← Quay lại trang sách

PHẦN II - Chương 1 CẠM BẪY

New York. Chúng tôi đi vòng quanh hàng hiên đầy hoa tươi của trung tâm Rockefeller rồi vào mảnh vườn bé tẹo “Biển Manche”. Marc Lavater hỏi:

— Bọn phó nhòm thế nào?

— Lúc tôi lên máy bay ở Phoenix đã thấy chúng đợi sẵn, lúc đến đây lại thấy một tốp khác đang chờ. Chúng săn đuổi tôi thật rồi. Kể cũng lạ, sao lúc này không thấy chúng quanh đây?

Mấy bụi cây lèo tèo này được đặt tên vườn “Biển Manche” và nằm giữa ngôi nhà Pháp Quốc và cao ốc Vương Quốc Anh.

Marc nói:

— Tôi đã kiểm tra kĩ, chúng hành động đúng luật. Không thể cấm chúng chụp ảnh ở những nơi công cộng. Tuy vẫn có thể thử kiện và yêu cầu truy tố, nhưng khả năng được kiện rất mỏng manh. Mất hàng tháng trời là ít, theo lời các chuyên viên cho tôi biết. Hơn nữa chính anh đã cho tung ra hàng đống ảnh của mình. Thành ra rất khó làm tòa tin rằng quả thật anh ghê tởm việc quảng cáo cho mình.

Liều thuốc thật là đắng!

— Nghĩa là tôi bị trừng phạt vì tội lỗi của mình chứ gì?

— Thế đấy.

— Ai thuê chúng nó?

— Bữa trước tôi đã nói: Một gã tên Yates. Đã nắm được thêm về hắn. Mới thành lập hãng cách đây năm tháng. Franz Herbert Yates. Trước làm phóng viên báo chí ở Nam Mỹ, Brazil là chính. Đã từng bị rắc rối về chuyện buôn bán ngoại tệ nhưng không có chứng cứ đích xác.

— Hắn lấy đâu ra tiền?

— Tôi sắp nói đến. Cách đây sáu tháng Yates còn làm phóng viên cho một hãng thông tin. Đang làm thì gặp may: Một kĩ nghệ gia Argentina chết hồi mùa thu năm ngoái để lại cho hắn gần ba trăm ngàn đôla, đã trừ một khoản lệ phí. Chúng tôi lần theo manh mối thì thấy hợp lệ. Tay kĩ nghệ gia ấy là bạn thân của Yates, trong di chúc nói rõ khoản tiền ấy để trả ơn sự giúp đỡ của bạn. Chẳng rõ ràng gì hết, nhưng không vi phạm pháp luật. Tiền do các ngân hàng chuyển giao, thuế nộp đủ, hãng của Yates thành lập hợp lệ về mọi mặt. Không đánh họ được. Một luật sư của tôi đành đến gặp Yates hỏi thẳng thừng tại sao hắn quan tâm tới anh đến mức ấy. Trả lời: Yates cho rằng anh là một Howard Hughes[4] mới nổi lên, nếu một ngày kia anh cũng bắt chước Hughes thứ thiệt, tự giam mình trong buồng kín không xuất hiện trước công chúng nữa thì bộ ảnh chụp anh mà hắn đang sưu tầm sẽ thành một đống của. Hắn bảo đấy cũng là một cách đầu tư. Hắn còn láu lỉnh bảo luật sư của tôi rằng chẳng có điều luật nào bắt tội hãng thông tấn của hắn kiếm lời.

Là một “Howard Hughes mới”! Chà, mũi tôi phồng lên. Tôi bảo:

— Anh biết không, tôi bắt đầu thấy khoái vụ này đấy.

Cũng là một cách xem xét sự việc. Dù thế nào đi nữa, có đến mười hai tên phó nhòm dưới trướng Yates. Không chỉ chụp có một mình Franz Cinballi, nhưng chúng, dành cho nhân vật thú vị này chín chục phần trăm thời gian. Quả thật có triển vọng phải chịu đựng bọn phó nhòm này nhiều tuần, nhiều tháng và có khi còn lâu hơn, triển vọng này khiến tôi bực bội. Tôi đã thấy trước những cơn thịnh nộ của mình. Nhưng triển vọng này cũng có khía cạnh khiến tôi vui vui. Nó là một thách đố.

Marc tiếp:

— Tất nhiên có hay không có bọn phó nhòm thì anh cũng vẫn bị Martin Yahl giám sát chặt. Từ nhiều tháng nay. Ngay lúc tôi đang nói đây chắc chắn cũng có những đứa đang rình.

Đi hết vườn “Biển Manche” chúng tôi đặt chân vào đại lộ số năm. Dừng lại trước tủ kính hiệu sách Pháp. Tôi quyết định:

— Đúng như anh nói. Vậy thì ta cùng làm nhân chứng.

— Giám sát Yahl suốt ngày đêm?

— Tao giám sát mày, mày giám sát tao?

— Trò ngu xuẩn!

— Tôi muốn có trong tay équipe tốt nhất. Trừ phi nó đã làm tay sai cho Yahl.

Marc ngẫm nghĩ. Rồi bảo:

— Callaway rất cừ. Nhưng chỉ cừ ở Hoa Kỳ, không phải thứ đồ xuất khẩu. Anh còn nhớ vụ Paul Getty[5] không? Cháu nội ông ta bị bắt cóc bên Ý, bị chúng xẻo tai gửi qua bưu điện cho ông ta để đòi tiền chuộc. Tôi sẽ thuê cho anh toán điều tra viên đã giải quyết vụ đó. Không có loại tốt hơn được.

— Đồng ý.

— Sẽ tốn ghê gớm đấy. Nhưng bọn này rất giỏi.

Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh: Martin Yahl ẩn mình trong dinh cư đồ sộ bên hồ Geneva, trong ngôi nhà lẻ loi nằm giữa khoảnh vườn tuyệt đẹp có tường cao vây quanh. Ngôi nhà tối tăm, hiu quanh. Hình tượng sáo mòn: Con nhện ẩn giữa mạng lưới của nó. Và tôi Cimballi là chú ruồi mắc lưới.

— Marc, tôi muốn biết mỗi ngày, từng giờ của mỗi ngày, lão làm những gì, đi đâu, điện cho ai, viết cho ai, gặp ai, tiếp ai, để làm gì.

Và không kìm giữ được mình khỏi hàm hồ:

— Tôi phải biết cả kết quả xét nghiệm nước đái của lão.

Marc không cười. Anh nhìn thẳng mắt tôi:

— Nghĩa là chiến tranh?

— Đúng thế.

Marc tiếp: “Có điều chắc anh chưa nghĩ tới. Yahl có thể đã hoặc đến lúc nào đó sẽ nghĩ đến chuyện hạ đối thủ. Bọn giết mướn vẫn tồn tại”.

Không. Tôi không hề nghĩ đến khả năng đổ máu, thậm chí còn rút hết những người canh gác cho Catherine và Marc Andrea. Tôi tin chắc Martin Yahl không tự tay mà cũng không thuê kẻ khác giết người. Tôi biết rõ lão ta. Quá lắm, lão chỉ khôn khéo đẩy tôi đi đến chỗ tự sát là cùng. Không làm quá mức đó. Vì tính thận trọng của kẻ kinh doanh ngân hàng, vì thói kiêu ngạo khiến lão không muốn triệt hạ tôi bằng thủ đoạn nào khác hơn là dùng những luật chơi của giới tài chính cỡ bự, và nhất là vì một lí do có thể làm mọi người sửng sốt: Đức tin của lão. Đúng thế đấy! Đấng Tối Cao ngân hàng, tuy đã từng đứng ra làm ăn với bọn Quốc Xã trong thế chiến vừa qua, tuy đã từng lạnh lùng chiếm đoạt của bố con tôi không dưới một trăm triệu đôla, nhưng ngài vẫn là một tín đồ Thanh Giáo ngoan đạo, rất nghiêm chỉnh, ngài tin có Chúa, tin có sự trừng phạt vĩnh viễn.

Tôi bảo Marc: “Anh cười thì cứ cười, nhưng sự thực là thế”.

Không thể có mối đe dọa ấy. Cạm bẫy nếu có thật, sẽ nằm trong chuyện làm ăn kinh doanh mà thôi, trong mỗi vụ tôi đang thực hiện hoặc sắp thực hiện.

Diễn biến về sau chứng tỏ, ít ra tôi cũng đã đúng trong phỏng đoán này.

Trên đường bay từ Amsterdam đi Los Angeles qua Paris, London và New York. MacQueen vẫn thực hiện cuộc phỏng vấn nhát gừng. Trước khi thả mình vào cơn say sưa tuyển tập bài hát dân tộc Gaen vùng Tây Bắc Anh. MacQueen hỏi tôi: “Anh là nhà tài chính loại nào? Kiếm tiền bằng cách nào? Làm gì để ra tiền?“ Tôi trả lời: “Đánh quả”.

Chắc anh ta không hiểu (cứ sau sáu chai Dom Pérignon thì ngay điều đơn giản nhất cũng làm anh ta ngớ ra). Khốn nỗi vừa buông mồm anh ta đã gào những bài ca Ireland quái quỉ bằng thổ âm, thành ra tôi không giải thích được cho anh ta hiểu.

“Đánh quả”, tức là nắm bắt - hoặc thử nắm bắt - điều đang xảy ra ở một vùng nào đó trên thế giới, tức là nắm bắt một thị hiếu, tiên cảm một điều sẽ tới, tìm được một ý mới. Sau đó triển khai ngay lập tức, thật nhanh, đi đến tận nơi, hỏi han, nếu cần thì tuyển chuyên viên giúp việc, thực hiện kế hoạch đến nơi đến chốn. Sau nữa, nếu cần, phải đoán trước lúc nào nên rút lui và ý của ta không còn mới nữa, đã có người bắt chước ta, hoặc vì hoàn cảnh thay đổi, thị hiếu đã khác đi.

Đó chính là những điều tôi đã làm được trong bốn năm qua (điều khiến tôi vẫn còn chưa hết ngạc nhiên). Tôi không phải là, và sẽ không bao giờ trở thành nhà kinh doanh thông thường theo như thiên hạ vẫn quan niệm. Có nhà mặt tiền. Nữ thư kí riêng có bằng cấp, văn phòng cố định... đều không có.

Trong tháng sáu năm đó, chừng bốn mươi ngày sau khi Horst ra mặt, tôi đã làm đi làm lại đến năm chục lần bản tổng kết các vụ kinh doanh trong quá khứ, đang tiến hành và đang dự định. Bây giờ tôi vẫn nhớ vào thời gian ấy tôi đã bỏ vốn vào nhiều nơi nhất là trong lĩnh vực nhà đất, ngoài ra còn tham dự một vụ tích trữ số lớn bạc kim loại; bên cạnh đó còn sắp bỏ vốn lớn vào việc tích trữ cà phê; cuối cùng còn một dự định khác rất thú vị chưa tiết lộ với ai. Kể cả Marc Lavater. Chừng đó cũng đủ biện minh việc tôi phải trở lại với kinh doanh, sau đợt nghỉ vừa rồi. Nhưng số phận đã quyết định tôi phải lao vào một vụ làm ăn hoàn toàn mới, vô cùng lớn.

Đây là một vụ đánh quả như tôi đã nói với MacQueen. Tên là Vườn Săn.

Bắt đầu từ anh chàng Flint.

Chú thích:

[4] Howard Hughes: Tỷ phú Mỹ

[5] Paul Getty: Tỷ phú Mỹ.