← Quay lại trang sách

Chương 9

Gã ở Mombasa bên Kenya tên là Chandra. Bên Uganda, ở Kampala cũng tên như thế nhưng không phải gã ấy, gã này là em họ gã kia.

— Anh tôi đã nói nhiều với tôi về anh.

Không phải tôi tự ấn định ngày lên đường là 18 tháng mười một. Khi gọi Chandra 1 ở Mombasa hỏi xem anh ta có quen biết ai, anh ta giới thiệu Chandra 2. Cũng sắp sang Kampala về chuyện làm ăn. Vậy sao không cùng đi với anh ta?

— Anh tôi khen ngợi anh hết lời. Phần lớn của cải hiện có là nhờ tay anh gây dựng.

Chandra 2 là ngươi Ấn Độ ở Uganda. Bị trục xuất cùng với hàng ngàn đồng hương hồi 1972, khi chính quyền Uganda quyết định đuổi khỏi đất nước những người Châu Á nắm độc quyền thương mại và công nghiệp.

— Tuy chính thức tá túc ở Toronto nhưng tôi trở lại đấy luôn. Rất đều đặn là khác. Ở đây có nhiều việc để làm ăn mặc dầu tất cả những chuyện đang diễn ra. Tôi có nhiều bạn, kể cả trong đám quan to.

Chúng tôi hẹn gặp nhau ở sân bay Entebbe, anh ta từ Nairobi sang, tôi từ Paris tới. Cùng nhau dễ dàng lọt qua vòng kiểm soát của hải quan và cảnh sát dưới cặp mắt gườm gườm của bọn nhà binh. Chandra giảng giải: Bọn này không phải người Uganda thứ thiệt mà là dân Anyanya, bộ lạc trên lý thuyết theo Thiên Chúa Giáo gốc

ở Nam Soudan hiện là nòng cốt vững chắc của quân đội. Tôi nhìn xung quanh với con mắt tò mò không hoàn toàn thanh thản. Mới cách đây không lâu, hồi tháng bảy 1976 một đội biệt kích Israel đã dùng vũ lực loại lại hành khách trên chuyến bay của hãng hàng không Pháp bị người Palestine cưỡng chiếm, vết đạn vẫn còn rõ. Tim tôi thót lại: Tại sao tôi dẫn xác tới đây. Chắc Chandra đoán biết tâm trạng lo lắng của tôi, anh mỉm cười: “Không xảy ra chuyện gì đâu ông Cimballi, tôi tin chắc như vậy - ”Gọi tôi là Franz“. Qua các trạm soát, ra đến ngoài. Trời không nóng bức lắm như đã dự kiến, chắc vì độ cao một nghìn ba trăm mét và hơi ẩm từ hồ Victoria cạnh đấy thổi vào. Sau một lúc trà trộn trong đám người da trắng hình như là người Liên Xô, chúng tôi được một chàng da đen lịch sự thắt cravate tới đón. Anh ta đối xử với Chandra như anh em. Tên là Yusuf Mwamba, một quan chức cỡ bự ở Bộ Công Nghiệp. “Sắp lên bộ trưởng đấy, xứng đáng lắm”...

“Còn về việc của anh, xin báo một tin rất mừng: Đáp lại yêu cầu của anh muốn tiếp xúc với những người phụ trách việc sản xuất và xuất khẩu cà phê của Uganda, tôi giới thiệu anh bạn Yusuf, đây là nhân vật mạnh nhất trong lĩnh vực này...”.

(Tôi nghĩ bụng: Không biết tình bạn mùi mẫn này che đậy những mánh mung gì. Và tự hỏi: Không biết tôi sẽ mất độ bao nhiêu tiền lót tay).

“... Trong lĩnh vực này. Chỉ thua kém có một người. Tin mừng lớn nhất đây: Anh sẽ được hội kiến ngài Thống Chế”.

Thiên hạ đầu cơ cà phê cũng như họ đầu cơ các mặt hàng khác. Nghĩa là thế nào? Ồ, rất đơn giản: Nghĩa là bạn có thể mua cà phê từ trước mùa hái quả - mỗi năm chỉ có một vụ hái, nên mọi giao dịch mua bán cà phê của năm nay được tiến hành từ năm ngoái. Nếu để sau khi thu hái mới mua thì chẳng còn tác dụng gì, vì lúc ấy mọi người đều đã biết sản lượng, biết nhu cầu và do đó mà biết rõ giá cả rồi. Có thể vớ bẫm cũng có thể sạt nghiệp vì cho đến ngày cuối cùng vẫn chưa biết sản lượng vụ thu hoạch lời đích xác là bao nhiêu. Giá cả trên thị trường tất nhiên còn bị ảnh hưởng của các hoạt động kinh doanh tiền tệ thuần túy nhưng ta có thể nói đơn giản như thế này: Nói chung cà phê tăng giá nếu cung không đủ cầu và giảm nếu trúng vụ. Vì thế, người mua hoặc bán cà phê đều dựa vào dự đoán giá cả thị trường sẽ tăng hoặc giảm, họ có thể thu lãi lớn mà cũng có thể lỗ to. Mặt khác, cần nhớ rằng các nước sản xuất cà phê phần lớn đều không phải là những hình mẫu về sự ổn định chính trị, nên khả năng bất trắc càng có nhiều. Thị trường này đòi hỏi phải có thần kinh thật vững. Một thị trường đầy rẫy hiểm họa, tôi đã biết thế từ lâu.

Yếu tố then chốt lại là nạn băng giá. Cần biết rằng cây cà phê bị đóng băng ở 0 độ C; khi đã bị chỉ còn nước nhổ lên và đem làm củi; những cây dặm lại phải sau bốn năm mới cho quả. Như thế có nghĩa là nếu trong năm xảy ra băng giá thì trên thị trường của năm ấy và của cả ba năm tiếp theo giá cà phê sẽ bị ảnh hưởng lớn.

Chắc bạn đặt câu hỏi: Cà phê chủ yếu được trồng ở các nước nhiệt đới khả năng bị băng giá rất ít, có thể nói là không có? Không phải thế. Vì cây cà phê chỉ chịu được độ nóng vừa phải thôi nên các nhà sản xuất thường trồng trên các cao nguyên bên Mỹ La Tinh, Brazil, Colombia, Mexico. Cứ mỗi trăm ký được đưa ra thị trường thì có gần một nửa xuất xứ từ Brazil, Colombia và Mexico.

Mua bán cà phê chủ yếu theo phương thức mua chịu bán chịu có thời hạn. Mỗi khu vực trên thế giới lại chuyên doanh một loại cà phê nhất định. Thị trường New York kinh doanh loại Arabica trồng nhiều ở Trung và Nam Mỹ. Mỗi hợp đồng tối thiểu mười bảy tấn, đơn giá tính theo livre. Ký hợp đồng qua trung gian những người môi giới, họ buộc phải ký quỹ mười phần trăm; ngoài ra nếu cần thì hàng ngày còn phải nộp bổ sung cho đủ tỉ lệ tiền ký quỹ, đáp ứng sự trượt giá, được gọi là những “đòi hỏi bên lề”, margin calls. Cổ điển.

Với cà phê Robusta cũng vậy, loại này được trồng nhiều ở Bờ Biển Ngà, Angola, Uganda, ít hơn một chút ở Cameroun, Zaïre, Madagascar, Kenya, Tanzanie.v.v... Tiêu thụ trên thị trường London, Hamburg, Rotterdam và Le Havre. Hợp đồng tối thiểu là năm tấn, đơn giá tính theo tấn.

Tôi nhảy vào thị trường cà phê trên cơ sở hai dữ kiện mà tôi đã và vẫn cho là rất quan trọng. Nhiều hứa hẹn sinh lợi. Thứ nhất là thông tin do Rosen cung cấp hồi tháng ba vừa rồi. Theo anh, Brazil và Colombia có thể sắp thành lập một thứ OPEP về cà phê, giống như tổ chức các nước sản xuất dầu mỏ và cũng nhằm mục đích ổn định giá, thậm chí còn làm tăng giá cà phê. Thông tin này rất chính xác: OPEP cà phê đã ra đời.

Thứ hai: Tình hình chính trị các nước sản xuất cà phê hàng đầu. Nước thì thực hiện thuyết “cách mạng không ngừng”, nước thì bị nội chiến chia sẻ như Angola, nước thì nằm dưới quyền những nhân vật có trình độ khoa học kinh tế và tài chính chứa không hết chiếc đĩa bốn lăm vòng, còn thừa khối chỗ cho âm nhạc. Đó là trường hợp Uganda, nước này muốn xuất khẩu phải phụ thuộc một cách thảm hại vào con đường huyết mạch (đường bộ và đường sắt) chạy qua lãnh thổ Nairobi, Kenya ra Ấn Độ Dương. Nhưng giữa Kenya và ngài Thống chế - Tổng Thống - Bác sĩ - Giáo sư.v.v... đang có nhiều trục trặc. Nairobi đòi phải trả tiền quá cảnh mỗi thứ hàng hóa của Uganda sang Mombasa bằng ngoại tệ chuyển đổi. Uganda trả đũa: Cắt dòng điện vẫn cung cấp lâu nay cho Kenya (điện từ nhà máy trên đập Jin Ja được xây dựng ở nơi nước hồ Victoria đổ vào sông Nil). Kenya đáp lại bằng cách rút ra khỏi cộng đồng kinh tế Kenya - Uganda - Tanzanie.

Thêm vào đó là tình hình mất an ninh trên lành thổ Uganda và việc ngài Thống Chế - Tổng Thống quyết định tăng giá cà phê.

Các yêu tố đó đưa đến hậu quả: Việc xuất khẩu cà phê của Uganda gặp khó khăn lớn. Nếu tôi ở địa vị Martin Yahl, tình hình trên đây nhất định sẽ làm tôi chú ý và tìm cách gài bẫy Cimballi. Điều đó giải thích tại sao Marc Lavater và tôi đều cảm thấy nghi hoặc. Tôi bèn nghĩ cách kiểm tra xem Yahl có mưu mô gì không. Khi trao đổi với Marc về việc tôi sắp tiến hành, anh ta lập tức vừa nhướng lông mày vừa nhún vai. Kể ra, cũng có lý do thật. Nhưng xưa nay tôi có sợ ai khi trong đầu xảy ra những ý định kỳ cục.

Thực tế sự việc thật đáng tức cười. Chúng tôi đang đối mặt nhau, nếu có thể nói như thế, ông ta cao cần hai mét, nặng một tạ tư, tôi thấp hơn ba tấc, nhẹ hơn tám yến thịt. Trước đó tôi hình dung ông mặc bộ đồ Thống Chế kiểu Offenbach, nhưng không, ông chỉ mặc quần tây áo sơmi như mọi người. Ông ngồi sau bàn giấy, nhưng không mời tôi ngồi xuống, cứ để tôi phải đứng. Cùng đi với tôi có Chandra 2 và Mwamba, trong phòng còn có hai người nữa trong đó có một người tôi tin chắc là dân Palestine (Chandra 2 có tiết lộ với tôi rằng phần lớn vệ sĩ của Thống Chế là người Palestine, điều này làm tôi luôn nơm nớp).

— Anh đã từng sang Kenya?

— Ở Nairobi và nhất là ở Mumhasa.

Tay ông ta xoắn chặt chiếc thước sắt rồi lại nới ra.

— Tôi cũng có ở bên đó, cách đây ít nhất đã hai chục năm. Đã thịt nhiều tên Mau Mau và bọn ăn trộm gia súc.

Rồi ông ta thuật lại cách đối xử với những kẻ lọt vào tay ông khi ông chỉ huy một đơn vị của người Anh giao cho ông. Đủ mọi chi tiết kinh người. Nếu ý đồ của ông ta là làm tôi chết khiếp thì rõ ràng ông đã đạt được mục đích, không nghi ngờ gì nữa. Tôi đã cảm thấy hoàn toàn bối rối. Ông ta bỗngcười phá lên:

— Anh đang lo hả?

Tôi đáp: Ông gây ấn tượng thật mạnh. Xem ra đó là câu trả lời thích hợp. Ông ta tỏ vẻ hài lòng, chuyển hướng câu chuyện hỏi tôi có thạo nước Anh không. Có à? Thế ý kiến của tôi về nền độc lập của xứ Scotland thế nào? Tôi có biết ông ta sắp giúp người Scotland thoát khỏi tay chủ nghĩa đế quốc Anh không? Cả người Ireland nữa. Và người xứ Wales nữa. Tôi định hỏi: Thế người Jersey và Guernesey thì sao. Không được gì à? Nhưng tôi im lặng. Đây không phải lúc tỏ ra mình ranh ma.

— Anh quan tâm đến cà phê hử? Tại sao?

— Tại vì tôi đã bán một số cà phê hiện chưa có trong tay, và phải nhiều tháng sau mới giao hàng. Độ tháng chín tới.

(Thực ra, tôi đã nói trái hẳn với việc tôi đã làm, vì tôi mua vào chứ không bán ra. Nhưng lúc này tôi đang sắm vai Yahl).

— Anh bán cho ai vậy?

Bọn chủ lò rang, không phải bọn Anh mà Thụy Sĩ (tôi hy vọng ông ta không kình bọn Thụy Sĩ). Nếu sang tháng chín vừa vặn khi đến kỳ hạn phải giao hàng theo hợp đồng đã ký, giá cà phê hạ xuống, tôi sẽ mua vào để hôm sau sẽ bán ra, có thể bán ra ngay trong ngày cũng nên, nhưng không bán theo giá tháng chín mà theo giá ghi trong hợp đồng ký trước đó một năm.

— Anh bao nhiêu tuổi?

Tôi nói tuổi. Im lặng. Ông ta vẫn nghịch chiếc thước sắt, tôi bỗng có cảm tưởng hết sức khó chịu: Nếu thích thú, ông ta có thể quật chiếc thước này vào mặt tôi. Nhớ đến Dora Bloch, con tin trên chiếc máy bay ở Entebbe, bị mất tích không tìm ra dấu vết gì.

Sau đó mới đến câu hỏi tôi chờ đợi mãi và đã chuẩn bị sẵn câu đáp lại; tôi phải đi đến tận đây cũng vì nó: Chuyện buôn bán của tôi liên quan gì đến Uganda?

Đáp:

— Vì Uganda là một nước chính sản xuất cà phê trên thế giới. Nên có nhiều cà phê, có dự trữ trong kho nữa. Nếu trong mấy tháng nữa, trước khi tôi kết thúc hợp đồng riêng của tôi, bỗng nhiên số cà phê dự trữ của Uganda tràn ra thị trường thì giá cà phê sẽ hạ xuống rõ rệt.

— Và anh sẽ kiếm được nhiều tiền. Và sẵn sàng chia chác số lãi đó với người nào tiếp tay cho anh chứ gì?

Nhìn mắt ông ta tôi biết mình bắt đầu làm ông ta bực. Ông ta bật dậy, đi vòng chiếc bàn qua bên tôi sát sạt, gần chạm người tôi; tôi thấy mình chỉ là chiếc xuống vỏ cây bé tẹo bị con tàu sân bay vượt qua.

— Anh tên là Cimballi? Franz Cimballi phải không?

Tôi khúm núm xác nhận, thưa gửi Đức Ngài, thưa Tổng Thống, Thống Chế, Bác Sĩ Giáo Sư... thưa cả mớ, lung tung, lộn xộn, nhớ gì thưa nấy.

Ông ta trở lại chỗ ngồi. Thoạt đầu còn nói năng từ tốn giảng giải; Uganda là nước trong sạch, đã được ông ta, người con vĩ đại nhất từ trước tới nay của tổ quốc quét dọn sạch sẽ hết mọi rác rưởi, ông đã hiến dâng cả cuộc đời cho cuộc đấu tranh chống sa đọa tham nhũng và thói chạy theo lợi nhuận. Sau đó ông ta mỗi lúc mỗi lớn tiếng; tuyên bố thẳng thừng: Ông không có nhiều ý nghĩ tốt đẹp về tôi, sự cả gan của tôi là quái gỡ, nếu tôi là công dân Uganda thì nhất định sẽ bị lôi thôi to. Tuy ông ta không gầm lên để tống cổ tôi ra cửa, nhưng cũng chẳng khác gì.

Tiếng tăm của tôi trong vùng bỗng sụt hẳn xuống. Yusuf Mwamba sực nhớ ra một cuộc gặp khẩn cấp. Chandra 2 bỏ qua những lời thiên hạ ca tụng tôi, lánh xa như thể tôi bị mắc bệnh truyền nhiễm. Bảo tôi: “Tốt hơn hết là ông nên nhảy lên chuyến bay đầu tiên rời khỏi đây”.

Ý kiến hay tuyệt!

*

Tôi đã ký quỹ ba triệu đôla tiền mua cà phê, bằng mười phần trăm tổng giá trị của hợp đồng. Tức là sẽ được mua ba mươi triệu đôla cà phê, một trăm ba lăm triệu franc Pháp, mười ba tỉ năm trăm triệu xu. Sẽ nhận hàng vào tháng chín tới.

Tôi ký hợp đồng với thị trường New York và London, mua Arabica và Robusta: Ở New York sáu chục phần trăm, London bốn chục. Theo lệ, tôi không đứng tên mà do bộ máy xưa nay vẫn hoạt động cho tôi: Công ty vô danh ở Panama. Công ty này là một bộ phận của công ty vô danh ở Curacao, và công ty Curacao này lại chỉ biết có ngân hàng của tôi ở Nassau.

Vẫn còn những rủi ro trên thị trường. Trong trường hợp khốn nạn nhất - giá cà phê sụt mạnh trong lúc tôi lại đặt cuộc vào sự lên giá - tôi vẫn chẳng cần nghĩ đến chuyện tự tử. Tôi sẽ mất đứt tiền đặt cọc là cái chắc, có thể mất thêm cả tiền bổ sung trượt giá nữa. Nghĩa là mưu của Yahl có thể làm tôi thiệt độ ba triệu, nhiều nhất cũng chỉ đến năm, sáu triệu đôla là cùng. Chẳng vui thú gì nhưng cũng chưa đến nỗi khánh kiệt. Nhưng liệu lão có mẹo gì? Vừa rồi sang Uganda, tôi đã hành động đúng như Martin Yahl hoặc tay chân của lão có thể làm. Tôi không xuất hiện với tư cách người đang cầu giá cà phê tăng, tuy thực sự tôi thuộc loại này, mà với tư cách người của phe đối địch. Ngỏ ý với Yusuf Mwamba, sau đó (điều đáng ngạc nhiên là chỗ này đây) với Thống Chế, Tổng Thống rằng tôi sẵn sàng chi tiền nếu họ làm giảm giá cà phê xuống trước tháng chín sắp tới. Kết quả thật đầy sức thuyết phục: Các vị Uganda đã tống tôi ra khỏi cửa không cần xét xử gì.

Đó chính là điều tôi mong ước. Nếu mai kia, lão Yahl, tên Horst hoặc một tên nào khác dẫn xác đến gạ gẫm họ như tôi đã làm, nhất định hắn ta cũng chịu chung số phận như tôi. Tôi yên tâm.

***

Marc Lavater đến tìm khi tôi vừa ở Châu Phi về. Tôi thuật lại buổi hội kiến với vị nguyên thủ Uganda. Anh nhận xét:

— Hơi liều!

— Ông ta cũng liều: Có thể lây cúm của tôi.

— Tôi biết anh đã ghé Bờ Biển Ngà trước khi về đây.

Khi rời Kampala tôi có tạt qua Abidjan thật. Vì trên thị trường cà phê thế giới Bờ Biển Ngà có vai trò rất lớn. Gặp bốn người đều là chuyên viên thực thụ trong sản xuất, xuất khẩu và định giá cà phê của xứ này trên thị trường thế giới. Với từng người tôi đều tán tỉnh như đã làm bên Uganda, tuy lời lẽ có thận trọng hơn. Ngụ ý tôi sẽ rất biết ơn những vị giúp tôi thực hiện một mánh lớn về cà phê trong mấy tháng tới.

Tôi còn trắng trợn tỏ ra thực sự đốn mạt khi dử mồi mấy trăm ngàn đôla, hứa sẽ trả công sự giúp đỡ ấy và sẽ kín đáo gửi tiền vào một tài khoản bên Thụy Sĩ hoặc bất cứ đâu. Hai người trong số họ xỉ vả tôi thậm tệ, chỉ có một người ưng thuận nhưng ngay sau đó đã cho thấy rõ anh ta không đủ sức thực hiện các tham vọng bất lương của mình, còn người thứ tư thì cười thẳng vào mũi tôi, coi tôi là thộn. “Bờ Biển Ngà không phải là Uganda. Mà muốn thực hiện mánh của anh tưởng tượng ra, phải mua được cả Ngài Tổng Thống mới ăn thua. Tôi đến chết cười vì ông, ông Cimballi ạ”. Đến nỗi cuối cùng tôi phải thú thật, rằng tôi đang thử điều tra xem có một đòn ngầm nào đấy đang được chuẩn bị không. Anh ta cho biết: “Nếu có, cũng không phải ở đây”.

Tóm lại, thất bại hoàn toàn. Một thất bại làm tôi mừng không để đâu cho hết. Vì tôi đóng vai Yahl. Trong lúc đứng đợi hành lý, Marc bảo: “Đáng lẽ chả cần đi Abidjan. Bên ấy khác với Uganda. Nhưng thôi, đã lỡ rồi, anh đã làm họ phì cười, bọn ở Cocody ấy, nhưng cũng đã làm họ sinh nghi. Từ nay họ sẽ theo dõi chặt thị trường.”

— Cả bên Uganda cũng thế.

— Hẳn vậy. Anh gặp ai bên đó?

— Yusuf Mwamba.

— Đúng tên ấy. Tôi đã nghe nói về hắn. Hắn là con người của tình thế. Cà phê Uganda tức là hắn không phải ai khác. Anh hố rồi, vấn đề tế nhị thế mà anh giải quyết quá vụng về như dẫm chân lên đĩa người ta.

— Dẫm lên chén thôi.

— Buồn cười quá, cười đau cả bụng.

Marc tủm tỉm cười với tôi, tôi mỉm cười với anh ta, tình bạn được khôi phục. Đúng lúc ấy, qua vai Lavater, tôi bỗng trông thấy ở cách xa mười mét, giữa đám đông người qua đường, đôi mắt đen láy của cô gái Amsterdam và San Francisco, đích thị cô Sharon Maria De Santis. Tôi buột miệng kêu lên trong khi cô ta bấm máy liên hồi. Marc quay lại:

— Nó đâu?

Không lẽ anh ta không nhìn thấy cô ả. Vô lý, và đáng bực mình, một mình cô ả nổi bật rõ mồn một, vả lại cô buông máy quay lưng lại rồi bỏ đi, không quên tặng tôi nụ cười mỉa mai. Rồi biến trong đám đông.

— Mình chẳng nhìn thấy gì sất, Marc bướng bỉnh nhắc lại.