Chương 3
Khoảng mùng 8 hoặc 10 tháng bảy tôi từ khách sạn Pierre đi ra taxi thì lại chạm trán nhiều tay thợ ảnh nữa đến ám, mặt lạnh như tiền. Tôi không tiết lộ cho ai biết mình đi đâu, làm gì. Có thể sự đề phòng ấy chẳng có ý nghĩa bao nhiêu, nhưng kệ nó! Có những ngày cuộc săn đuổi của họ thật nặng nề đối với tôi. Ngay Lavater cũng không được biết, anh vẫn đợi tôi sau bốn giờ nữa sẽ tới cùng ăn trưa ở New York. Taxi đỗ trước tiệm Tiffany ở đại lộ số năm. Tôi vào tiệm, ra cửa thông sang phố 57. Lại lên taxi, đổi sang chiếc thứ ba ở đường Madison. Trò có vẻ trẻ con, không lấy gì làm tinh vi lắm, nhưng tôi có phải là James Bond[9] đâu. Tôi vào trụ sở Pan Am qua cổng hậu. Một tiếng rưỡi sau đã ngồi trên máy bay đi Dallas, lên máy bay rồi mới mua vé, bằng tiền mặt, không đăng kí tên trước.
Ở Dallas, một người tìm thấy tôi giữa đám đông hành khách, ra dấu cho tôi.
— Tưởng anh tới bằng máy bay riêng?
— Có, nhưng cho bà gác cổng mượn đi dự tiệc rượu rồi.
Anh ta là Paul Hazzard, cao trên hai mét, hơn tôi đến ba chục phân tây. Quen anh ta cách đây hai năm ở Nassau. Sau đó có gặp lại một hai lần, mời tôi đến thăm tại thành phố quê anh San Antonio. Tôi nhận lời vì có thiện cảm với anh và vì anh có ưu thế quyết định: Một là anh có thể giới thiệu tôi với những người tôi cần gặp, hai là sự liên hệ giữa anh với tôi hoàn toàn kín đáo. Đây là chủ bài rất quan trọng: Trong trường hợp Horst hay Martin Yahl giương bẫy, chúng không thể sử dụng Paul Hazzard làm tay sai vì không biết tôi quen anh ta. Nếu ngược lại, điều đó có nghĩa là cả thế giới đều chống lại tôi.
Tôi gọi về khách sạn nơi Marc Lavater định ăn trưa với tôi ở New York. “Vâng, ông Lavater vẫn còn đây”. Tôi có cần nói chuyện với ông ấy không à? Không, chỉ nhờ nhắn giùm: Tôi không tới được, tối nay tôi sẽ gọi lại... trong tình hình này tôi sự anh ta lo.
Tôi gặp lại Hazzard. Triệu đôla đầu tiên anh ta kiếm được do chơi bóng đá. Anh được tặng một thứ quái quỉ bằng nhựa to tướng, xấu xí, được gọi là quà lưu niệm Heisman và được giải cầu thủ giỏi nhất Hoa Kỳ. Nghề đá bóng chấm dứt với chiếc xương hông gãy, bây giờ đi lại vẫn tập tễnh. Anh nhảy vào lĩnh vực thăm dò dầu mỏ.
— Anh không muốn tới San Antonio.
— Rất tiếc. Để khi khác.
Nghề thăm dò dầu mỏ làm anh ta có năm hoàn toàn cháy túi, có năm trở thành triệu phú, bằng đôla hẳn hoi. Mà cửa nào anh cũng vào lọt lại là nhờ tài đá bóng.
Hai chúng tôi ngồi xe chạy trong thành phố Dallas. Qua quảng trường chỗ Kennedy bị ám sát, tôi bất giác nhìn lên khuôn cửa sổ trên lầu sáu thư viện chỗ Lee Oswald[10] nấp bắn. Rồi Paul chạy theo hướng Tây Bắc về Stemmons Freeway. Anh ta kể về những nhân vật tôi đến gặp. Bảo tôi gặp may hết sức, gặp ba người giàu nhất bang Texas thì một người lại là bạn thân anh ta, Paul Hazzard.
— Anh ấy trước kia và hiện nay vẫn là ông bầu đội bóng của tôi khi tôi bị thương phải nghỉ chơi, anh ấy giúp tôi rất nhiều. Một bạn chí cốt, trừ một điều: Lúc tôi phất nhất anh ta vẫn cứ hơn tôi gấp năm sáu lần.
— Sao bảo là gặp may?
Chính anh đã cho biết hai người rất thân nhau, từ buổi tối chúng tôi gặp nhau lần đầu ở Nassau. Tôi còn nhớ.
— Trí nhớ cừ thật, Franz. Anh biết ở Dallas này có bao nhiêu triệu phú đôla không?
— Hàng đống.
— Mười hai ngàn. Trong tổng số tám trăm ngàn dân.
Anh ta giảm tốc độ, gần đến rồi.
— Tôi đã cho họ biết về anh. Tên thì họ không biết nhưng vẫn nhớ vụ “Rao Mua Toàn Bộ” anh tung ra hồi đó. Biết cả mối liên hệ của anh với Hassan Fezzali và các hoàng tử Ả Rập. Chính họ cũng làm ăn với các vị này, theo tôi biết. Họ biết anh đến yêu cầu họ bỏ vốn, vốn rất lớn. Nếu anh bán sáng kiến cho họ mội cách sòng phẳng thì không có trở ngại gì đâu, họ sẽ chấp thuận. Nhưng phải coi chừng...
Anh giao xe cho người gác cổng đeo súng. Chúng tôi vào nhà, họ kiểm tra nhận diện, mở cửa thang máy lót nhung đỏ, trang trí những hình chạm trổ thiếp vàng, treo đèn chùm pha lê. Paul Hazzard thì thầm: “Phải coi chừng. Họ có thể tỏ ra rất thô bạo”.
Cửa thang máy lướt êm. Theo lệ làm việc đúng giờ đến kinh ngạc của các nhà kinh doanh Hoa Kỳ, chưa đến nửa giây đồng hồ sau họ đã đưa tôi vào văn phòng có những người ở đây, tôi gọi là dân Texas, và tôi bắt đầu tìm cách bán cho họ đề án Săn Thú.
***— Anh bán được rồi?
— Tin là thế.
Hình như Lavater phật ý thấy tôi làm vụ này giấu anh. Quả tình tôi cũng hơi ân hận vì đã để anh ta ngoài rìa.
— Thì tôi đang cho anh biết đấy thôi. Nói sớm chẳng ích gì, lúc đó tôi đang hy vọng móc được mấy tay Dallas này đã.
Tôi giải thích kế hoạch góp vốn của tôi để thực hiện dự án Săn Thú: trước hết rủ Li và Liu, sau đó đến mấy gã Texas.
— Và anh nữa.
— Cả tôi. Dù sao tôi cũng phải nhúng tay một tí vào đấy.
— Bao nhiêu.
— Cứ cho là năm triệu đi.
— Càng ngày anh càng lộ mặt. Tung vốn vào thị trường bạc, ngoài ra như anh đã vui lòng tiết lộ với tôi, còn định lao vào món cà phê. Tốn nhiều lắm.
Anh ta bắt gặp cái nhìn của tôi, nhún vai.
— Sao lại thế, Franz. Anh không tin là Yahl và Horst luôn để mắt vào anh à?
— Có chữ, tin quá đi ấy chư? Nhưng chẳng lẽ vì thế mà tôi sợ đôla như con thỏ trước miệng rắn à?
— Tôi đã nói với anh. Cạm bẫy của chúng là chỗ ấy đấy: Làm anh đờ ra.
Và tôi không cho phép chúng làm như vậy. Tôi biết rõ mình đang ở trên một bãi mìn, mỗi cử động (mỗi vụ kinh doanh đang tiến hành hoặc sắp thực hiện) đều có thể gây nổ. Được thôi, nhưng tôi không lùi bước. Hơn nữa, tôi sẽ phi nước đại trên bãi mìn này làm cho chúng phát điên phát rồ. Nhanh đến mức dù mìn đặt ở đâu cũng chỉ làm tôi bị thương là cùng chứ không hạ nổi tôi. Tôi sẽ đầu tư ở nhiều nơi, vào nhiều ngành, nhân rộng ra, làm như người xưa vẫn nói: ”Không bỏ tất cả trứng vào một giỏ". Để kết quả cuối cùng là có nhiều giỏ đến nỗi chẳng còn ai nhận biết được nữa. Trừ tôi, mong là như thế.
— Rồi anh sẽ thấy nhịp điệu làm ăn của tôi, Marc ạ!
— Đấy mới là trên lý thuyết.
— Không làm được thế, chỉ còn nước rút lui, ta nói chuyện khác đi.
Chuyện kiếm vốn cho Săn Thú chẳng hạn, là chuyện tôi vẫn chưa bàn hết. Li và Liu cộng với bọn Texas gom đã khá nhưng chưa đủ. Năm triệu bé bỏng của tôi chưa đủ khóa sổ kinh phí, vẫn thiếu tiền.
— Anh sẽ kiếm đâu ra?
— Kêu gọi các công ty kếch sù: General Motors, Exxon, Kraft Incorporated, American Téléphoné & Telegraph, và nhiều công ty lớn khác. Tất nhiên sẽ kêu gọi các nước Châu Phi, đề nghị họ vừa tài trợ cho việc dàn dựng Châu Phi huyền thoại vừa triển lãm luôn Châu Phi ngày nay của họ. Cả một loạt giám đốc khách sạn, hàng ăn nữa. Hàng lô những hãng buôn có quyền lợi về thương mại vừa ở Châu Phi vừa ở Hoa Kỳ. Rồi các hãng quốc doanh của Mỹ. các hãng mỹ phẩm của Pháp...
Kể cho hết thì quá dài.
— Anh bảo thế là điên sao?
— Vừa điên vừa tỉnh. Anh sẽ đứng làm chủ tất cả?
Cười hết cỡ: “Thì tôi đã làm chủ rồi đấy thôi”.
***Khoảng 15 tháng bảy, những người Marc Lavater giới thiệu là “những thám tử đã giúp việc Paul Getty” báo cáo đâu tiên về tình Martin Yahl. Tin tức của họ làm tôi bối rối: Yahl vẫn ở lì trong dinh cơ ở Geneva. Trong hai tuần vừa qua không tiếp ai trừ một bác sĩ tim mạch nổi tiếng từ Paris sang thăm bệnh, hai lần. Tất nhiên họ đã tìm hiểu nguyên nhân, họ không nói đã dùng những biện pháp nào mà tôi cũng chẳng cần biết làm gì, họ đã xem được bệnh án của Martin Yahl: Lão đang bị rối loạn tim nặng có thể tính mạng bị đe dọa. Đã bị một cơn nhồi máu cơ tim nên rất ít đi. Thậm chí đã phải hủy bỏ cuộc đi nghỉ hàng năm ở ngôi nhà nghỉ lộng lẫy Braunwald vùng núi Alpes, nơi hàng năm con người rất điều độ này bao giờ cũng tới nghỉ chơi từ ba bốn chục năm nay. Khách đến thăm lão đều là những người cùng lứa, một số đã nghỉ hưu. Họ đã thẩm tra từng người, nhưng không thấy có gì đáng chú ý. Không một ai cỏ vẻ liên hệ với Horst. Tay này không thấy có mặt ở Genava.
Tóm lại, tình hình có vẻ như là lão Martin Yahl đã già yếu, bệnh tật, không hồi lại được sau đòn đánh của tôi, càng ngày càng ngập sâu vào trạng thái bạc nhược báo hiệu cái chết. Chính đó là điều làm tôi bối rối cao độ. Nó không ăn nhập với hình ảnh một địch thủ say mê trả thù, lồng lộn tứ phía tìm cách diệt tôi, giật dây một âm mưu rộng lớn chống lại tôi. Quái quỷ thật, không tài nào hiểu được! Horst là ai? Tên nào đứng đằng sau hắn, khi không phải lão Martin Yahl?
Báo Fortune đăng bài phóng sự viết về tôi của phóng viên MacQueen thực hiện. Cũng như Yates, tác giả gọi tôi là Howard Hughes trẻ. Tuy có làm tôi hơi phồng mũi, sự so sánh này hơi quá mức. Và gì nữa? Nó đã làm gã Thổ rú lên cười (đã thế gã còn gọi điện từ London chỉ cốt để tôi cùng chia cười với gã), cả Li và Liu cũng khoái như điên. Hai tên đốn mạt còn gửi qua bưu điện - bọn rác rưởi bắt tôi trả cước phí - một bọc dài hai mét, rộng hai mét. Ở trong có một bọc nhỏ hơn dựng một bọc thứ ba trong có một bọc thứ tư, cứ thế cho đến bọc thứ hai mươi ba mới đến một đôi hài sảo cũ đã thủng, của đáng vứt đi từ lâu, loại giống như của Howard Hughes thứ thiệt vẫn đi khi đã về già, bị quấy rầy nhiều đến nỗi phải tự giam mình trên tầng thượng một ngôi tháp.
Tay phóng viên giàu tưởng tượng: So sánh tôi với Howard Hughes vẫn không làm bố vợ tôi bật cười. Ông ta chỉ cười khẩy thôi. Một cách lịch sự, nhưng vẫn là cười khẩy. Ông không nói ra, nhưng chắc chắn ông nghĩ bụng: Loại báo như báo Times của London thì không đời nào đăng những điều ngu ngốc ấy. Tôi làm một cuộc khứ hồi sang Pháp nhưng không thành công lắm. Lâu nay Catherine tỏ ra rất vui khi được sum họp với gia đình cô ta, một gia đình mà tôi cảm thấy như mình không còn là thành viên nữa, thế mà khi gặp tôi cô lại gần như hoàn toàn im lặng. Tôi thấy mình bất lực, lòng đầy phiền muộn. Sau bốn ngày tôi không nhịn được nữa.
— Cô ấy làm sao vậy?
— Tôi đã bảo anh phải kiên nhẫn. - Mẹ Catherine đáp.
— Sao cô ấy thay đổi đến thế được?
Tính tôi không thích gào lên, tuy trong bụng rất muốn.
— Có lẽ phải cho đi khám bệnh?
Cả nhà nhìn tôi, như thể tôi vừa cho ra một câu quá đáng.
Đáng lẽ ở lại đây tròn một tuần nhưng tôi rút ngắn bớt để đi Paris, tâm trí hoàn toàn buồn nản. Đến Paris tôi đi lang thang khắp chốn, mặc cho cặp Lavater liên tục gọi đến khách sạn nhắn tôi liên lạc với họ. Cuối cùng tôi cũng phải gọi.
— Franz này, mình đã nói chuyện qua điện thoại với mẹ vợ anh, là Françoise và mình muốn cậu về Chagny chơi vài ngày với bọn mình.
— Nhưng chính anh bảo tôi phải có mặt ở New York chậm nhất là thứ tư mà.
— Thì anh cũng còn được bốn ngày.
Tôi đã từng về ngôi nhà Chagny. Nó vẫn như cũ, như đứng bên lề thời gian, rất bình yên. Vẫn những đồ đạc màu tối, tĩnh mịch, chị giúp việc người xứ bourguigne có giọng nói lủng củng khiến lâu nay tôi cứ ngỡ chị là người Nga gốc Ba Lan. Và tình bạn êm dịu, kín đáo của vợ chồng Lavater. Không bao giờ lục vấn tôi, sống với họ như một người trong gia đình làm tôi dịu lại, tuy cảnh tượng đôi vợ chồng hòa thuận đến thế sau một phần tư thế kỷ lấy nhau thực ra cũng không phải một cảnh làm tôi phấn chấn lắm.
Đích thân Marc lái xe đưa tôi ra sân bay Roissy. Hai thợ ảnh đã chực sẵn, điềm nhiên bấm máy lia lịa. Rõ làng bọn Yates lúc nào cùng biết tôi đang ở đâu. Cuộc săn đuổi vô lý này kéo dài đã ba tháng rồi. Tuy chúng không thường xuyên theo sát gót nhưng xuất hiện rất đều đặn dường như cố ý chứng tỏ chúng thừa sức tóm được tôi bất kỳ lúc nào, bất kể tôi đi đâu, làm gì. Mặc dầu tôi giả bộ không trông thấy chúng nhưng sự hiện diện thường trực này đã thành một ám ảnh.
— Marc, trong bọn phó nhòm có một con bé nó chụp ảnh tôi hai lần, ở Amsterdam và San Francisco. Tuy không chắc lắm nhưng mình vẫn tin là con bé ở trong bọn. Bữa ở Amsterdam nó đi có một mình.
Tôi tả hình dáng cô gái tóc đen. Lavater gật đầu, bảo sẽ dặn Callaway điều tra.
Tôi lên máy bay. Philip Vandenberg đợi tôi ở phi trường Kennedy.
Chú thích:
[9] James Bond là một nhân vật điệp viên hư cấu người Anh được tạo ra bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953.
[10] Lee Oswald: Hung thù đã bắn chết Tổng Thống Mỹ John Kennedy, tháng 11 năm 1963.