← Quay lại trang sách

Chương 4

Vẫn ngày 7 tháng năm, Flint hạ cánh xuống Los Angeles.

Do chênh lệch múi giờ nên lúc này bên Châu Âu đã là bình minh ngày mùng 8 còn ở California bóng đêm ngày 7 mới bắt đầu tràn xuống. Chúng tôi đến vừa đúng lúc. Tôi đã báo cho bạn bè đến chia vui, cùng tôi chúc mừng sự ra đời của chú nhóc. Kết quả vượt xa lòng mong muốn của tôi.

Trên suốt chặng bay, gã Thổ nốc cạn lượng champagne đủ làm nổi bồng một chiếc tàu sân bay của Hạm Đội VI, rồi bốc lên biểu diễn những điệu nhảy cosaques trứ danh mà gã nhận là món sở trường. Ute Jenssen và bốn ả cùng đi hứng lên như những con rận cái, thấy ai đến gần là xấu hổ mơn trớn, phô hết thịt da hồng tươi thơm phức, nhà báo MacQueen hát những bài anh ta cho là của Ireland nếu có thể gọi thế là hát; ngay cả Lupino và Rosen, hai luật sư mọi khi rất điềm đạm hôm nay cũng tỏ ra khác thường, nhất là Rosen: Anh ta đã tìm cách rạch bộ lông giả của con gấu cao hai mét và chui vào trong; hai nhân viên phi hành đoàn của Flint thì dường như còn khó khăn phân biệt nổi máy bay với tàu ngầm; cặp Li và Liu tỏ rõ khả năng làm trưởng trò trong cuộc hội tưng bừng này tuy họ không nhấp rượu tí nào, xưa nay không bao giờ họ phải nhờ đến ma men giúp sức mới bộc lộ hết thói ngông lạ kiểu của họ, vì vốn dĩ họ đã điên sẵn; họ vẫn cái trang làm cướp biển, mắt xoay tròn, liếm mép thèm thuồng trước cảnh ngổn ngang hỗn độn này và đề xướng việc tất cả sẽ đội lốt những vị quan Tàu bằng dụng cụ họ đã chuẩn bị sẩn. Máy bay hạ cánh, cuộc đổ bộ của các viên quan vừa hoàn tất, Li và Liu châm ngòi cuộc đốt pháo hoa không thể thiếu nếu muốn có hội ra hội, theo lời họ khẳng định.

Trong một tình thế khác chắc chắn tôi sẽ buông thả mình theo những trò điên rồ này. Bây giờ thì không. Sau sự việc ở khách sạn Biltmore tại New York. Rất đông bạn bè California, số đông là diễn viên và tác giả kịch bản điện ảnh đến chào đón chúng tôi về biệt thự ở Beverly Hills dự vũ hội. Nhưng tôi mượn xe một người bạn và lỉnh đi. Tôi muốn trước tiên hãy gặp Catherine và thằng bé.

Bỗng nhiên chúng xuất hiện đúng vào lúc tôi sắp lên ngồi sau lay lái chiếc Porsche. Ba tên, thoạt đầu tôi tưởng chúng định cướp. Nhưng không, chỉ giơ máy ảnh lên. Chớp đèn làm tôi không nhìn được nữa. Không một lời nào.

— Các anh là ai? Của báo nào thế?

Không ai trả lời. Chúng tiếp tục bấm máy, gần như không suy nghĩ, mặt lạnh như tiền, phớt hết mọi sự, đúng cung cách bọn nhà nghề, bấm một lúc hai, ba, có khi mười pô chỉ để yên chí thể nào cũng được ít nhất một tấm ưng ý.

Tôi ngồi vào xe, nổ máy. Chúng đứng im không nhúc nhích, cũng chẳng buồn nhìn tôi lao đi, dường như tôi chẳng còn là cái thá gì sau khi chúng đã làm xong việc của chúng. Chỉ sau khi chạy được vài trăm mét, mới gặp lại cảm giác đã có khi nhìn vào mắt gã Horst, cảm giác: Có cái gì đó không ổn.

Chẳng mấy lúc sau tôi đã có dịp thấy rõ: Cảm giác đó có cơ sở. Xe tôi chạy suốt dọc đại lộ St. Monica, vào đậu trong bãi của bệnh viện Boulevard lúc hơn mười giờ đêm, giờ bên bờ phía Tây. Mới đi được năm sáu bước đã bị chúng đến ám. Lần này chỉ có hai tên thôi. Không phải mấy tên ngoài sân bay nhưng vẫn cùng một kiểu hành động. Chúng sán đến gần chạm người tôi và lia tới tấp hàng tràng dài chớp đèn sáng trắng, trùm kín người tôi. Như những gã đấu bò lì lợm, chúng chỉ tránh đường vào giây cuối cùng, cho đến lúc tôi bước qua cửa, thoát nạn. Vào tới đại sảnh tôi nhìn lại, thấy chúng sau khi làm xong công việc đã quay đi, máy ảnh tòng teng nơi tay.

Chụp ảnh tôi không phải chuyện mới mẻ gì, tôi có nhiều bạn bè là nhà báo ở rất nhiều nước. Bao giờ họ cũng bấm máy kèm theo một câu nói, một nụ cười. Vả lại tôi không thuộc loại người nổi tiếng. Nhiều lắm cũng chỉ là một người được biết đến vì báo chí có lần đã nói về tôi, nhất là sau vụ “Rao Mua Toàn Bộ”, qua đó tôi đã làm đổ sụp cơ nghiệp Martin Yahl Ở tuổi tôi mà kiếm nổi vài chục triệu đôla dĩ nhiên làm mọi người chú ý không nhiều thì ít. Lại còn tấm ảnh “Tôi sướng” đăng trên năm mươi sáu tờ báo chắc cũng làm tôi khó giấu được tung tích.

Nhưng từ đó mà đi đến chỗ bị săn đuổi. “Săn đuổi”. Một tia chớp trực giác chói lòa làm bật ra từ này, ngoài ý thức của tôi.

— Anh ba chân bốn cẳng chạy về thật nhanh.

— Chả dừng lại New York là gì?

*

— Máy bay của Flint không phải loại 747, không cất cánh ngay được. Anh khởi hành từ Amsterdam đấy, em đừng quên. Catherine, anh mừng đến phát điên.

Tôi say mê đứng ngắm, gần như dính chặt vào làn kính ngăn cách tôi với thằng con đỏ hồng đang ngủ say như chết. “Sớm mất hai tuần... trường hợp này không biết có phải nuôi trong lồng ấp không?”

Tưởng chỉ tự hỏi mình thôi, không ngờ lại nói ra lời nên Catherine bực dọc đáp lại:

— Và gì nữa? Con rất bình thường, khỏe mạnh.

— Đặt tên gì đây? Ta phải quyết định thôi. Marc Lavater định là Marc, gã thổ và Ute đòi đặt là Mustapha Napoléon, còn Li và Liu thì khuyên là Khổng Tử. Hay là gộp tất cả lại?

Tôi chịu cực như chó, cố làm ra vẻ ngộ nghĩnh, xởi lởi và tất cả, tất cả. Với cảm giác khó chịu là sẽ không thành công.

— Anh dừng lại New York làm trò gì?

— Thì đã nói với em rồi, do Flint cần đỗ lại.

— Còn có cái khác nữa.

Tôi chưa bao giờ nói dối Catherine:

— Đúng thế, nhân thể anh giải quyết một việc.

— Quan trọng đến thế cơ đấy!

Tuy tiếc rẻ, tôi vẫn phải bỏ dở việc ngắm nghía thằng bé đến ngồi xuống giường, khi cúi xuống định hôn thì Catherine quay mặt đi thành ra chỉ hôn được vào má.

— Có cô y tá cho biết ngoài cửa buồng em có thám tử canh gác.

— Không sao. Đề phòng xa thôi.

Im lặng.

— Catherine...

Bây giờ cô mới chịu nhìn vào mắt tôi. Trong chớp mắt tôi gặp lại đôi mắt vàng óng đã trông thấy lần đầu trên bể bơi một khách sạn ở Naussau, quần đảo Bahamas. Gặp lại Catherine của tôi, nàng Catherine của vùng Thượng Loire, của những cuộc dạo chơi Paris, của Marrakech, của bữa sóng đôi cùng trở lại ngôi nhà thời thơ ấu ở Saint Tropez.

— Ổn chưa?

— Ổn.

Nói thế nhưng cô nhắm tịt mắt lại như muốn ngủ. Giả vờ thế, tôi dám thề như vậy.

— Anh có lỗi gì Catherine? Có chuyện gì vậy?

— Chẳng có gì sất, - mãi cô mới nói.

Nụ cười của cô rõ ràng là cười gượng. Tôi bèn kể về lũ điên vừa tới đây cùng với tôi, về bọn sắp kéo đến thêm.

— Sau đó chúng ta sẽ đi du lịch, cả ba: Nhóc, em và anh. Ba đứa thôi.

Cô vẫn lãnh đạm chẳng buồn gật đầu. Chỉ nói buồn ngủ rồi. Tôi lại ra đứng chôn chân ngắm thằng con. Cho đến lúc y tá tống ra khỏi cửa.

Ngày 8 tháng năm bố mẹ vợ tôi đến Los Angeles lúc độ một giờ rưỡi sáng. Ra đón ở sân bay tôi mới biết có cả Françoise Lavater cùng đi trên máy bay. Chị đã tranh thủ vù khỏi Chagny.

Trước đó tôi có tạt qua nhà. Khách khứa chẳng cần đến tôi, đêm hội tuyệt vời đến nỗi chẳng có ai thèm để ý đến chủ nhà. Chỉ một mình Marc Lavater chịu đoái hoài đến, đòi cùng đi với tôi ra sân bay. Tôi từ chối, nhưng lại nói với anh ta về bọn phó nhòm. Đêm ấy tuy có nhậu, ít hơn so với trên một trăm thằng điên kéo vào nhà tôi, nhưng anh cũng còn đủ tỉnh táo để hiểu được những điều tôi thuật lại.

— Thế bọn chúng vẫn đợi đến lúc anh rời bệnh viện?

— Vẫn mấy thằng tôi gặp khi mới đến. Và tin chắc toán thứ nhất hiện đang rình tôi ngoài sân bay.

Anh gật đầu:

— Trò chơi lớn đã khai mạc rồi đấy, Franz. Chúng định làm cho anh bị căng thẳng, anh hiểu chứ?

— Tự tôi chắc không nghĩ ra, cảm ơn

— Từ mai tôi sẽ lo chuyện này. Nếu chúng là những tên phó nhòm giả danh, có thể ta sẽ trị được. Tất nhiên, theo đúng luật.

— Nếu không phải thì sao?

Anh nhún vai:

— Tôi không rành luật pháp Hoa Kỳ về quyền báo chí và về bảo vệ đời sống riêng của công dân, chỉ biết là nó khá rộng rãi. Vả lại, ai là người muốn thấy ảnh mình được trương lên báo toàn thế giới? Thích vinh quang thì phải trả giá.

Đôi mắt bà mẹ Catherine cũng vàng mượt như mắt cô con gái, tuy không mơ màng bằng. Tôi rất mến bà. Điều đáng ngạc nhiên là bà cũng tỏ ra mến tôi thực tình, tuy tôi không quen được chiều chuộng. Chưa nghe tôi kể về thái độ lạ lùng của Calherine bà đã hiểu ngay. Tôi nói: “Chắc là tại vì khi sinh cháu, cô ấy chỉ có một mình ở California, xa gia đình. Đáng lẽ con phải ở đây”. Bà đập nhẹ vào vai tôi: “Đáng lẽ tôi phải có mặt ở đây. Thôi anh đi ngủ đi, trông anh mệt mỏi lắm rồi”.

Được gặp bà, có bà ở bên Catherine lúc này làm tôi sung sướng đến mức có thể vui lòng chấp nhận hậu quả của nó là sự hiện diện của bố vợ, không phải là bố đẻ Catherine nhưng là chồng thứ hai của mẹ cô. Bố vợ là người Anh tên Jeffries, Alec Jeffries. Một bợm nhậu, rất lịch sự, càng ngấm rượu càng lịch sự tợn. Có nhiều tiền, rất nhiều; một lúc nào đó đã định làm việc - đã từng nhận giữ một ghế ở Bộ Ngoại Giao vì có biệt tài đánh bài bridgeur và chơi golf. Phúc tổ cho Hoàng Gia, ông không hoạt động gì ở cương vị mình. Ngoài việc sang Ireland săn gà gô trên dinh cơ của ông bên đó, ông hoàn toàn chẳng làm một việc gì. Tôi ăn ý với ông chẳng hơn gì với bức tường. Ông bảo tôi:

— Đã có hai ông bà già này đến, mọi việc sẽ ổn hết con ạ. Từ nay bố mẹ sẽ trông nom cô con gái.

Tôi nghiến răng kèn kẹt. Nghe ông ta gọi bằng “con” sao mà sướng bụng! Lại còn “cô con gái” nữa, cũng khó nuốt trôi quá. May sao có Françoise Lavater ở đấy. Mắt chị long lanh niềm vui, nắm tay lôi tôi đi thì thầm:

— Đừng nói gì làm tổn thương tình cảm đẹp đẽ giữa hai người! Anh làm gì ông xã nhà tôi rồi?

Tôi để mẹ Catherine và đức lang quân yêu quý ở lại bệnh viện, dẫn Françoise về nhà. Cả bọn đã hoàn toàn hóa điên. Li và Liu đem chỗ pháo hoa không được phép bắn ở sân bay về đây đốt, làm cảnh sát bị bất ngờ. Họ kéo đến và lập tức dịu giọng, cũng tham gia bông phèng cả đám. Tôi chỉ biết mặt độ một phần ba các vị khách đêm nay. Mò mẫm mãi cuối cùng mới tìm ra Marc Lavater, mặt mày hớn hở, ướt lướt thướt: Anh vừa rơi xuống bể bơi.

— Chuồn khỏi đây thôi.

Tôi chấp nhận, tự mình thấy cũng nên về Hilton ngủ qua đêm.

— Tại sao có những người chụp anh lia lịa, như thể anh là ngôi sao điện ảnh thế? - Françoise hỏi. - Lại còn các thám tử đeo súng ở cửa buồng Catherine nữa chứ?

Thấy chúng tôi không ai trả lời, chị bồi thêm:

— Tôi không điên đâu, Franz. Ba tên thợ ảnh ở sân bay, hai ở bệnh viện, và toán thứ ba ở cổng nhà.

Chị nhìn chúng tôi:

— Có chuyện gì không ổn chắc?

— Gần như thế, - Marc đáp. Anh ta tụt quần vắt cho khô.

Đêm ấy tôi trằn trọc, ngủ có vài tiếng, đã thế còn cả Marc Lavater cũng không ngủ được hơn, lại còn dậy trước tôi và gọi điện đi nhiều nơi.

— Callaway. Người tôi đã gọi lúc ở New York, và bữa ở San Francisco đã...

— Biết rồi.

— Anh ta đã chất vấn bọn phó nhòm. Chúng chẳng gây khó dễ, xuất trình luôn thẻ nhà báo. Hợp lệ.

— Báo nào?

— Bình tĩnh đã. Chẳng phải báo nào hết. Một hãng thông tấn mới thành lập. Chủ tên là Yates.

— Nghe lạ hoắc.

Callaway cũng chưa nghe nói đến bao giờ. Anh ta lo chuyện này. Ăn một chút gì đi, chắc chắn tối qua anh nhịn đói.

Ngủ dậy, tất nhiên việc đầu tiên là gọi tới bệnh viện: Catherine vẫn ngủ, nhưng bà mẹ đã có mặt: “Đừng đâm bổ tới đây vô ích, - mẹ vợ bảo tôi, - cả hai mẹ con đang ngủ, đều khỏe mạnh cả. Lạy chúa tại sao lúc nào anh cũng sôi sục lên như núi lửa thế hả Franz. Anh không bao giờ bình tĩnh, thanh thản được à?”

— Franz!

Marc tìm cách làm tôi chú ý.

— Gì vậy?

— Theo anh, là có nên bỏ rơi vụ này không? Đó là một cách giải quyết.

Tôi không hiểu ý anh. Anh giải thích:

— Tay Horst - nhân tiện nói luôn: Ta sắp biết rõ thêm về hắn - Tay Horst đã đến tuyên chiến với anh. Rất có thể theo lệnh của Yahl.

— Còn ai khác nữa, chả lẽ của Mông Cổ?

— Biết đâu. Nhưng điều chủ yếu là thế này: Chúng muốn làm anh khánh kiệt. Chúng bảo: Sẽ lừa anh vào bẫy. Bẫy quái quỉ nào, chúng ta chưa rõ. Được. Tôi đã nghiền ngẫm. Anh đã có món tài sản kha khá, quá khá là khác, được bảo vệ chắc chắn không ai làm gì nổi. Tài giỏi lắm cũng phải bỏ ra ba chục năm mới làm anh sạt nghiệp được. Trừ phi trong quá khứ anh đã có sai phạm gì để người ta có thể lợi dụng làm hại anh mà tôi không biết, đại loại tội cưỡng hiếp cả loạt nữ sinh một trường trung học nào đó, hoặc băng qua đường ngoài hàng dinh, hoặc ám sát Tổng Thống đương nhiệm của một nước cộng hòa...

— Sáng nay anh có vẻ sung sức ra trò. Trông anh thật thích mắt.

Nói thế nhưng tôi đã hiểu ý anh ta. Hơi chậm, nhưng cũng đã hiểu.

— Nói cách khác, anh khuyên tôi rút lui.

— Cũng có thể coi là như thế.

Anh ta còn cố giải thích thêm: Cách tốt nhất để tránh rơi vào bẫy của địch thủ cài trên đường ta đi, là đừng đi tiếp nữa. Là dừng lại, là chờ đợi mãi mãi. Một câu tục ngữ Ả Rập nói đại ý: “Hãy ngồi xuống bờ sông mà đợi, sẽ thấy xác kẻ thù trôi qua”. Marc khuyên tôi gần như thế: Đừng hành động, đừng thử sức, không để bị rơi vào bẫy. Tôi đã tìm ra từ chính xác: Rút lui. Lúc chưa đầy hăm lăm tuổi đời.

Nhưng bản tính tôi không thích ngồi nhìn nước chảy dưới sông. Mà thích xuống để đãi vàng. Và cho rằng, có khi cạm bẫy lão dành cho tôi lại chính là điều đó: Dọa dẫm khiến tôi khiếp sợ và tự mình làm mình tê liệt.

Chưa hết.

— Hãy nghĩ cho kỹ. Đó là một giải pháp. Không đòi hỏi anh quyết định ngay bây giờ. Anh đang dự dịnh đi nghỉ cùng Catherine và thằng nhóc, riêng ba người với nhau. Vậy hãy đi nghỉ, và cân nhắc thêm rồi quyết định.

Chúng tôi đi nghỉ ở Arizona.

Trang trại cách Phoenix độ một giờ rưỡi chạy xe. Rất dễ tìm đến chân dãy Rocheuses, rẽ tay phải. Vùng có tên là Mesa Verde. Trại kiểu Tây Ban Nha - Mexico khép kín có sân trong trồng cây tuyệt đẹp.

Catherine đã thỏa thuận với tôi tậu dinh cơ này cách đây tám tháng. Cho đến lúc này, chúng tôi mới đến đây ở đúng một tuần. Sắm vai những người chăn bò. Chúng tôi cũng thỏa thuận khi có dịp sẽ trở lại. Đây chính là dịp tốt hiếm có. Tám ngày sau khi Marc Andrea Cimballi con trai chúng tôi chào đời. Cha đỡ đầu nó là Marc Lavater.

Li và Liu đã trở về San Francisco từ lâu, Rosen và Lupino về New York, Ute và gã Thổ về London. Françoise và Marc đi với chúng tôi. Họ ở Arizona khoảng mười ngày nhân thể đi tham quan bằng xe hơi và máy bay du lịch nhiều thắng cảnh trong vùng. Ngày 25 tháng năm họ trở về Pháp, để sang đầu tháng sáu Marc sẽ quay lại New York. Trong những ngày nghỉ hai chúng tôi không hề đả động đến công việc, đến Horst, do đó cũng không động đến Yahl.

Họ đi rồi, trong trang trại vợ chồng tôi và chú bé người ở, chỉ còn bà mẹ Catherine và chồng bà ta. Chú Marc Andrea Cimballi vẫn hấp dẫn và làm tôi kinh ngạc hết sức. Tôi chưa bao giờ có một gia đình, theo đúng ý nghĩa của từ này. Bố tôi mất lúc tôi mới lên tám, mẹ tôi không sống thêm được bao lâu sau đó. Không có anh chị em ruột, anh chị em họ, thân thích chẳng có ai. Chưa bao giờ biết như thế nào là trẻ con. Tuổi thiếu niên lê từ trường trung học Paris sang trường Thụy Sĩ qua ngôi trường Anh Public School[2] (tên như thế nhưng lại là trường tư), dưới sự bảo trợ khắc nghiệt của Martin Yahl và của ông bác còn đạo đức giả nặng hơn vì mắc bệnh đần. Và cuối cùng khám phá được rằng cả hai tên đã chiếm đoạt gia tài bố tôi để lại. Tuổi trưởng thành mở đầu bằng việc bị tống sang Kenya khuất mắt họ, rồi được nuôi dưỡng bằng mối thù tôi đã trả xong và món tài sản tôi đã tạo dựng. Vậy mà hôm nay tôi đang run rẩy trước cục thịt đỏ hỏn khóc oe oe này...

Chính trong tâm trạng này mà tôi bàn và thỏa thuận với Catherine kéo dài cuộc nghỉ chơi thêm hai tuần, kết thúc vào cuối tháng năm này. Tôi thuê chiếc du thuyền đi tham quan vịnh California, đáng lẽ nên gọi bằng cái tên hình như của Steinbeck[3] đặt hay hơn gấp trăm lần: Biển Cortès. Nó là một luồng biển dài mười hai ngàn kilomètres, rộng ít ra cũng đến một trăm kilomètres, có chỗ sâu những hai ngàn năm trăm mét nước, một bể cá khổng lồ phủ kín những đàn chim biển, chim mòng, chim nhạn, những đàn cá đuối nhảy múa rất ngoạn mục trên mặt trước, cùng vô số sư tử biển, cá voi xanh bơi với tốc độ năm mươi kilomètres giờ, tất cả đều ẩn náu trong ngôi đền bất khả xâm phạm này. Không có cảnh lớn, không một thành phố nào đáng gọi là thành phố suốt dọc hai bên bờ của Mexico: Nơi tận cùng của thế giới, chốn thiên đường.

Dù sao, cái gì cũng đến lúc phải kết thúc.

Tôi bàn với Catherine đến ở New York với tôi. Cô dứt khoát từ chối. Thế là cãi nhau kịch liệt, cô trách tôi ích kỉ, lôi hai mẹ con đến một trang trại tận xó xỉnh Arizona rồi lôi tiếp lên con tàu này. Và nhất là cô đã thấy ớn, ớn chuyển dịch, thay đổi không dừng, ớn vì tôi lang bạt khắp trái đất đuổi theo một thành đạt vô nghĩa theo quan niệm của cô. Cô thèm có một mái nhà của mình, yên tĩnh, ổn định, bình dị, ở bên Pháp, gần bố mẹ. Nơi mỗi buổi chiều, lúc bảy giờ ba mươi phút tôi trở về ăn tối, chứ gì? Thì đã sao?

Không phải lần đầu tiên cãi lộn như thế, nhưng chưa lần nào nặng lời như vậy, vả lại những lần trước tôi không quan tâm lắm. Bây giờ tôi đang giậm chân sốt ruột. Ngày 7 tháng năm đã xảy ra quá nhiều sự kiện dồn dập. Sau đó có được mấy ngày yên tĩnh tôi dành hết cho con. Bây giờ tôi sôi sục ý muốn hành động. “Đã thế, em về Pháp” về Paris và suốt mùa hè về ở Fournac vùng Thượng Loire. “Thế còn anh, anh sẽ ra sao? Đừng quên anh là chồng em”. Cô không quên. “Lúc nào có thì giờ rảnh rỗi công việc anh về mà thăm vợ thăm con!“ “Thế thì suốt đời đi trên đường không lúc nào dừng chân?” Catherine: “Tại anh thích đi, ai bắt!”

Tôi vừa nói vừa giậm chân sốt ruột như con tuấn mã gõ móng đòi phi. Marc Lavater khuyên tôi nghỉ ngơi, suy nghĩ nên làm gì đáp lại thách thức của Horst. Nhưng chẳng cần suy nghĩ gì hết. Ngay từ câu đầu từ mồm sứ giả của Martin Yahl buông ra, tôi đã quyết định rồi.

Đã đến lúc ra tay. Ngày 11 tháng sau, cùng lúc Catherine bế con theo bố mẹ bay đi Châu Âu, tôi cũng rời Arizona để về New York.

Chú thích:

[2] Tiếng Anh, có nghĩa là trường công.

[3] John Steinbeck: Nhà văn Mỹ nổi tiếng.