Chương 7
Tôi đang bộ ở Paris cùng Catherine. Tôi nắm lấy tay cô, cô không cưỡng lại nhưng chỉ trong nháy mắt cô tạo cớ phải sắp xếp lại đồ đạc trong túi xắc để rút tay ra, rồi dùng cả hai tay ôm chặt xắc vào người. Thế là không dụng vào cô được nữa.
Tôi phải đến tìm cô ở đại lộ Ségur, nơi cô đến ở đã được hai tuần sau khi từ Thượng Loire về. Thoạt đầu, cái kiểu cô ấy chạy từ nhà người thân thuộc này sang nhà kia như người chạy tìm nơi trú mưa giữa cơn giông, hết tìm sự che chở của mẹ đẻ, của bố dượng đến của ông bà ngoại, chú bác, cô dì và ai ai nữa chỉ chúa trời mới biết đã làm tôi tức điên lên. Sau đó tôi bình tĩnh lại được. Nổi cáu không phải là cách giải quyết. Tôi rủ đi ăn tối ở tiệm Maxim, ở Tháp Bạc, ở tiệm Lasserre, tiệm Taillevent. Không. Chỉ lắc đầu. Hay ta đến một chỗ không quá sang, thân mật hơn. Cũng không. Dù sao chúng mình cũng phải đến chỗ nào ăn tối chứ. Cô đáp: Không đói. Từ đại lộ Ségur, chúng tôi chỉ đi đến quảng trường Champ De Mars thì tôi dừng xe. “Ta xuống đi bộ nhé!”. Cô chẳng ừ, cũng chẳng không, vẫn chỉ hơi nhếch mép, vẻ xa xăm như cách tôi mấy triệu năm ánh sáng. Nhưng cũng chịu xuống xe, đi bên tôi.
— Catherine.
Không đáp, cũng chẳng buồn quay đầu lại. Nếu như tôi đứng lại, chắc hẳn cô vẫn tiếp tục đi một mình.
— Anh xin em, Catherine.
Tôi năn nì, nói rằng đã cố hết mình tìm hiểu điều gì đã xảy ra, có chúa chứng giám cho tôi là đã thực sự cố gắng hết sức. Để thấy hết lỗi lầm. Tôi biết rõ mình phạm nhiều lỗi lầm. Mấy tuần nay không lúc nào không nghĩ đến tội.
— Catherine, tối nay anh thấy mình cô đơn ghê gớm.
Nhưng biết làm sao được? Chả lẽ vứt bỏ hết công việc, chui về ở trong nhà bố mẹ họ hàng cô, những người hình như vẫn coi tôi là khách lạ, hơi khùng tuy may mắn là có nhiều tiền. Có nhiều tiền vì đã phất rất nhanh trong một thời gian kỷ lục, điều mà theo tiêu chuẩn Pháp rõ ràng là dấu hiệu chứng tỏ tôi là một tên gian manh, không đáng tin cậy, nghĩa là một tên bịp.
— Anh nói quá lời.
Đi đến chân tháp Eiffel lúc nào không hay. Quay trở lại nơi để xe. Đúng, tôi có nói quá. Thật ra, vì tôi không có thói quen sống trong gia đình, chưa bao giờ sống thế. Sự tình là như vậy, đâu phải lỗi tại tôi. Về phía cô, cũng nên thử tìm hiểu về công việc tôi làm, với những chuyến đi bắt buộc, không dứt. Chắc sau này thời gian sẽ làm dịu tất cả những cái đó. Nhưng bây giờ còn quá sớm để nghĩ đến.
— Catherine ạ, anh có nhiều điều phiền muộn. Thế mà em lại chọn đúng lúc này.
Về đến xe đúng lúc những hạt mưa đầu tiên trút xuống. Chúng tôi lên xe. Cô muốn đi về phía nào? Cô không biết. Tôi cũng thế. Rất máy móc, tôi nổ máy cho xe lăn bánh.
Mãi cô mới hỏi:
— Cái gì khiến anh phiền muộn?
— Murtin Yahl.
Quảng trường Ngôi Sao với cuộc chạy đuổi như điên dưới mưa, giờ cao điểm. Tôi bỗng nhớ lại cuộc dạo chơi sóng đôi trong thời gian xen giữa những giờ nóng bỏng của trận đánh cuối cùng với Martin Yahl. Bữa ấy tôi chỉ dừng chân Paris được vài giờ, cùng đi với Catherine trên những con đường quê xung quanh Senlis. Vào tháng năm. Tôi vẫn còn nhớ như in từng phút của mấy giờ hôm đó. Còn cô? Có nhớ, mãi cô mới đáp vẻ miễn cưỡng! Cô cũng còn nhớ. Bỗng nhiên cô òa khóc, tôi cuống lên không biết làm gì, nói gì được, ngồi trong xe ngó những cái gạt nước vô tình đưa qua đưa lại, giữa luồng xe chật cứng chuyển động như điên khiến tôi không có cách nào dừng lại được.
— Catherine.
Rồi sẽ qua thôi...
Cô ngồi khóc thầm không ra tiếng. Tôi rời con đường vòng đã lái vào từ lúc nào không biết, lao lên xa lộ mà không biết để đi đâu. Đi trong im lặng. Định tìm câu gì để nói mà không tìm được. Có lẽ thực ra, vì tôi sợ khi lên tiếng sẽ phá vỡ sự cân bằng hình như vừa thiết lập được.
Đành phải mở cuốn hướng dẫn đi đường ra xem. Tôi rời xa lộ ở chỗ cách Paris một trăm kilomètres, bắt vào con đường rừng chạy tới gần La Fère en Tardenois, thì đến một khách sạn nhỏ. Tuy đã gần mười giờ đêm, họ vẫn vui lòng dọn cho ăn, mà còn mang lên tận phòng trọ cho nữa. Khách sạn là một ngôi nhà rất đẹp từ bốn trăm năm nay, giữa vườn cây đầm đìa nước mưa. Người ta nhóm lò sưởi trong phòng, tạo nên khung cảnh góp phần xua tan nỗi bối rối của tôi. Rồi bắt đầu thao thao, tôi kể các câu chuyện về gã Ocœe Séminole tung hứng con thằn lằn hoang thú giống như Donald O’Connor tung hứng người mẫu của anh ta trong phim Ta Hát Dưới Mưa; về dự án Săn Thú và những ý đồ ngông cuồng của bộ ba Li, Liu và tôi; kể cả những buổi lần mò gõ từng cánh cửa New York để dạm bán những giờ tennis trên mái gara.
Trong đôi mắt vàng óng lại lấp lánh ánh lửa, tựa hồ cô ta đang từ từ tỉnh cơn mộng mị. Lần đầu tiên từ khi đến đón cô ở đại lộ Ségur đến giờ, thực tế là từ nhiều tháng nay mới lại thấy cô nhìn tôi thực sự. Và dịu dàng lắc đầu: “Chắc anh chẳng bao giờ đổi tính đổi nết”.
Đó không phải một lời trách, vả lại cô còn mỉm cười nữa. làm cổ tôi nghẹn lại:
— Anh cũng sợ sẽ như thế thật.
Một thoáng quang mây, và tôi tin sẽ tới những ngày đẹp trời hơn. Tôi thực lòng tin như thế.
Sáu bảy tháng trước đây tôi đã chuộc lại ngôi nhà ở phố Pompe, nhà bố mẹ tôi đã từng cư ngụ. Khi bố tôi qua đời, những kẻ được ủy thác gia tài thừa kế, tức Martin Yahl và bác tôi đã bán đi, viện cớ tình hình do người quá cố để lại đòi hỏi phải lập tức phát mại tất cả của cải.
Tôi không giữ lại được kỷ niệm nào về ngôi nhà này. Vì lần cuối cùng về đấy ở tôi còn rất bé, mới lên bảy. Hơn nữa những người mua hoặc thuê nhà nối tiếp nhau sau đó đã sửa đi khá nhiều. Nên bây giờ không nhận ra một thứ gì ngoài chiếc thang máy đáng lẽ phải vào viện bảo tàng. Nhìn vẻ mặt Catherine cũng thấy quang cảnh nơi đây chỉ gợi cho cô nguồn cảm hứng rất vừa phải.
— Dù nhớ đến tay nhà họa sĩ trang trí khùng nhất Paris?
— Cũng thế thôi.
Tuy nhiên tôi vẫn còn trong tay một con bài khác. Françoise Lavater vốn là người mê săn lùng nhà như một số người mê tập đi bộ đã mách tôi một ngôi nhà đáng đến xem ở đại lộ Henri Martin. Gần như một dinh thự biệt lập, đúng là như thế nếu trên lầu ba, lầu cao nhất, không có căn hộ của bà chủ nhà rút lên đấy như vị chúa lâu đài bị vây hãm rút vào cố thủ trong tháp vọng lâu. Đến nơi chúng tôi giáp mặt - tương đối thôi - với một bà lão nhỏ nhắn cao độ một mét mười hai, giương đôi mắt nghiêm khắc nhìn soi mói. Nếu tôi không thắt cravate chắc sẽ bị bà coi là đồ hippi. Rõ ràng thấy chúng tôi còn quá trẻ nên bà nghi ngại. “Mấy người có tiền trả bốn trăm triệu không?” Có lẽ bà nói giá theo franc cũ (tôi hy vọng thế) “Không trả đến bốn trăm đâu ạ, ba trăm thôi”. Đấy là Catherine trả lời trong lúc tôi chưa kịp mở miệng. Sau đó là ba bốn chục phút mặc cả kịch liệt - nhẹ nhàng nhưng kịch liệt - giữa vợ tôi và bà già.
— Ba trăm bảy lăm.
— Hai trăm tám.
— Ba trăm năm chục.
Hai trăm chín chục, với điều kiện bà cụ để cả cho chúng tôi căn phòng phụ cho bà vú... Cứ như thế kéo dài mãi. Tôi không xen vào được câu nào, điều chưa bao giờ tôi chịu xưa nay. Chỉ sững sờ đứng nhìn Catherine, với cảm giác sung sướng đã tìm lại được cô, đơn giản hơn nữa đã khám phá ra cô.
Ra ngoài, tôi bảo:
— Mẹ kiếp, trò gì vậy? Anh mới là người cầm tay hòm chìa khóa trong gia đình chứ!
— Chỉ trả ba triệu cũng xong.
— Vấn đề không phải ở chỗ đó.
Họ ngưng cuộc mặc cả với mức ba trăm hai, nghĩa là ba triệu hai. Thế mà suýt nữa tôi nổi cáu. Cả hai đều phá lên cười. Thế là hay rồi. Những ngày sau, chúng tôi quấn quýt bên nhau không lúc nào rời. Trong khi chờ bà lão một mét mười hai phân đầu hàng vô điều kiện, tôi thuê một căn hộ ở phố Raynouard và dọn đến luôn, trong nhà có sẵn đồ đạc.
Đáng lẽ tôi phải bay sang Hoa Kỳ rồi, họ đang đợi tôi. Rosen đã nhiều lần gọi tôi về chuyện quần vợt trên trời, Adrino Letta đã lập nhiều kỳ công bằng đội quân chào hàng hùng hậu do anh tuyển mộ với sự tiếp tay của các người anh em Mỹ gốc Ý. Bản thân Rosen, qua trung gian một hãng quảng cáo được anh báo tin, đã chắp được một mối đầy hứa hẹn với đài phát thanh, họ nhận sẽ vui lòng đỡ đầu toàn bộ công trình; đồng thời khá đông doanh nghiệp đã tỏ ra quan tâm, trước hết là các nhà sản xuất dụng cụ quần vợt. Tóm lại, công việc tiến triển hết sức thuận lợi. Tuy vẫn còn nhiều việc cần dứt điểm như việc xây dựng sân bãi. Tôi đã có ý định gọi cho gã Thổ ở London. Gã nhận lời sang Paris, đổ bộ vào khách sạn George V với cả bầy tì thiếp bận đồ dù chiến. Ute không đi cùng được. Đang ở Copenhague với bố. Hay Stockholm cũng nên. Dù ở đâu hai bố con chác đang du ngoạn trên các mái nhà Scandinaves, thước gập trên tay.
— Chỉ một mình anh cùng đủ. Tôi không đến nỗi khó tính.
Tôi trình bày ý định dựng một sân quần vợt hoàn chỉnh: Phủ nền, lưới, cọc, rào... tốn khoảng hai mươi mốt nghìn đôla, chưa có mái. Đó là giá trung bình xác định được qua hỏi giá độ nửa tá chủ hãng xây cất khác nhau. Tất nhiên nếu không chỉ dựng có một mà hàng trăm, thậm chí hàng ngàn sân thì giá có thể hạ hơn.
— Vẫn theo tôi chứ, chàng Thổ?
— Theo từng bước chân.
— Bây giờ tính đến sàn lợp mái. Theo bọn của Rosen cho biết...
Tôi kê một lô con số dài dằng dặc. Rút cục gã Thổ chỉ ghi nhớ có một.
— Thu hồi vốn sau khoảng một năm. - Gã nhẩm tính.
— Đúng. Nhưng có thể còn nhanh hơn. Bằng cách tự ta xây cất sân. Chàng Thổ có thấy đây là áp phe có lời, ngay trong trường hợp ta thuê làm sân?
— Hình như thế.
— Cậu vẫn đi với mình chứ?
— Vẫn đi.
— Cả Ute nữa?
— Chân cẳng cô ta như thế, còn đi trước cả chúng mình ấy chứ.
— Nếu ta làm sân lấy, còn được lời hơn nhiều.
— Tôi hãi công việc chân tay lắm.
— Rosen đã lùng được một xí nghiệp rất thích hợp với ta: Một công ty chuyên xây cất bể bơi và sân quần vợt cho tư gia. Ta sẽ mua lại cổ phần của họ. Mua phần lớn.
— Công ty Mỹ?
— Ừ. Được phép làm ăn không những ở New York mà cả Los Angeles và Denver.
— Bao nhiêu?
— Chia đôi. Mình năm mươi mốt, Ute và cậu bốn chín. Cô cậu chia chác với nhau.
— Năm mươi năm mươi.
— Cậu tưởng mình chịu à? Ý của mình nghĩ ra.
Gã cười:
— Xong ngay. Phải bỏ ra bao nhiêu?
— Hai đơn vị.
— Hai triệu đôla?
— Không, trực thăng “quả chuối”. Chịu không?
— Nếu anh cho phép, tôi xin đến tận nơi xem sao đã. Với giá như vậy..."
Tôi nghĩ bụng: Gã sẽ làm thế. Hơn nữa tôi cũng mong gã sẽ làm thế cho. Gã càng nhập cuộc bên tôi, tôi càng chắc tay hơn, ít ra cũng trong áp phe quần vợt này. Gã Thổ tuy không đủ tài đối đầu trực diện với Maryin Yahl, nhưng có gã sau lỗ châu mai thành lũy cũng thêm phần vừng chãi. Tất nhiên trừ phi gã đã đứng vào phe Yahl. Và phản bội tôi. Gã thuộc loại rất có thể làm chuyện đó.
Li và Liu từ San Francisco gọi điện. Nhất quyết muốn tôi cùng chia cuộc cười như điên của họ. Báo tin: Đang dàn dựng những cảnh kỹ xảo đặc biệt cho Săn Thú. Đại khái đã cùng các chuyên viên kỹ thuật hoàn tất những dàn tinh tinh máy rất kỳ diệu biết nhe răng gào huba huba và khi những quái vật cao hai mét rưỡi đấm vào ngực, thiên hạ sẽ nghe tiếng đàn định mệnh của Beethoven[19] gõ cửa.
— Gọi anh không phải vì những cái đó. Mà vì bọn Tarzan.
Tôi vẫn nhớ việc liên quan đến các chàng Tarzan. “Các” là số nhiều. Tôi hỏi:
— Tại sao phải có nhiều Tarzan thế? Độ bao nhiêu?
— Khoảng ba trăm. Và cũng chừng ấy cô Jane. Nhiều Jane hơn Tarzan nữa kia, các ả đều bận quần xà lỏn bé tẹo bằng da hổ.
Châu Phi làm quái gì có hổ, nhưng thôi cho qua.
— Thì sao?
— Ba trăm chàng Tarzan cộng bốn trăm nàng Jane, vị chi bảy trăm mống. Cộng thêm số đóng thay nữa thành một ngàn. Tốt nhất là tuyển diễn viên chuyên nghiệp đang thất nghiệp cả đám. Nhưng diễn viên chuyên nghiệp có nghiệp đoàn của họ...
Hai thằng điên ở đầu dây đằng kia cười sặc sụa, không nói tiếp được.
— Thì sao?
— Nghiệp đoàn đặt điều kiện: Mười tám phẩy sáu phần trăm số Tarzan và Jane của ta phải là người da đen.
Chú thích:
[19] Ludwig Van Beethoven (1770 -1827) nhạc sĩ thiên tài Đức.