Chương 6
Tấn công là cách phòng ngự tốt nhất. Điều này đúng với Clausewitz[14], Napoléon[15] và Mohamed Ali[16] gộp lại, chắc cùng đúng với tôi. Tôi đã mở đầu cuộc phản công khi cho giám sát Yahl như lão đã cho giám sát tôi (tôi lồng vào một khung kính hai tấm ảnh bên nhau: Ảnh chụp tôi ở Florida và ảnh chụp Yahl ở Geneva); tôi mở rộng cuộc phản công bằng cách tăng gấp mười số vốn đầu tư vào món bạc, rồi triển khai áp phe đồ sộ nhất từ trước tới nay của tôi: Dự án Săn Thú. Mà không phải chỉ có thế. Tôi đã từng nói: Còn nhiều dự án nữa. Đã đến lúc tôi triển khai thêm một cái. Ý định nảy sinh một cách ngớ ngẩn: Trước máy thu hình. Tôi thấy nó có năm lợi thế đáng kể.
* Chưa ai nghĩ ra.
* Có thể thực hiện trong thời hạn tương đối ngắn.
* Không có nguy cơ đưa tôi vào tù.
* Không đòi hỏi vốn ban đầu nhiều, thậm chí, tôi có thể biến nó thành hiện thực mà không phải bỏ ra xu nào.
* Nó có thể sinh lời hàng chục triệu đôla.
Tóm lại, một ý hay. Đó là nhận định của tôi, tôi hoàn toàn tán thành nhận định đó.
Đầu tháng mười ấy, khoảng mùng 5 mùng 6 thì phải, tôi ở New York. Trời mưa, không dám nói rằng tôi đã đoán trước được trận mưa nhưng quả thật nó đã phụ giúp cho tôi. Nhờ nó nên tôi mặc được chiếc áo mưa khá rộng để che giấu chiếc máy ghi âm nhỏ để ghi lại tất cả những lời tôi nói và các câu trả lời. Adriano Letta ngồi trong xe cách tôi không xa, chỉ độ sáu chục mét, sau tay lái chiếc vận tải nhẹ tôi thuê cho công việc này. Trên xe có tay kỹ thuật viên radio chịu trách nhiệm ghi âm qua những chiếc micro tôi đeo trên người, phóng khi máy ghi âm của tôi bị trục trặc (tôi không hề tin cậy các thứ máy móc này). Nghe tôi dặn dò công việc thuê anh ta làm, tay kỹ thuật viên nghi ngại nhìn tôi:
— Anh là gián điệp à?
— Đâu có!
— Anh làm việc cho CIA?
— Càng không phải.
— Tôi không muốn dính líu vào một vụ Watergate thứ hai.
— Thì tôi cùng vậy.
Một lát anh ta hỏi:
— Thế anh có biết tôi tên gì không?
— Không.
— Richard Dixon.
Mà tên anh ta đúng như vậy thật, kỳ thế! Cả hai chúng tôi cùng cười phá lên. Sau đó tôi đã làm cho anh ta yên tâm, nói rằng việc sắp làm đây hoàn toàn không có gì bất hợp pháp, anh nghe rõ được từng lời nói, và nếu thấy có gì đáng nghi anh vẫn có thể phôn ngay cho FBI[17] hoặc báo Bưu Điện Washington[18].
Nhân thể tôi cũng xin nói, thực ra tôi không cần giấu micro và ghi âm trên người mới thực hiện được việc định làm. Có thể không có cũng xong. Tuy nhiên, sự bố trí này sẽ có lợi cho tôi về sau. Chỗ tôi đang đứng là phường Queens cách không xa công viên Bushwick. Mưa nhẹ, năm giờ chiều mà trời đã tối, có thể vì trời đầy mây thấp. Chủ gara là một người da đen trạc năm mươi tuổi, luôn mồm nhấm đầu điếu xì gà không châm. Ông ta ngồi trên chiếc ghế bành ngả ra sau, chân thượng lên mặt bàn. Tôi cười thật dễ thương.
— Ông có cái gara thật đẹp.
— Không bán đâu.
— Thật may cho tôi. Tôi đang không muốn mua.
Ông ta gật đầu bằng lòng:
— Vậy là tốt, khỏi cãi nhau, thế tôi có giúp anh được việc gì không?
— Tôi muốn xem qua cái mái nhà. Định thuê.
Ông ta ngạc nhiên không nói được nữa. Đứng dậy đi ra ngoài mưa ngắm mãi mái nhà rồi trở vào, chẳng thấy có gì đặc biệt trên đó. Tất nhiên vì đây không phải cái gara tồi tàn nhất New York mà cũng chẳng phải loại đứng đầu bảng; một kiến trúc kiểu hai tầng: Tầng dưới làm văn phòng, xưởng sửa chữa, chỗ đậu xe, tầng trên hoàn toàn để chứa xe, mái bằng, chỉ có chiếc ống khói nhỏ tí xây lệch một bên.
Lúc quay lại, chủ gara hỏi tôi định làm trò trống gì trên cái mái chưa bao giờ dùng vào việc gì từ đời xửa đời xưa đến giờ, và tôi có biết rằng pháp luật cấm xây cất trên mái, rằng liệu tôi có hơi mất trí không? Tôi đáp theo tôi biết thì thần kinh tôi rất lành mạnh. Có chứ, tôi biết không được xây cất, cái tôi định làm với chiếc mái này là hoàn toàn hợp pháp, không có vấn đề gì. Hơn nữa tôi là người tử tế trông rõ mồn một, hơn nữa ông sẽ được hai trăm đôla mỗi tháng.
— Những hai trăm đô?
— Hai trăm.
— Hoàn toàn hợp pháp?
— Hợp pháp nhất trần đời.
Chơi không mà lĩnh hai trăm đô một tháng. Chúng tôi cùng trèo lên mái, tôi mặc áo mưa, chủ gara che chiếc dù màu hồng thật choáng. Lững thửng dưới trời mưa đếm bước trên một mặt phẳng cực kỳ nhẵn, trát bằng nhựa đường trộn xi măng, có tường thấp chừng ba tấc bao quanh. Ống khói ở vị trí rất thích hợp, không gây vướng. Kích thước vừa đúng như tôi mong ước: Công trình hình chữ L cạnh dài độ tám chục mét, cạnh ngắn gần bốn chục. Vừa vặn theo yêu cầu của tôi, con mắt của Adriano quả là tinh, anh đã ước lượng rất đúng khi được tôi cử đến trinh sát. Thực ra cũng khó đòi hỏi hơn ở bước khởi đầu như trong mơ. Tôi bảo chủ gara:
— Còn lâu mới đạt yêu cầu. Lên xem tận mắt mới thấy chưa nên nói đến hai trăm đô. Dù sao cũng không phải tôi là người quyết định.
— Lạy Chúa, ai mới quyết định được và về việc gì cơ?
Tôi đưa cho ông tấm danh thiếp của văn phòng Rosen phố 56 Đông Manhattan. Tôi giải thích rằng tôi không giải thích được gì hết, tôi chỉ là người đi chào hàng theo lệnh chủ và chẳng biết nói gì hơn. Tuy nhiên, bất cứ ai ở New York đều biết tường tận văn phòng Rosen rất nghiêm chỉnh và có tín nhiệm. Đúng như thế. Giữa đại dương những điều tôi nói dối, đây là một hòn đảo sự thật. Tôi nói tiếp: “Tôi sẽ báo cáo, nếu các ông chủ thấy được họ sẽ đến gặp”.
Ông ta gãi đầu gãi tai tiễn chân tôi. Bảo: Chẳng phải làm gì mà được thêm hai trăm đô mỗi tháng, tất nhiên phải đúng luật lệ, là rất ngon lành, ông sẽ có cách tiêu. Tôi đáp: “Điều đó chẳng làm tôi ngạc nhiên. Tôi cũng như ông”, rồi chia tay nhau thân ái như hai bạn nối khố.
Ra khỏi tầm nhìn từ gara, Adriano Letta lái chiếc xe tải nhẹ đến bên tôi.
— Ghi được chứ?
Richard Dixon ra hiệu được. Nhưng anh chàng chẳng hiểu gì. “Anh chơi trò gì thế?” Sẽ hiểu ngay thôi. Tôi nói sao cho tiếng nói của tôi cũng được ghi vào băng từ: “Trái với điều đã nói với chủ gara, tôi xác nhận rằng chiếc mái nhà tôi vừa xem hoàn toàn thích hợp cho công việc”.
Rồi tiếp tục. Nấp dưới mái hiên một cửa hàng tivi - radio, tôi vừa nghiên cứu bản danh sách đã liệt kê cùng với Adriano vừa nghiên cứu bản sơ đồ phường. Dĩ nhiên những nhà tôi định đến xem đều ở quanh quẩn gần đây. Ghi địa chỉ từng nhà lên sơ đồ, tôi lần lượt đến xem theo vệt đường hợp lý nhất. Bị hai nhà thẳng thừng phản đối, bà chủ nhà đi làm chưa về, còn lại chín thì sáu nhà ưng thuận ngay, thậm chí còn tỏ ra sốt sắng, số còn lại hứa sẽ trả lời sau. Chắc họ sẽ nhận sau khi biết chắc việc này không phải chuyện đùa cợt, hơn nữa không phải chuyện lừa đảo. Tôi lại đi một vòng nữa, nếu trong ba người ban nãy đã đi làm về và nhận lời - người thứ ba là phóng viên báo làm ca đêm. Năm nhà giữ tôi ở lại ăn tối. Mười giờ đêm mới hoàn tất cuộc thăm viếng. Hai cẳng chân tê dại, nhưng đạt được kết quả vượt mong muốn: Tám khách hàng ăn chắc, có thể đến mười một.
— Lần này cũng ghi được?
Dixon lắc đầu:
— Được. Nhưng ý của anh thật khác thường. Liệu có ăn không?
Anh ta nhìn tôi cười, rồi tự trả lời: “Ăn”.
Sân quần vợt hình chữ nhật một chiều 23,77m và chiều kia 10,97m. Lấy tròn thành bốn mươi và mười sáu để người chơi có đất chạy bên ngoài biên ngang và biên dọc. Bốn mươi và mười sáu mét là gần khớp với kích thước tôi đã đo được ba lần trên nóc gara, sai số có hai tấc. Như vậy có nghĩa là trên mặt phẳng này có thể tạo ra ba sân quần vợt. Chỉ cần phủ lên tấm chất dẻo tổng hợp để chơi được cả dưới mưa, ít nhất là ngay sau khi mưa tạnh.
Trước khi lao vào cuộc tôi đã tìm hiểu nhiều khía cạnh liên quan. Trước hết, về luật cấm xây cất. Tôi chuẩn bị sẵn sàng đổ máu để chứng minh rằng căng tấm lưới và quây rào trên một mạt phẳng hoàn toàn không phải là xây cất. Tôi vô cùng sửng sốt (vì xưa nay vẫn rất có thiện chí đối với sự thiếu thiện chí của nhà chức trách) khi thấy họ lập tức thừa nhận lý lẽ của tôi. Thành ra suýt nữa tôi cứng họng không nói được gì. Sau đó tôi bèn phản công, nói rằng: Lợp mái trên sân quần vợt và thưng những tấm vách tháo ra được (khi trời nóng) xung quanh sân thì có vi phạm luật, nhưng xây cất nên những sân này chứng tỏ tôi vừa quan tâm đến vấn đề sinh thái vừa quan tâm đến sự phát triển lành mạnh của lớp trẻ - có sân chơi bóng, chúng sẽ thôi tấn công các bà già và các tiệm thực phẩm - hơn nữa tôi còn tranh đấu cho sự phồn vinh của các phường trong trung tâm thành phố, cho nền thể thao, cho một lô lốc các điều hay ho khác. Họ còn hỏi: Công quỹ sẽ tốn vào đó bao nhiêu. Tôi đáp: Không một xu nhỏ. Thế là lập tức họ thấy tôi rất dễ thương.
Tôi kể danh sách các đài phát thanh, truyền hình, báo ngày, tạp chí, nói chung tất cả những ai có thể quan tâm đến khả năng trưng quảng cáo trên các tấm vách và mái sân quần vợt; đứng ở cửa sổ các ngôi nhà cao lân cận nhìn xuống rất rõ. Bản thứ hai kê tất cả các gara, siêu thị, các nhà mái bằng trong phường. Bản thứ ba kê tên khách hàng: Những người chơi tennis, những người thực sự chơi từ trước đã rất đông, nên tính đến sự bùng nổ phong trào quần vợt đang thịnh hành, tôi cho rằng số người chơi có khả năng còn đông nữa.
Tìm hiểu giá cả của các câu lạc bộ quần vợt và địa điểm sân bãi, tôi thấy đúng như đã dự đoán: Mấy triệu dân New York sinh trưởng hoặc làm ăn trong thành phố muốn đánh tennis thường phải đi khá xa, mỗi lần đi về mất đến hai hoặc ba tiếng đồng hồ. Sân bãi của tôi chỉ cách chỗ ở, chỗ làm việc của họ có ba phút đi bộ. Họ có thể đem chơi lúc giải lao giữa hai cuộc họp, lúc nghỉ ăn trưa, giá cả lại thấp hơn của các câu lạc bộ.
Sau đó tôi tìm đến một hãng tin học. Họ hiểu ngay ý định của tôi: “Anh cho chúng tôi bản kê địa điểm các sân chơi, số lượng, chúng tôi cho vào bộ nhớ máy tính điện tử. Khách hàng của anh chỉ cần hỏi tổng đài điện thoại của hãng chúng tôi là biết ngay có thể đến chơi ở sân nào, vào giờ nào. Anh có khách thuê bao chứ”.
— Có, tôi sẽ bán những phiếu thuê sẵn theo giờ. Vị khách X sẽ được sử dụng sân trên gara Belder từ bảy đến chín giờ các ngày thứ ba và thứ sáu, vị khách Y nếu muốn sẽ thuê sân ấy cả năm, các chiều thứ bảy từ mười sáu giờ đến mười tám giờ.
— Sẽ ghi hết vào máy tính, dễ ợt.
— Ngay cả khi có đến hai ngàn sân?
— Một triệu cũng vẫn được. Làm chương trình cho máy, thế thôi. Thời gian trả lời vị khách hỏi sân chơi chỉ mất ba mươi, bốn mươi giây là cùng, dù số sân, số khách thuê bao đông đến bao nhiêu cũng vậy.
Những tuần sau đó tôi còn khám phá được một điều trái hẳn với suy nghĩ và lo lắng của tôi. Ngay cả ban đêm cũng có khách thuê sân. Ở New York cũng như ở mọi thành phố lớn bao giờ cũng có những người ít ngủ, những người làm ca đêm. Trong số đó nhất định có những người muốn chơi một hai tiếng tennis từ ba đến năm giờ sáng. Adriano Letta chở tôi trên xe tải của anh ta vượt qua sông East để trở về Manhattan. Tôi bảo Dixon cho nghe vài phút những cuốn băng ghi cuộc đi gõ cửa từng nhà mệt muốn chết vừa rồi. Anh ta nháy mắt: “Ông tán giỏi thiệt“. Tôi gật đầu. Nhưng đó đâu phải là điều quan trọng nhất. Tôi bảo Letta: “Bây giờ phải kiếm cho tôi một trăm người môi giới. Cho họ học thuộc lòng những cuốn băng này. Coi như nó là thánh kinh của người bán phiếu thuê sân theo giờ và phiếu thuê sân quần vợt trên mái nhà. Họ phải lặp đúng những lí lẽ của tôi, đúng từng câu chữ. Xung phong!”
Và đặt cho chiến dịch này cái tên: Quần Vợt Trên Trời.
Tôi gọi gã Thổ ở London. Gã tức giận gầm lên:
— Không biết bây giờ là mấy giờ hả?
Thì ra tôi lại nhầm khi tính múi giờ.
—Này chàng Thổ, đang có áp phe định bàn với cậu đây.
Cằn nhằn mất đến một phút nữa, dễ hiểu thôi vì lúc này bên London mới bốn giờ bốn lăm phút sáng. Mãi gã mới dịu đi, thỏa thuận sẽ gặp nhau khi tôi qua bên đó.
— Cả Ute cũng có mặt, Franz ạ. Cô Đan Mạch khổng lồ cậu sang tên cho mình bây giờ cũng mơ trở thành triệu phú. Bằng những phương tiện của chính cô ta. Áp phe của cô ấy đấy.
— Sao lại không?
— Sao lại không?
Ôm hôn nhau rồi gác máy. Ở New York bây giờ đã nửa đêm. Mãi lúc này tôi mới để ý đến lời nhắn do tổng đài khách sạn Pierre ghi lại: Gọi Callaway ở Los Angeles. Callaway là giám đốc hãng thám tử tư được Marc Lavater thuê điều tra bọn thợ ảnh của Yates và điều tra cả Yates
— Cimballi đây.
— Ted Callaway. Về con bé tóc đen ấy, anh cần chúng tôi gửi báo cáo bằng văn bản, hay nói những điểm chính ngay bây giờ?
— Cả hai thứ.
— Tên: Sharon Maria De Santis, sinh quán New York, hai lăm tuổi. Ly hôn, con gái lên ba. Còn bố mẹ. Bố làm ở bộ phận kỹ thuật sân bay La Guardia, cán bộ, không phải nhân viên thường. Đã học khá tốt về luật và báo chí. Bỏ việc sau khi lấy chồng, lại đi làm sau khi li dị. Được tòa cho giữ con, gửi nó chỗ bố mẹ ở gần công viên Kissena Park, tại Flushing. Làm phóng viên nhiếp ảnh theo hợp đồng cho Thời Báo New York trong mùa hè sau đó làm cho một hãng thông tấn, được cử sang Nam Mỹ, ở Argentina và nhất là Brazil. Nói được tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Gặp Yates ở Rio, làm cho hắn. Đầu năm nay trở về New York kiếm việc làm. Thất bại. Nối lại, hoặc do Yates tìm nối lại, đưa vào làm tại hãng thông tấn của hắn ngày 20 tháng tư. Sang Amsterdam ngày 6 tháng năm.
— Chồng cũ thế nào?
— Không có gì đặc biệt. Bác sĩ nội khoa ở ngôi làng tên là Lodi phía bắc bang New York. Đã tái giá, đúc lại một thằng con trai. Không liên hệ với Sharon.
— Với Yates?
— Có lẽ đã ngủ với nhau nhưng không thường xuyên. Cô nàng vẫn tự lập.
— Với Horst?
— Không nắm được.
— Gì nữa?
— Đấy là những điểm chính, vẫn tiếp tục theo dõi cô nàng?
Tôi do dự, không biết vì sao. Trước sau mới gặp cô này có hai lần, trong vài phút. Chỉ là một trong những thợ ảnh luân phiên nhau săn đuổi tôi, vả lại cô ta ít xuất hiện hơn những tên khác mà tôi đã nhẵn mặt.
— Thôi, tạm ngưng. Chuyển sang dò mối liên hệ giữa Yates và Horst.
— Tôi không nắm được gì mấy về tên Horst.
— Hỏi Lavater sẽ biết.
Đúng thế, một toán thám tử tư khác của tôi đã nhận phần đeo bám Horst. Thật rối rắm quá thể.
Tôi gác máy. Hôm sau nhảy lên chuyến bay đầu tiên sang Châu Âu.
*Ute Jenssen đã một thời làm người mẫu, nên có thói quen đi đâu cũng đội ba tập Bách Khoa Từ Điển Anh Quốc trên đầu, luôn mồm nhai cà rốt sống đựng trong bịch thường đeo lủng lẳng ở cổ chẳng khác gì con ngựa kéo xe nhai cỏ.
— Anh Franzy thương yêu, em đã nghĩ là anh không yêu em nữa. Gặp lại anh sau những tháng dài đằng đẵng chung sống với gã Thổ nhầy nhụa, em thật sung sướng.
Gã Thổ nhầy nhụa tức tối:
— Cô ta gọi anh là Franzy đấy thôi.
— Cô ấy thì được. Cậu thì không.
Họ vẫn ở ngôi biệt thự Hampstead tại London. Trong vườn càng có thêm nhiều pho tượng khiêu dâm làm nghẹt thở, mọi người phục dịch từ đầu bếp trưởng, người nấu ăn cho các cô báo vụ telex đều là những cô ả tuyệt đẹp trần trụi như sự thật. Chắc chắn những người đến giao hàng, giao bưu kiện bảo đảm phải đánh nhau giành quyền được tới đây. Các cỗ máy telex vẫn ở nguyên chỗ cũ trên lầu một. Nhờ chúng gã Thổ thỏa mãn được thú mê đánh cá ngựa trên khắp thế giới, cùng mặt trời đuổi theo các cuộc đua ngựa, từ cuộc đua đường dài ở Vincennes sang cuộc đua tốc độ ở Sarotoga đến cuộc đua vượt chướng ngại ở San Diego, ở Tokyo hoặc ở Australia.
— Bây giờ còn tìm được cách tham gia cá độ tập thể ở Moscou, trên trường đua phố Begovaïa. Anh biết chỗ đó không?
Hẳn là không.
— Được lời sáu mươi tư rúp, Franzy. Chỉ phiền một nỗi là phải sang tận nơi mới tiêu được.
— Đừng gọi mình là Franzy.
Gã mỉm cười thân mật, cặp mắt đen một mí viền lông mi thật dài trông càng có dáng phụ nữ hơn bao giờ hết. Theo thói quen xưa nay, gã mặc toàn đồ lụa óng ánh, sơmi và quần may phồng, đi ủng kiểu cosaque nhỏ nhắn bằng da đen, sọ cạo trọc lốc nhưng để bộ ria rậm rì. Nhìn gã là tôi đủ bực mình, nhiều khi tôi nghĩ bụng: “Thằng cha này chẳng từ cái gì mà không dám làm”, ấy vậy mà vẫn có thiện cảm với gã. Mặt khác, các nhà tài chính cổ điển thường hay khất lần nên bao giờ cũng làm tôi chán ngán, còn gã thì cho cái cách tôi điều hành công việc là bình thường. Những người như gã không nhiều.
Tôi thuyết minh cho Ute và gã Thổ về dự án quần vợt trên trời. “Anh định cho chúng tôi tham gia?” - “Ừ. cùng góp vốn”. Họ hỏi tại sao tôi cần đến họ, ở New York này đã có Adriano Letta và équipe vững vàng của Rosen nắm vụ này trong tay rồi. Tôi đáp: “Khi có một ý hay phải khai thác ngay lập tức càng nhanh càng tốt, từ lúc nó bắt đầu lộ ra trước công chúng. Vả lại tôi định không dừng lại ở New York. Vâng, tất nhiên ở cả các thành phố lớn của Hoa Kỳ nữa, mà cũng không phải chỉ ở đây. Còn Canada... và Châu Âu. Và Nhật. Và Hong Kong.
Ute đã ra sân bay London đón tôi, tuy trời tháng mười ở London khá lạnh, cô nàng chỉ khoác chiếc áo mưa vải nhựa đen, bận chiếc quần lụa đen bó sát và chiếc áo dệt kim ngắn tay đỏ rực in dòng chữ trắng: “Hãy Sống Khỏa Thân”. Cô đã cởi bỏ áo mưa nhưng vẫn thấy nóng quá nên cởi luôn chiếc áo dệt. Đôi vú vẫn đẹp tuyệt vời. Cô ngẫm nghĩ rồi tuyên bố:
— Với em thế là tốt, Franzy. Rất thích là khác. Nhất là nếu được anh Thổ nhầy nhụa giúp một tay.
Ba bốn năm trước, khi tuyển cô nàng làm nhân viên rao bán các đồ dùng vặt vãnh made in Hong Kong của tôi, thoạt tiên tôi chỉ cho cô là một ả chào hàng có sức quyến rũ khách mua nhờ chiếc áo ngực rất rộng do đó cô có thể bán cho khách bất cứ thứ gì. Một sự đánh giá sai lầm: Với một tốc độ chóng mặt cô Đan Mạch khổng lồ đã dựng lên mạng lưới bán hàng rộng khắp các hòn đảo Anh Quốc, các nước Scandinavie, đã góp phần rất lớn vào thành công của tôi hồi đó. Chắc cô nàng sẽ làm lại được thành tích này.
— Em hoàn toàn có thể làm lại như cũ, anh thân yêu.
Gã Thổ càng không do dự lâu. Hắn là một con bạc, bao giờ cũng quyết định rất nhanh: “Nếu nhận lời, cô Ute và tôi sẽ góp hai phần riêng rẽ vào công ty do chúng ta thành lập”. Tôi chấp thuận: Về việc thành lập công ty đó, họ cứ trực tiếp hoặc cử người được ủy quyền của họ gặp Rosen, anh này đã được tôi chỉ dẫn đầy đủ.
Ute bốc ngay, cô nàng đã tưởng tượng mình cho thuê mái Viện Trocadéro ở Paris, sân thượng của lâu đài nào đó bên Đan Mạch (chắc không phải lâu dài của Hamlet ở Elseneur), cả quảng trường Saint Pierre ở Roma, các chiều chủ nhật khi Giáo Hoàng đã đi tắm biển. Cô ôm hôn tôi: “Người anh căng như sợi dây vĩ cầm rồi, Franzy. Anh có muốn làm tình với em cho dịu thần kinh không? Anh chàng Thổ đang có mặt ở đây sẽ ngồi đọc chuyện một lúc”. Tôi đáp: “Không, cảm ơn, tôi sắp bay”. Cô tiễn tôi ra sân bay Heathrow, lại ôm hôn tôi lần nữa, son môi thơm phức mùi dâu tây.
— Cảm ơn Franzy đã nghĩ đến chúng em.
Không thấy gã Thổ và cô ta đả động đến Catherine và thằng nhóc của tôi. Tôi biết rõ không phải vì họ quên. Còn tồi tệ hơn: Họ biết có sự trục trặc, và nhìn rõ hơn tôi điều sắp xảy ra.
Chú thích:
[14] Karl Von Clausewitz (1780 - 1842) nhà quân sự danh tiếng Đức.
[15] Napoléon Bonaparte (1769 - 1821) Hoàng Đế Pháp.
[16] Mohamed Ali: Võ sĩ quyền anh Mỹ.
[17] Cục Điều Tra Liên Bang Mỹ.
[18] Vụ Watergate xảy ra ở Mỹ năm 1972, do Richard Dixon, Tổng Thống Mỹ lúc bấy giờ chủ trương. Âm mưu đó bị báo Bưu Điện Washington phát hiện và tố cáo.