← Quay lại trang sách

Chương 4

Đây cũng là một người không hề nhếch mép khi đọc bài đăng trên báo Fortune (tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu có điều gì hoặc người nào cù được cho Vandenberg cười). Tôi hỏi: “Có vợ chưa?” Anh ta nhìn tôi từ đầu xuống chân bằng cặp mắt lạnh băng: “Điều ấy liên quan gì đến anh?”

Thế đấy, tình bạn giữa hai chúng tôi mới thắm thiết làm sao! Tôi mĩm cười: “Dù thế nào đi nữa, tôi cũng không định lấy anh đâu mà...”

Kể cũng lạ. Trong số những người thân cận, tôi khó lòng tin rằng Vandenberg cũng như Lavater, lại có thể về hùa với Yahl để diệt tôi. Như trong tiểu thuyết trinh thám anh ta có đầy đủ dáng vẻ của tên phản bội nên chắc chắn không phải là anh. Anh bảo: “Nếu được biết địa chỉ tôi đã gọi điện cho anh rồi. Có nhiều điều quan trọng cần quyết định”.

Philip Vandenberg là người được tôi giao điều hành vụ kinh doanh bạc, bạc kim loại chứ không phải bạc giấy. Cũng như vàng, đồng và các kim loại khác, việc mua bán bạc thường thực hiện theo hai cách: Trả tiền ngay hoặc sau một thời hạn, theo thời giá chính thức. Giá cả biến động theo luật cung cầu, cung và cầu lại biến động do nhiều nguyên nhân đơn thuần kinh tế, chính trị, các hoạt động tiền tệ.

Tôi nhảy vào kinh doanh bạc là do Hassan Fezzali, một lão Libanais ở Beyrouth bây giờ có khi đã mang hộ chiếu Ai Cập, Ả Rập Saudi hoặc một nước nào họa may có thánh Allah mới biết. Lão là bạn của bố tôi, ấy là theo lời lão nói với tôi. Lão đã đóng vai trò quyết định giúp tôi thực hiện các kế hoạch nhằm trả thù lão Yahl, góp cho tôi hàng trăm triệu đôla rất đúng lúc bằng túi tiền của các hoàng tử Ả Rập mà lão là một trong những người quản lý sáng suốt. Lão chỉ có một điểm yếu, nhỏ thôi: Rất mê ăn kem. Ngoài tật ấy ra, lão lặng lẽ và kín đáo như đám mây. Paul Hazzard nhắc đến tên lão với dụng ý để tôi biết rằng, các tay Texas tôi liếp xúc ở Dallas đều quen biết Fezzali và biết tôi làm ăn với lão. Suy nghĩ về điều đó, trực giác mách tôi rằng trong vụ kinh doanh bạc này Fezzali đã móc ngoặc với một số nhà tài chính ở Dallas. Ngay từ hồi tháng giêng vừa qua thấy tôi gợi chuyện đầu cơ bạc, lão chỉ nói: “Thú vị đấy, Franz”, thế thôi, không nói hơn. Nhưng với Fezzali, phải suy đoán ngay cả sự im lặng của lão nữa.

Các nước Phương Tây mỗi năm sản xuất bảy ngàn tám trăm tấn bạc, về nguyên tắc, sản lượng đó quy định giới hạn thị trường bạc. Chắc bạn đọc cho rằng: Về lý thuyết ta không thể mua hoặc bán nhiều bạc hơn số lượng có trên thực tế. Tuyệt nhiên không phải thế. Sự thật diễn ra khác hẳn, khác đến kỳ quái. Thị trường đầu cơ vàng, ngoại tệ, bạc chính thức chỉ mới xuất hiện gần đây, vào khoảng 1974. Ngay sau đó nó bắt đầu nhộn nhịp rất nhanh, vì trên thực tế chỉ có một số rất ít hợp đồng có thời hạn đòi hỏi phải có hàng bằng hiện vật. Nói cách khác, điều này có nghĩa là trong hầu hết mọi trường hợp, người ta mua hoặc bán một khoản bạc hay vàng không có trong thực tế.

Những điều này do Philip Vandenberg xác nhận với tôi bằng cái giọng lạnh lùng của anh ta. Anh ta rất thông thạo chuyện này, chính vì thế tôi mới sử dụng anh ta.

— Không quá một phần trăm các bản hợp đồng buộc phải có bạc hiện vật để trao đổi. Mà đây không phải là hiện tượng riêng biệt của việc buôn bán kim loại. Năm nay trên thị trường mua chịu bán chịu có thời hạn của Chicago, Minneapolis và Kansas City, người ta trao đổi với nhau số lượng lúa mì gấp bảy, tám lần sản lượng của Hoa Kỳ; ngô cũng vậy: Khối lượng trao đổi trên giấy tờ gấp hai lần sản lượng toàn thế giới. Trên thị trường vàng ở New York và Chicago, trong mười hai tháng gần đây người ta ghi nhận có tám triệu hợp đồng mua bán, mỗi hợp đồng một trăm once. Tổng cộng bảy trăm hai mươi triệu once, gấp mười tám lần sản lượng toàn thế giới trong cùng thời gian.

— Bạc thì thế nào?

— Cũng vậy. Chừng năm triệu hợp đồng. Gấp sáu bảy mươi lần sản lượng thế giới.

— Ban nãy anh bảo có nhiều vấn đề cần quyết định, có nhiều diễn biến đang xảy ra.

— Có một nhóm đang dồn dập mua vào của Comex và của Chicago Mercantile Exchange.

— Dồn dập là bao nhiêu, một trăm, hai trăm, năm trăm hợp đồng?

— Hàng ngàn.

— Bọn nào?

— Bọn Texas, bọn Ả Rập, và một tên Brazil.

Tôi suy ra, có thể đúng cũng có thể sai. Đó là Fezzali và cánh Dallas không nhất thiết dùng bọn tôi để tiếp xúc (sau này mới biết: Không phải bọn đó, không thật đúng là bọn đó). Nếu thông tin của Vandenberg chính xác, chưa bao giờ anh ta nhầm lẫn trong chuyện này, thì có nghĩa là đang có một hoạt động rộng lớn, một vụ đầu tư vượt quá sức tôi nhưng tôi có thể lợi dụng. Trừ phi đó là cạm bẫy của Yahl chăng ra.

— Anh đã mua một triệu đôla hợp đồng, - Vandenberg nhắc. - Trong tình hình hiện nay, hoặc là anh bán đi, hoặc anh tiếp tục theo đuổi, bỏ thêm vốn.

— Ý anh?

— Không có ý kiến. - Anh ta đáp với nụ cười ranh mãnh. - Anh mới là thiên tài kinh doanh. Không phải tôi.

*

Tôi gọi Beyrouth giữa hai tiếng nổ của cuộc nội chiến đang quyết liệt, họ trả lời: Chắc chắn Hassan đang ở Riyad. Nhưng không thấy ở đấy, ở Cairo cũng không, cuối cùng tìm được lão ta ở Roma. Tìm được sau khi tra cứu hàng đống danh bạ điện thoại của các khách sạn và nhớ ra địa chỉ khách sạn bé tẹo trên đường Sforza gần Sainte Marie Majeure, là nơi thỉnh thoảng lão ta đến trọ, không buồn vào các đại khách sạn. Tôi bảo lão ta:

— Dám cược một ngàn đô là tôi biết chắc ông đang làm gì lúc này.

— Đấng tiên tri cấm đánh cược.

— Dóc tổ! Ông đang ngồi nhét kem đầy bụng.

— Đấng tiên tri không bắt kiêng kem.

Im lặng. Lão đợi tôi nói, còn tôi thì đến giây cuối cùng lại đâm ra do dự. Tôi tự hỏi không biết mình gọi lão ta thế này là nên hay không nên. Biết nói gì, hỏi gì đây? Tuy cặp Lavater cố công lôi tôi ra khỏi cơn buồn chán nhưng nó không chịu tan đi mà càng dầy dặc hơn. Đủ thứ lẫn lộn trong đó: Catherine và thằng nhóc ở xa, trong ngôi nhà không phải của tôi, nơi tôi cảm thấy mình chỉ là khách lạ. Bọn phó nhòm săn đuổi. Và cuộc chiến với những bóng ma, băn khoăn không rõ kẻ nào phản mình hoặc kẻ nào cùng chiến đấu với mình. Cả gã Vandenberg, hắn đã biết rõ tôi không được yên ổn và chắc đang khoái chí: Tay này có thể đứng yên nhìn tôi chết đuối mà không buồn cứu vớt.

Điện thoại vẫn lặng ngắt, Fezzali vẫn đợi. Bỗng nhiên tôi lao như người nhảy xuống nước và kể hết với lão ta: Horst, bọn thợ ảnh, bác sĩ tim mạch tới chăm sóc Yahl và tuyên bố lão bị loại khỏi vòng chiến. Vẫn im lặng.

— Xem ra có vẻ không thuận buồm xuôi gió. - Mãi Fezzali mới lên tiếng.

— Đúng thế.

— Sẽ không kéo dài đâu.

Nghe tiếng lão ta nuốt một miếng gì.

— Biết nói thế nào với anh được, Franz. Rõ ràng chúng đang giăng bẫy anh, một cái bẫy theo tôi còn rộng lớn hơn cái anh đã chăng bắt lão chủ nhà băng Thụy Sĩ. Và mục tiêu đầu tiên là cô lập anh, làm anh nghi ngờ tất cả những người thân cận. Anh đã đến mức nghi Lavater chưa?

— Rồi.

Lão ta cười:

— Nghĩa là luôn cả tôi nữa. Và anh đúng: Rất có thể tôi sắm một vai trong âm mưu chống lại anh. Dù tôi có thề điều ngược lại anh cũng không tin. Nên tôi tiết kiệm lời thề. Tôi tin rằng thiên hạ sắp xôn xao về anh. Không phải vì âm mưu này nọ mà về một vụ làm ăn. Đây là câu trả lời cho câu hỏi mà anh chưa đặt ra cho tôi. Đồng ý. Rõ ràng chưa?

— Rõ rồi.

Nói cách khác: Hãy lao mạnh vào vụ đầu cơ bạc. Fezzali lại cười, giọng nghẹn lại vì vốc kem vừa tọng vào mồm.

— Nếu tôi tham gia vào âm mưu thì lời khuyên của tôi có thể là một bộ phận của cái bẫy đấy nhé.

— Quỷ tha ma bất ông đi.

Lão tỏ vẻ tự mãn:

— Tôi không tin có ma quỷ trên trời. Nếu có nó phải ở dưới trái đất này. Đấng tiên tri đã đích thân cam kết sẽ mở cho tôi cửa thiên đàng của thánh Allah đầy bọn gái đẹp ranh ma.

***

Tôi lại gọi Philip Vandenberg ở văn phòng phố Fulton.

— Sau khi cân nhắc kỹ, tôi quyết định: Tăng lên mười lần.

Năm 1969, chỉ riêng trên thị trường Hoa Kỳ đã có chín triệu hợp đồng được ký kết, số tiền trao đổi lên tới tám mươi tỉ đôla. Con số khiêm tốn gần như không đáng kể. Sau có vài năm đã tăng lên kinh khủng: Gần năm chục triệu hợp đồng trị giá một ngàn ba trăm năm chục tỉ đôla. Số tiền tôi bỏ ra chỉ là giọt nước trong biển cả. Trong nghề buôn bán bạc, thông thường người ta ký hợp đồng mua hoặc bán. Ký bao nhiêu cũng được, không có giới hạn. Mỗi hợp đồng chuyển dịch năm ngàn once (28,35 gr một once). Tiền ký quỹ mỗi hợp đồng là bảy chục ngàn đôla nếu ký dưới một trăm hợp đồng, tám chục ngàn nếu ký quá hai trăm năm mươi. Lệnh tôi vừa truyền cho Vandenberg và anh ta sẽ truyền xuống cho bọn môi giới, có nghĩa là tôi nhận làm một trăm bốn hai hợp đồng và phải ký quỹ chín triệu chín trăm bốn chục ngàn đola, mười lần số tiền đầu tư trước đây. Bằng khoảng một phần tư vốn tôi đưa vào kinh doanh.

Nếu áp phe này có gài bẫy, hẳn là tôi đang lao đầu vào bẫy một cách điên cuồng. Vì ngoài số vốn ném vào đấy tôi còn đầu tư năm triệu vào Săn Thú. Chưa hết, tôi còn nhiều dự án khác nữa và nhất quyết sẽ bỏ vốn thêm. Trong tháng tám này, đây là đợt phản công đầu tiên của tôi để trả lời sự thách thức của Horst. Tôi không chịu cố thủ trong pháo đài xây bằng những của cải đã giành được, mà kiên quyết tiến lên.

Đúng lúc này xảy ra sự kiện mà thoạt tiên tôi coi thường, lúc hiểu ra thì đã muộn.

Tôi thận trọng rời khách sạn Pierre để gặp Fezzali. Băng qua đại lộ số 5, đi bộ đến Plaza, từ đó gọi điện cho lão. Bảy giờ tối mới rời Plaza trong lòng vẫn còn buồn bực chưa nguôi pha lẫn cơn sốt liệt dữ dằn, căng thẳng, ác ôn. Tôi rời Plaza qua chiếc cửa thông ra phố 58 Tây đối diện Solow Building. Đi ngang cửa hàng thời trang Bergdorf Goodman, với dụng ý lờ mờ sẽ đến xem cửa hàng đồ chơi trẻ con Schwarz ở bên kia đường. Bỗng một toán thanh niên ào ra chỗ vòi nước phun Pulitzer, gã nào cũng cao kều, trông có vẻ một đội bóng rổ chếnh choáng hơi men trước trận đấu ở quảng trường Madison hoặc gần đấy. Trong một lúc tôi ngập trong đám khổng lồ, bị họ xô đẩy đôi lần, họ mĩm cười xin lỗi rồi bỏ đi. Chính đó là lúc sự việc xảy ra, thủ phạm rõ ràng là một chuyên gia có hạng nên tôi chẳng hay biết gì. Phải đến mười lăm phút sau tôi mới nhận ra sự tổn thất: Tên nào đó đã móc mất ví. Thật bực mình nhưng không đáng nghiêm trọng, tôi không phải là nạn nhân đầu tiên của bọn chôm chỉa New York. Trong ví có chừng một ngàn hai trăm đôla, nhưng cái chính là giấy tờ tùy thân, giấy phép lái xe, thẻ căn cước Pháp, phiếu mua chịu.

Tổn thất không đến nỗi không bù đắp nổi. Tôi nhớ lúc ấy còn thấy phấn khích vì tên kẻ cắp đã để lại chiếc bao da mỏng trong đó có các tấm ảnh chụp Catherine và Marc Andrea, nhất là một bức rất quý chụp hai mẹ con đứng trên boong tàu rực nắng vàng giữa biển Cortès.