahl.
— Không chỉ một mình lão ấy.
Tôi nôn thốc nôn tháo, có đến một phút mới hết. Sau đó tôi lảng ra xa đến ngồi bên phiến đá dưới gốc cây xương rồng Mexico ngay gần cửa phòng, quay lưng lại Scarlett cách xa chừng ba bốn mét.
— Anh nói là định lao vào một trận rửa hận?
— Đã thực hiện rồi.
Phong cảnh thung lũng Thần Chết đẹp mê hồn mặc dầu lúc này mặt trời đứng bóng làm nhòe bớt chiều nổi của cảnh vật. Tôi đã đỡ buồn nôn.
— Trả thù tên nào rồi?
— Đã thanh toán xong phần của Landau, Lamm, Hovius và Donaldson. Bremer tự sát. Với bác Giancarlo tôi chỉ cần nhổ vào mặt là đủ. Còn lại lão Martin Yahl.
— Và tôi nữa.
— Tôi đã nói: Tưởng ông chết rồi.
— Chưa chết.
— Chết đi tốt hơn cho ông. Tôi không thương hại ông đâu, trái lại. Tôi sung sướng gặp lại ông, thấy ông như thế này. Khi nghe tin Bremer chết, tôi thấy bị hẫng, bị tước đoạt. Với ông, không thấy thế. Tôi sung sướng thấy ông chỉ là đống phế thải của một con người.
Sau lưng tôi có sự chuyển động, một loạt tiếng lướt đi, tiếng hì hục, tiếng trườn ghê tởm. Tôi hình dung ông ta tuột khỏi ghế sắt, lết về phía tôi bằng động tác bò chậm chạp của con amibe. Ông ta rên rỉ, càu nhàu. Đã đến gần. Tôi không quay lại. Tôi nói:
— Tất cả bọn ấy, kể cả ông bác ngu si của tôi xét đến cùng chỉ đóng những vai phụ. Trừ Martin Yahl và ông. Tôi biết chắc, tất cả sự điều tra của tôi đã chứng minh chính lão đã cùng với ông tổ chức mọi cái. Tôi không rõ lão hay ông là người đã nghĩ ra đầu tiên. Không quan trọng. Ông đã tháo dỡ tất cả những gì đã xây dựng nên theo yêu cầu của bố tôi, ông đã chỉ đạo vụ lừa đảo về mặt kỹ thuật, ông đã hành động khéo đến nỗi tuy biết có lừa đảo nhưng không ai tìm ra chứng cứ.
Ông ta tiếp tục lết chậm chạp. Phát khóc vì đau, vì căm tức mỗi lần cử động. Đến cách tôi hai mét. Mùi hôi thối trùm lên tôi.
— Điều làm tôi căm thù các người, cả Martin Yahl và ông, căm thù quá sức tưởng tượng, không phải là vì mấy người đã ăn cắp tiền bạc của bố tôi. Cũng không phải vì mấy người đã nhẫn tâm phản bội lòng tin cậy của bố tôi.
Giữa hai chúng tôi chỉ còn khoảng cách có một mét, nhưng ông ta đã đau đớn quá mức, mỗi centimètres là một cực hình. Thôi không bò được nữa, ông ta thở dốc từng hồi như người sắp chết ngạt.
— Điều làm tôi căm thù nhất là cái mấy người đã khiến mẹ tôi phải chịu đựng. Tôi còn nhớ điệu nhảy nhộn nhạo quanh giường mẹ tôi trong lúc mẹ tôi đang hấp hối. Đáng lẽ để mẹ tôi được chết yên ổn thì mấy người bắt tiêm cho bà đủ thứ, không những để kéo dài hơi thở mà còn để làm cho bà đủ tỉnh táo và đặt được chữ kí hợp pháp lên đủ thứ giấy má mấy người cầm. Lúc ấy, đúng là mấy người không thèm đếm xỉa đến nỗi đau đớn của bà. Tôi đã nghe các bác sĩ xì xào với nhau. Carradine hoặc Scarlett, hoặc gì gì cũng vậy, tôi không bao giờ quên điều đó! Tôi căm thù Yahl, căm thù ông bằng lòng căm thù con trẻ và qua bao năm tháng lòng căm thù ấy không hề nguôi. Vậy mà ông còn muốn rủ lòng thương à?
Ông ta vẫn không động đậy. Tôi quay lại. Bàn tay ông ta - cái mỏm cụt đầy mủ - cách tôi có độ hai tấc, vùi trong bụi đất đỏ. Người nằm vắt trên bệ bê tông lẫn sắt thép có rãnh trượt để đóng mở tấm kính lớn của căn phòng. Thân hình rũ rượi, phập phồng, máu, nước vàng, mủ chảy thành vũng loang dần, ngấm một phần xuống nền cát thung lũng. Nhìn vào vết nứt trên mặt ở chỗ trước kia là đôi mắt, nhìn thân hình rung rung trong tiếng nấc, có thể biết ông ta đang khóc.
Tôi đứng dậy, gõ cửa kính phòng bên có hai người đàn bà ngồi. Sau một lát họ mới đến, chân tay đều bọc găng nhựa dẻo, lúc ấy tôi mới hiểu tại sao họ đi chân đất. Họ nhẹ nhàng nâng người ông ta, thấm khô, tiêm nhiều mũi thuốc màu trắng, lau chùi trong mức độ có thể lau chùi; trong lúc đó hai người khác rửa toàn bộ gian phòng kính, chiếc ghế sắt, xịt thật nhiều nước có mùi ete bằng vòi tưới cây. Họ đặt Scarlett lên ghế. Họ vừa quay gót ra khỏi phòng, mủ bắt đầu chảy.
Sự im lặng nhà mồ của thung lũng Thần Chết lại trùm lấp tất cả. Mãi mới nghe cất lên giọng nói rành rọt:
— Martin Yahl là kẻ bày mưu tính kế. Chúng tôi cùng học ở Harvard, tôi chịu ơn ông ta nhiều. Ông ấy đã giúp tôi những năm mới vào nghề, cho vay tiền, giới thiệu với bố anh. Tôi đã dựng nên Curacao Số Một do bố anh nắm giữ. Năm tháng trôi qua. Tôi vẫn cần rất nhiều tiền và bao giờ Yahl cũng đáp ứng. Rồi năm 1955, mụn lở đầu tiên mọc ra. Tôi đi khám tất cả bác sĩ nhưng họ đều bó tay, đổ cho một thứ siêu vi gì đó. Bao giờ chả thế, khi họ không biết là bệnh gì...
Trước nay tôi vẫn hình dung thung lũng Thần Chết là một nơi hoang vắng cháy nắng. Thực tế khác hẳn: Vẻ đẹp nơi đây thật kỳ diệu, sự sống nơi đây biểu hiện dưới nhiều hình thái phong phú, côn trùng, bò sát, hàng chục động vật thoáng vụt qua trong đó hình như có con thỏ rừng, bên tay phải cách tôi một tầm ném có tia nước vọt ra từ khối đá màu son hồng chảy xuống chiếc bồn thiên tạo thành dòng suối trong veo.
— Mùa xuân 1956 tôi đã không ra trước công chúng được nữa vì một bên má bắt đầu loét. Martin Yahl tới thăm. Tôi đang cần tiền hơn lúc nào hết. Ông ta hỏi liệu tôi có cách nào dỡ bỏ cái đã xây nên, liệu tôi có thể xóa sạch dấu vết của Curacao Số Một, làm như nó chưa bao giờ tồn tại rồi sau đó với vốn liếng ấy, tài sản ấy tựa hồ từ số không hiện lên, liệu tôi có thể lập nên một công ty khác, Curacao Hai do Martin Yahl làm chủ nhân độc nhất? Tôi trả lời: Trở lực cơ bản là bố anh. Bố anh và các cộng tác viên thân cận của ông, họ biết rõ mọi điều. Không thể bịp nổi những người ấy.
— Landau, Lamm, Bremer, Hovius và Donaldson.
— Còn một gã người Ý nữa tên là Revere chết trong tai nạn xe hơi năm 57. Tôi chưa hề gặp Landau và Donaldson. Anh đã thấy họ chưa?
— Tôi không cần thấy mặt chúng. Chúng đã khánh kiệt, cả hai đứa, cũng như Lamm, Bremer đã chết, như Hovius. Nhưng không phải do tôi giết.
— Bọn đó đều là những trở ngại. Tôi bảo Yahl thế và ông ta nói sẽ lo chuyện đó, sẽ làm cho họ im tiếng. Tôi hỏi: “Còn Andrea?” Martin nhún vai: “Tim ông ta sẽ đứng lại hoặc sớm hoặc chầy. Chỉ cần một cơn xúc động mạnh là đủ”. Ông mất hồi nào?
— Ngày 28 tháng tám 1956.
— Chết tự nhiên.
— Nhồi máu cơ tim.
— Lúc ấy ông đang làm gì?
— Gọi điện.
— Anh có biết gọi cho ai không?
— Không. Nhưng biết ông nói bằng tiếng Đức.
Tôi quay lại đối mặt với Scarlett. Tay tôi run bần bật. Bộ mặt mủ lắc chầm chậm từ trái sang phải, vẫn quay về phía tôi.
— Anh không hiểu sao, Franz? Ở đầu dây đằng kia là Martin Yahl.
Mồ hôi toát ra người tôi như tắm. Nhưng lúc này nhìn đôi mắt chết kia tôi hầu như không thấy tởm lợm nữa.
— Ông hoàn toàn không nhìn thấy gì...?
— Năm ngoái còn thấy lờ mờ, bây giờ chịu chết.
— Martin Yahl vẫn tài trợ?
— Tôi sống nhờ tiền lãi số vốn ông ta cấp từ 1956. Ông ta biết tôi không quản lý nổi của cải, không cho tôi đụng vào vốn, chỉ được hưởng lãi thôi. Martin Yahl là tay kinh doanh ngân hàng lọc lõi. Ông ta không bao giờ nhầm lẫn, bao giờ cũng biết nên làm gì.
Giữa thân hình đang thối rữa với giọng nói châm biếm hài hước có sự tương phản thật rõ ràng và bi thảm.
Scarlett nhận xét:
— Tôi nhớ tới anh như một đứa trẻ cởi truồng đùa nghịch trên bãi biển Pampelonne. Anh đã trả thù tất cả bọn kia?
Tôi trả lời phải. Và tự nhiên tôi kể lại mình đã làm cách nào, hơn nữa, kể cả cuộc ra đi từ London cho đến giây phút đặt chân vào thung lũng Thần Chết. Câu chuyện khá dài, có một lúc tôi phải tạm ngưng khi các mụ đeo găng đi ủng, che mặt như nhà phẫu thuật viên lại hiện ra, làm lại những công việc hồi nãy, lau rửa thật kĩ càng ở mức có thể được nhưng chẳng có tác dụng gì vì ngay lúc họ vừa ra khỏi phòng thì mủ lại chảy, mùi thối khẳm lại tụ đến.
— Này Carradine, tôi muốn đánh ngã Martin Yahl,
— Bằng đồng tiền.
— Đúng thế.
— Anh có bao nhiêu?
Tôi chỉ do dự trong một thoáng:
— Độ bảy mươi triệu đôla.
— Chưa đủ. Martin Yahl có gấp ba chừng đó, chưa kể ngân hàng của ông ấy. Anh có thể gây rắc rối, làm ông ta mất nhiều tiền, nhưng bản thân anh cũng hết sạch, thế thôi.
— Theo ông, tôi không còn phép gì khác?
— Một mình anh? không có...
— Nếu ông giúp cho?
Im lặng. Bộ mặt ghê sợ từ từ quay tròn như quay theo đường đỉnh dãy Grapevine.
— Với sự giúp đỡ của tôi mọi sự sẽ khác hẳn, anh bạn trẻ Cimballi ạ. Anh có con chủ bài rất đặc biệt để đánh bại Martin Yahl, nhưng có lẽ chính anh đến lúc này chưa thấy hết sức mạnh của nó. Cách đây năm năm Martin đến gặp tôi, cũng trong ngôi nhà này. Lão cũng đứng chỗ anh đang đứng, giữa nắng, lấy cớ người tôi bốc mùi. Chúng tôi đã... Không, nói cho đúng thì chính lão đã nói rất nhiều về anh. Đấy là lí do duy nhất đưa lão đến đây: Lão đi một vòng trái đất để nói với tôi, với một mình tôi, tên tòng phạm của lão. Còn nhớ bữa ấy tôi đã cười, đã chê lão ta. Tôi bảo: “Này Martin, thật nực cười, một người quyền thế như anh, giàu có như anh, phẩm chất như anh mà lại khiếp sợ, căm ghét đến mức ấy một thằng bé mười tám mười chín tuổi đầu, cho đến nay chẳng có mục đích gì khác trong đời, ngoài việc lo tiêu phí được thật nhiều trong thời gian thật ngắn, điều mà chính anh đã cố làm nó chạy theo. Martin, anh bị thằng nhóc này ám ảnh rồi”. Đấy, bạn trẻ Cimballi con trai Andrea, con chủ bài của anh là chỗ này: Martin Yahl khiếp sợ anh một cách vô lý, và không kiểm soát được nỗi căm thù anh.
Mồ hôi chảy tong tỏng khắp người, quần áo tôi vắt ra nước. Nhưng không phải vì trời nóng mà tay tôi run thế.
— Tôi đánh gục Martin Yahl được chứ? Có khả năng đánh thắng chứ?
Scarlett co mình trên ghế sắt, gập các mỏm cụt ở chân dưới thân mình bằng một cử chỉ rất người của con quái vật.
— Có thể lắm. Có khi còn khá dễ dàng nữa. Nếu là đánh cờ, tôi có thể nói: Chiếu bí sau chín nước đi.
Chú thích:
[9] Năm 1929, năm đại khủng hoảng của nền kinh tế tư bản.